✨Lưu Sưởng (Nam Hán)

Lưu Sưởng (Nam Hán)

Lưu Sưởng (; 943-980), hay Nam Hán Hậu Chủ (南漢後主), là vua thứ tư và là vua cuối cùng của nước Nam Hán thời Ngũ đại Thập quốc trong lịch sử Trung Quốc. Ông ở ngôi từ năm 958 đến năm 971 thì bị mất nước về nhà Tống.

Thân thế

Lưu Sưởng là con trưởng của Nam Hán Trung Tông Lưu Thịnh. Ông còn có tên khác là Lưu Kế Hưng. Chưa rõ mẹ ông là ai.

Ngày Tân Tị (3) tháng 8 năm Mậu Ngọ (18 tháng 9 năm 958), khi ông 16 tuổi thì vua cha Hán Trung Tông qua đời. Lưu Sưởng lên kế vị.

Tin dùng hoạn quan

Lưu Sưởng được đánh giá là một vị vua nhu nhược, không có tài năng và không có chí lớn. Khi mới lên ngôi, ông dùng các đại thần triều trước là Cung Trừng Khu và Trần Diên Thọ quyết định việc nước.

Lưu Sưởng được hưởng phú quý từ nhỏ, ông cho rằng các quần thần chỉ lo cho gia đình mình, sẽ không trung thành với vua, chỉ có hoạn quan là đáng tin cậy. Vì vậy, ông chỉ tin dùng hoạn quan, còn đối với các đại thần đặt ra chức vụ chỉ để làm vì. Những người có tài năng mưu lược không được trọng dụng.

Ông rất yêu thích các tượng thần đủ mọi tư thế, muốn được ở trong đội ngũ đó. Vì vậy ông cho gọi thợ đến đúc tạc tượng mình để đưa vào Huyền diệu quán. Nhưng 2 lần đúc đầu, ông đều cho rằng không giống mình nên đã giết chết những người thợ tạc tượng. Đến lần thứ 3 ông mới ưng ý và đưa vào trong quán.

Hưởng lạc

Lưu Sưởng ham sắc, phong cho người hầu của cha là Lê Quỳnh Tiên làm tài nhân và cho dự việc chính sự. Việc phê duyệt tấu chương của ông phần nhiều nghe theo lời Quỳnh Tiên.

Hoạn quan Lý Thác mang hai con gái vào cung hầu vua, vì vậy cũng được phong làm Nội Thái sư, lục quân dung quan thứ.

Lý Tố Hinh con gái Lý Thác được phong hoàng hậu không lâu thì qua đời. Hoạn quan Hứa Nhan Chân muốn mua vui cho vua, bèn sai người ra nước ngoài tìm được một cô gái người Ba Tư, nhan sắc của người này đặc biệt nổi trội, đường nét trên gương mặt vô cùng lộng lẫy. Đặc biệt nhất là vóc dáng rất đầy đặn. Lưu Sưởng rất yêu thích cô gái này sau cái nhìn đầu tiên. Sau một thời gian vừa ý, Lưu Sưởng phong cho người cung nữ Ba Tư làm "Tiên nhân đại phu", và vì vóc dáng mũm mĩm của mỹ nhân nên gọi thân mật là "Mi Trư" (con lợn đáng yêu).

Dựa trên Thanh Dị Lục - Tống Sử, Mi Trư được mô tả là một mỹ nhân với làn da nâu, thông minh lanh lợi, ca hát say đắm lòng người và đặc biệt nhất là có kỹ năng phòng the tuyệt đỉnh. Chính vì vậy mà Mi Trư có thể chiếm được ân sủng đặc biệt của một người ham mê tửu sắc như Lưu Sưởng.

Theo một tài liệu, để lấy lòng vua, Mi Trư đã chọn ra 9 nữ nhân có phong thái hơn người đưa vào cung. Sau đó, Lưu Sưởng đã lần lượt đặt tên cho họ là Mi Dương, Mi Ngưu, Mi Tượng, Mi Mã,... gọi chung là "Thập mi nữ".

Kỳ quặc hơn cả là Lưu Sưởng đã từng chủ động tìm kiếm mỹ nam khắp đất nước và đưa vào cung ân ái với sủng phi Mị Trư của mình.

Lưu Sưởng ngày đêm hưởng lạc, lại thích thú chuyện quan hệ nam nữ, nên tuyển nhiều con trai đưa vào cung, sai hành lạc với các cung nữ để mua vui. Các cung nữ được vua yêu quý đều có chức tước và áo mũ như quan lại, thậm chí có người có danh hiệu thái sư, thái phó.

Để tăng sự hưởng lạc, Lưu Sưởng sai xây điện Vạn Chính rất xa hoa tốn kém, chỉ riêng trang trí cột đã tốn 3000 thỏi bạch kim, không chịu nổi sự hưởng lạc xa hoa của Lưu Sưởng.

Ông còn nghe theo lời Trần Diên Thọ, vu tội giết hết các anh em mình để ngăn chặn nguy cơ bị cướp ngôi. Ông lại đặt ra nhiều hình phạt tàn khốc như thiêu, dóc thịt, chặt khúc, bắt phạm nhân đánh nhau với hổ, voi. Vì vậy trong nước nhiều người oán hận ông.

Hại trung thần

Năm 960, nhà Tống lên thay nhà Hậu Chu. Tống Thái Tổ lần lượt chinh phục các nước phía nam, bờ cõi tiến sát đến hai nước Nam Đường và Nam Hán. Trước nguy cơ đó, Thiều Đình Quyên khuyên Lưu Sưởng nên chuẩn bị giáp binh kháng cự và sai sứ đi giao hảo với nhà Tống. Tuy nhiên Lưu Sưởng không nghe theo.

Năm 964, Lưu Sưởng bỏ qua lời Thiều Đình Quyên, cho rằng mình có sức mạnh, bèn mang quân đánh phá Đàm Châu, bị tướng Tống là Phan Mỹ đánh bại.

Tháng 9 năm đó, Phan Mỹ mang quân đến đánh Sầm Châu, tướng giữ Sầm Châu của Nam Hán là Túc Nhan Hôn và thứ sử Lục Quang Đồ đều tử trận, tàn quân bỏ chạy về Thiều châu.

Lưu Sưởng nghe tin bại trận rất lo lắng và hối hận không nghe lời Thiều Đình Quyên, bèn phong Quyên làm Chiêu thảo sứ, sai mang quân thủy tới Quang Khẩu để đối phó với quân Tống.

Sau khi chiếm Sầm châu, Phan Mỹ cũng dừng binh không tiến sâu nữa, còn Đình Quyên ra trấn thủ cũng chiêu nạp thêm người vô gia cư làm binh lính, tạm giữ yên được biên giới. Nhưng không lâu sau lại có người gièm pha rằng Đình Quyên chiêu binh là có ý đồ làm phản. Lưu Sưởng không phân biệt thật giả, sai ngay sứ giả mang rượu độc đến Quang Khẩu cho Đình Quyên. Đình Quyên uất ức tự sát, quân lính tan rã không có lòng chiến đấu nữa.

Cự tuyệt vua Nam Đường

Năm 970, Lưu Sưởng lại mang quân sang đánh Đạo châu của nhà Tống. Thứ sử Đạo châu là Cương Kế Huân tâu lên Tống Thái Tổ xin cất đại quân đánh Nam Hán.

Tống Thái Tổ ngại vùng Lĩnh Nam xa xôi hiểm trở, chưa muốn dùng binh, muốn thông qua vua nước Nam Đường đã thần phục mình là Hậu Chủ Lý Dực tác động tới Lưu Sưởng. Lý Dục sợ oai nhà Tống, nhận được thư của vua Tống bèn sai Phan Hựu viết thư cho Nam Hán Hậu Chủ như sau: :"Tôi với túc hạ là láng giềng. Tiếp tục minh ước của cha ông ta, tình chúng ta như anh em. Vinh nhục có nhau, sướng khổ cùng chịu. Vừa qua tôi nhập cống Tống, vua Tống bảo tôi nói với túc hạ không được động can qua nữa. Nếu từ bỏ ý đồ thì sứ giả đi xe hoa, mà hàng trăm vạn quân không phải điều động nữa. Nếu không, sẽ xảy ra bất trắc. Tôi thấy vua Tống không phải tham đất, mà là oán giận túc hạ không giữ cái lễ của kẻ bề tôi".

Hậu Chủ đọc thư, cho rằng Tống Thái Tổ nói suông 100 vạn quân để dụ hàng, nên viết thư trả lời Lý Dực tỏ ý không đầu hàng Tống. Lý Dục báo lại cho nhà Tống. Tống Thái Tổ lại viết thư cho vua Nam Đường, sai lựa lời nói với Nam Hán lần nữa. Lý Dục lại viết thư cho ông: :"Hoàng đế nhà Tống lại bảo tôi chuyển lời cho túc hạ, hôm nay nạp lễ vẫn chưa muộn. Nếu không hiểu ra, mùa thu này binh lính dưới thành, hậu quả không thể lường được. Tống đã cho phép thông hiếu, vậy thượng sách là hòa không đánh, hà tất phải tranh hùng. Khuyên túc hạ nghĩ lại mà cẩn thận."

Lưu Sưởng triệu tập các hoạn quan lại bàn bạc. Các hoạn quan bàn rằng Nam Hán tuy không rộng bằng Tống nhưng địa thế hiểm trở, quân Tống chưa dễ đánh được. Lưu Sưởng tin theo, bèn viết thư trả lời vua Nam Đường với lời lẽ kiêu ngạo và bắt giam luôn sứ giả Nam Đường.

Thấy Lưu Sưởng kiêu ngạo, Lý Dực một mặt sai sứ báo cho Tống Thái Tổ, mặt khác vẫn tự mình viết thư phân tích lợi hại một lần nữa nhưng không kết quả. Vua Tống thấy sứ Nam Đường lại tới, biết rằng Lưu Sưởng không khuất phục, bèn quyết định khởi đại binh đánh Nam Hán.

Bại binh

Tháng 9 năm 970, Tống Thái Tổ phong Phan Mỹ làm Gia châu đạo hành doanh binh mã đô bộ thử, Y Sùng Kha làm phó; điều động các châu quận tập hợp binh mã về Gia châu. Phan Mỹ chia quân làm 4 đạo tiến tới đồn Bạch Hà.

Tại Nam Hán, các tướng giỏi nhiều người đã bị chết hoặc bãi chức vì gièm pha, nắm việc binh nhiều người là hoạn quan. Nghe tin quân Tống đến Bạch Hà, Lưu Sưởng sai Cung Trừng Khu ra phòng thủ Gia châu. Lúc đó quân lính Gia châu đói kém khổ cực, không đủ quần áo mặc, trông chờ Cung Trừng Khu ban thưởng động viên, nhưng không được gì. Vì vậy quân Gia châu chán nản, không còn ý chí chiến đấu. Cung Trừng Khu sợ hãi nhân lúc đêm tối lên thuyền trốn về Quảng Châu. Gia châu bị quân Tống vây chặt.

Lưu Sưởng nghe tin Gia châu nguy cấp rất sợ, đành triệu lại lão tướng Phan Sùng Triệt đã bị cách chức ra mặt trận. Sùng Triệt vốn bất mãn vì vô cớ bị bãi chức nên lấy cớ đau mắt không tiếp sứ giả. Lưu Sưởng phải điều Ngũ Nhạn Phu cứu Gia châu.

Ngũ Nhạn Phu tuy có chí nhưng tài năng có hạn, dẫn quân ngày đêm đi ra mặt trận. Đến nơi trời vừa tối, cho quân sĩ ngủ trên thuyền đợi đến sáng. Sáng hôm sau vừa lên bờ thì bị phục binh của Phan Mỹ kéo đến vây bắt gọn. Quân Nam Hán chết quá nửa, Nhạn Phu bị bắt chém, thành Gia châu đầu hàng.

Phan Mỹ phao tin đánh thẳng đến Quảng châu. Lưu Sưởng lại sai người đi triệu Phan Sùng Triệt lần nữa. Sùng Triệt không thể từ chối được, bèn lĩnh chức Nội thái sư, mang 3 vạn quân ra đóng ở Gia Giang.

Tháng 10 năm đó, Phan Mỹ đánh chiếm Chiêu châu. Thứ sử Chiêu châu bỏ chạy. Phan Mỹ tiến đánh luôn Quế châu, thứ sử Quế châu cũng bỏ thành chạy nốt.

Tháng 11, Phan Mỹ tiến về phía đông, đánh chiếm Liên châu.

Nghe tin mất 4 châu, Lưu Sưởng nói với các quan: :Quân Tống đánh được 4 châu đã thỏa mãn rồi, sẽ không tiến xuống phía nam nữa

Phan Mỹ tiếp tục hành quân đánh Thiều châu. Lưu Sưởng cử Lý Thừa Ốc làm đô thống, dẫn 10 vạn quân dàn trận ở núi Liên Hoa Phong chống lại. Quân Nam Hán dùng 10 con voi dàn trận phía trước, Phan Mỹ sai lấy nỏ bắn voi, voi quay đầu chạy. Quân Nam Hán bại trận, Thiều châu thất thủ.

Lưu Sưởng thấy nguy cấp quá, muốn đầu hàng, nhưng Lý Thác kịch liệt phản đối. Lưu Sưởng đành dùng kế đào hào đắp lũy cố thủ Quảng châu. Trong lúc vua Nam Hán không còn ai sai khiến thì một bà lão trong cung tiến cử con nuôi là Quách Sùng Nhạc. Lưu Sưởng bèn cho Nhạc làm Chiêu thảo sứ, cùng Thực Đình Hiếu mang 6 vạn quân ra Mã Kinh cự địch. Nhưng Sùng Nhạc không có tài cầm quân, chỉ biết thắp hương cầu thần phù hộ.

Tháng giêng năm 971, Phan Mỹ đánh chiếm Anh châu, Hùng châu. Phan Sùng Triệt không đánh mà hàng quân Tống.

Lưu Sưởng một mặt sai sứ cầu hòa, mặt khác chuẩn bị bỏ trốn. Ông sắp sẵn 10 chiếc thuyền, đưa vàng bạc châu báu lên thuyền, nhưng chưa sắp xong thì hoạn quan Lạc Phạm và hơn 1000 vệ sĩ đã cướp thuyền chạy trốn trước. (4 tháng 3) quân Tống tiến vào. Lưu Sưởng không còn đường thoát, phải cởi bỏ long bào, mặc áo vải, cưỡi ngựa trắng đến trước Phan Mỹ xin hàng.

Tù binh

Tháng 4 năm 971, Lưu Sưởng cùng hơn 100 người tông thất và các quan bị giải về Biện Kinh và bị giam ở vườn Ngọc Tân. Bị quan nhà Tống là Lã Duy Khánh thẩm vấn vì tội phản phúc không chịu sớm thuần phục, Lưu Sưởng bèn quy hết lỗi cho Cung Trừng Khu và Lý Thác.

Ngày 1 tháng 5, Tống Thái Tổ làm lễ nhận tù binh và mang ra nhà Thái miếu dâng công. Lưu Sưởng dập đầu nhận tội và nói với vua Tống: :Bọn Trừng Khu là bề tôi cũ. Thần không được tự quyết việc gì. Khi còn ở nước, thần là bề tôi, Trừng Khu là quân chủ!

Vua Tống bèn sai mang Cung Trừng Khu và Lý Thác ra chém. Mấy hôm sau, Tống Thái Tổ phong cho Lưu Sưởng làm Hữu thiên ngưu vệ đại tướng quân, Ân Xá hầu và tặng tiền, gạo cùng 16 chum châu ngọc. Để đền ơn vua Tống, Lưu Sưởng chọn ra những viên châu ngọc đẹp nhất kết thành con rồng đang bay lộn rất sinh động và tinh xảo như thật và đề rằng: "Châu long cửu ngũ yên (rồng ngọc cuốn khúc)". Sau đó ông mang dâng Tống Thái Tổ, đồng thời trả lại 16 chum châu báu.

Vua Tống hết lời khen con rồng đẹp, cho gọi các quan chế tác mỹ nghệ đến xem, ai cũng ca ngợi. Vua Tống bèn thưởng cho ông 1 triệu rưỡi tiền.

Lưu Sưởng khi còn làm vua nếu không vừa ý ai thường gọi đến mời rượu và bỏ sẵn độc vào để giết người đó. Vì vậy khi được Tống Thái Tổ mời rượu, Lưu Sưởng sợ toát mồ hôi, lạy lục xin tha tội. Vua Tống cười và sai người hầu lấy chén rượu từ tay Lưu Sưởng rồi tự mình uống cạn. Lúc đó ông rất hổ thẹn, nhận ra vua Tống không có ý hại mình.

Qua đời

Năm 980 đời Tống Thái Tông, Lưu Sưởng vì tửu sắc quá độ nên mang bệnh nứt nẻ khắp thân mình trong 9 năm. Thụy hiệu là Huệ hoàng đế. Sử sách gọi ông là Nam Hán Hậu Chủ.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Lưu Sưởng** (; 943-980), hay **Nam Hán Hậu Chủ** (南漢後主), là vua thứ tư và là vua cuối cùng của nước Nam Hán thời Ngũ đại Thập quốc trong lịch sử Trung Quốc. Ông ở
**Lưu Sưởng** (chữ Hán: 刘昶, 436 – 497), tự **Hưu Đạo**, hoàng tử nhà Lưu Tống thời Nam Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc. Lưu Sưởng lưu vong ở Bắc Ngụy đến 32 năm
**Nam Hán** () là một vương quốc tồn tại từ năm 917 đến năm 971, chủ yếu là trong thời kỳ Ngũ Đại Thập Quốc (907-960), nằm dọc theo bờ biển phía nam Trung Quốc.
**Lưu Thịnh** (; 920–958), tên ban đầu là **Lưu Hoằng Hi** (), gọi theo thụy hiệu là **Nam Hán Trung Tông**, là hoàng đế thứ ba của nước Nam Hán thời Ngũ Đại Thập Quốc
**Đế quốc Quý Sương**, tức **Đế quốc Kushan** (vào khoảng thế kỷ thứ 1–3), là một cường quốc cổ đại tại Trung Á. Vào thời đỉnh cao (105-250), đế chế này trải dài từ Tajikistan
**Nhà Hán** là hoàng triều thứ hai trong lịch sử Trung Quốc, do thủ lĩnh khởi nghĩa nông dân Lưu Bang thành lập và được cai trị bởi gia tộc họ Lưu. Tiếp nối nhà
**Tống Vũ Đế** (chữ Hán: 宋武帝, 16 tháng 4 năm 363 - 26 tháng 6 năm 422), tên thật là **Lưu Dụ** (劉裕), tên tự **Đức Dư** (德輿), Đức Hưng (德興), tiểu tự **Ký Nô**
**An Tư Diêm hoàng hậu** (chữ Hán: 安思閻皇后; ? - 19 tháng 2, 126), thường xưng **Diêm thái hậu** (閻太后), là Hoàng hậu duy nhất của Hán An Đế Lưu Hỗ, vị Hoàng đế thứ
**Mạnh Sưởng** (chữ Hán: 孟昶, ? – 22 tháng 6, 410), người huyện An Khâu, quận Bình Xương, là tướng cuối đời Đông Tấn trong lịch sử Trung Quốc. ## Thân thế Sưởng là hậu
Quần âu nam cao cấp công sở Hàn Quốc ống suông, quần baggy nam ống rộng dáng âu phong cách KENT SHOP CAM KẾT Quần âu nam cao cấp ELNIDO công sở Hàn Quốc ống
**Hậu Hán Thư** () là một trong những tác phẩm lịch sử chính thức của Trung Quốc do Phạm Diệp biên soạn vào thế kỷ thứ 5, sử dụng một số cuốn sách sử và
**Hán Quang Vũ Đế** (chữ Hán: 漢光武帝; 15 tháng 1, 5 TCN – 29 tháng 3, 57), hay còn gọi **Hán Thế Tổ** (漢世祖), húy **Lưu Tú** (劉秀), biểu tự **Văn Thúc** (文叔), là vị
**Lưu Khiêm** (chữ Hán: 劉謙, 950 – 1009), người huyện Đường Ấp, phủ Bác Châu, lộ Hà Bắc , tướng lãnh nhà Bắc Tống. ## Thân thế Ông cụ là Lưu Trực, nhờ thuần hậu
**Lưu Tống Tiền Phế Đế** (chữ Hán: 劉宋前廢帝; 25 tháng 2, 449 – 1 tháng 1, 465), tên húy là **Lưu Tử Nghiệp** (劉子業), biểu tự **Pháp Sư** (法師), là Hoàng đế thứ sáu của
Thuận Dương Hoài hầu **Lưu Gia** (chữ Hán: 刘嘉, ? – 39), tự Hiếu Tôn, người huyện Thung Lăng, quận Nam Dương , hoàng thân, tướng lãnh nhà Đông Hán. Cuối đời Tân, ông theo
**Trường Sa** (tiếng Hoa giản thể: 长沙; tiếng Hoa phồn thể: 長沙; pinyin: _Chángshā_; Wade-Giles: _Chang-sha_) là thủ phủ và là thành phố đông dân nhất của tỉnh Hồ Nam, thuộc vùng Nam Trung Bộ
**Chiến tranh Nam Tề-Bắc Ngụy** diễn ra vào thời Nam-Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc giữa nhà Nam Tề và nhà Bắc Ngụy. Từ năm 479 đến năm 500, Nam Tề cùng Bắc Ngụy
**Nhà Lưu Tống** (; 420-479) là triều đại đầu tiên trong số bốn **Nam triều** ở Trung Quốc, tiếp theo sau nó là nhà Nam Tề. ## Quốc hiệu Triều đại này do Lưu Dụ
**Lưu Huy** (chữ Hán: 刘晖, ? – 523), tự **Trọng Xương**, là phò mã nhà Bắc Ngụy thời Nam Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc. Ông là con kế tự của Tề quận công
## Lịch sử Tây Hán ### Cao Đế khai quốc Ba tháng đầu tiên sau cái chết của Tần Thủy Hoàng tại Sa Khâu, các cuộc nổi dậy của nông dân, tù nhân, binh sĩ
**Hán Tuyên Đế** (chữ Hán: 漢宣帝; 91 TCN - 49 TCN), húy **Lưu Tuân** (劉詢), là vị Hoàng đế thứ 10 của nhà Tây Hán trong lịch sử Trung Quốc, trị vì từ năm 74
**Lưu Diệu** () (?-329), tên tự **Vĩnh Minh** (永明), là hoàng đế thứ năm của nước Hán Triệu trong lịch sử Trung Quốc. Ông trở thành hoàng đế vào năm 318 sau khi hầu hết
**Lý Cảnh** (李璟, sau đổi thành Lý Cảnh 李景) (916 – 12 tháng 8, 961), nguyên danh **Từ Cảnh Thông** (徐景通), còn gọi là **Từ Cảnh** (徐璟) giai đoạn 937 - 939, tự là **Bá
**Chương Đức Đậu Hoàng hậu** (chữ Hán: 章德竇皇后; ? - 14 tháng 8, 97), cũng gọi **Chương Đức Đậu Thái hậu** (章德竇太后), **Đông Hán Đậu Thái hậu** (東漢竇太后), là Hoàng hậu duy nhất của Hán
**Lưu Phiên** (chữ Hán: 刘籓 hay 藩, ? – 412), người huyện Bái, nước Bái , tướng lãnh Bắc phủ binh cuối đời Đông Tấn. ## Cuộc đời và sự nghiệp Phiên là em họ
**Lưu Tống Văn Đế** (chữ Hán: 劉宋文帝; 407–453), tên húy là **Lưu Nghĩa Long** (), tiểu tự **Xa Nhi** (車兒), là một hoàng đế của triều Lưu Tống thời Nam-Bắc triều. Ông là con trai
**Lưu Bành Tổ** (chữ Hán: 刘彭祖, mất năm 92 TCN), tức **Triệu Kính Túc vương** (赵敬肃王), là vị vua đầu tiên của nước Quảng Xuyên và thứ 9 của nước Triệu, chư hầu nhà Hán
**Sở Hùng Sương** (chữ Hán: 楚熊霜, trị vì 827 TCN-822 TCN), tên thật là **Hùng Sương** (熊霜) hay **Mi Sương** (羋霜), là vị vua thứ 14 của nước Sở - chư hầu nhà Chu trong
**Lưu Mục Chi** (刘穆之), tên tự là **Đạo Hòa**, tên lúc nhỏ là Đạo Dân , là kiều dân ở Kinh Khẩu , mưu sĩ thân cận của quyền thần Lưu Dụ cuối đời Đông
**Nam Tề Cao Đế** (chữ Hán: 南齊高帝; 427–482), tên húy là **Tiêu Đạo Thành** (), tên tự **Thiệu Bá** (紹伯), tiểu húy **Đấu Tương** (鬥將), là hoàng đế sáng lập nên triều đại Nam Tề
**Lưu Khiêm** (chữ Hán: 刘谦, ? – ?), tự Hán Tông, người phủ Khai Phong , tướng lãnh nhà Bắc Tống. ## Sự nghiệp Thời trẻ Khiêm được bổ làm Vệ sĩ, qua vài lần
**Điện ảnh Việt Nam** hay **phim điện ảnh Việt Nam** (tức **phim lẻ Việt Nam**) là tên gọi ngành công nghiệp sản xuất phim của Việt Nam từ 1923 đến nay. Điện ảnh Việt Nam
Mặt tiền tòa nhà hành chính của [[Viện Đại học Sài Gòn, cơ sở giáo dục đại học lớn nhất tại Việt Nam Cộng hòa, hình chụp năm 1961.]] **Nền giáo dục Việt Nam Cộng
**Trần Vĩ** (chữ Hán: 陈韡, 1179 – 1261), tên tự là **Tử Hoa**, người Hầu Quan, Phúc Châu , quan viên nhà Nam Tống trong lịch sử Trung Quốc. Ông xuất thân tiến sĩ, từng
**Đông Nam Á** (tiếng Anh: **Southeast Asia**, viết tắt: **SEA**) là tiểu vùng địa lý phía đông nam của châu Á, bao gồm các khu vực phía nam của Trung Quốc, phía đông nam của
**Lưu Kỹ** (chữ Hán: 刘锜, ? – 1162), tên tự là **Tín Thúc**, là tướng lĩnh nhà Nam Tống. Ông là danh tướng của chiến thắng Thuận Xương, có cùng tên thụy Vũ Mục với
**Mạnh Sưởng** () (919–12 tháng 7, 965), sơ danh **Mạnh Nhân Tán** (孟仁贊), tự **Bảo Nguyên** (保元), được Tống Thái Tổ truy thụy hiệu là **Sở Cung Hiếu Vương** (楚恭孝王), là hoàng đế thứ hai
**Nguyễn Ngọc Khuê** (1 tháng 2 năm 1864 - 20 tháng 1 năm 1921), thường được biết đến với bút danh **Sương Nguyệt Anh** (chữ Hán: 孀月英), là một nhà thơ và là chủ bút
**_Đông Quán Hán ký_** (chữ Hán: 东观汉记), người đời Hán gọi là _Đông Quán ký_, là bộ sách theo thể kỷ truyện ghi lại lịch sử đời Đông Hán, từ thời Hán Quang Vũ Đế
phải|Bộ [[tượng La hán bằng đá trên đỉnh núi Cấm (An Giang)]] **A-la-hán** (tiếng Phạn: _arhat, arhant_; tiếng Pali: _arahat, arahant_; tiếng Tạng: _dgra com pa_; tiếng Trung: 阿羅漢|阿羅漢) trong dân gian thường gọi là
**_Hương mật tựa khói sương_** (giản thể: 香蜜沉沉烬如霜; phồn thể: 香蜜沉沉燼如霜; Hán-Việt: Hương mật trầm trầm tẫn như sương; tiếng Anh: _Ashes of Love_) là bộ phim truyền hình của đài Giang Tô, chuyển thể
1. Tên sản phẩm: Quần tây nam vải âu Hàn Quốc Dáng quần: Dáng suông vừa phải Mẫu quần kẻ sọc xám cao cấp Trọng lượng: 500 g - quần dầy dặn, êm mượt Chất
**Hải Nam** (chữ Hán: 海南, bính âm: Hǎinán) là tỉnh cực nam của Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa. Năm 2018, Hải Nam là tỉnh đông thứ hai mươi tám về số dân, đứng thứ
**Hán An Đế** (chữ Hán: 漢安帝; 94 – 30 tháng 4, 125), tên thật là **Lưu Hỗ** (劉祜), là vị Hoàng đế thứ sáu của nhà Đông Hán, cũng là vị hoàng đế thứ 21
**Hòa Hi Đặng Hoàng hậu** (chữ Hán: 和熹鄧皇后; 81 - 121), hay còn gọi **Hòa Hi Đặng thái hậu** (和熹鄧太后), **Đông Hán Đặng thái hậu** (東漢鄧太后), là Hoàng hậu thứ hai của Hán Hòa Đế
**Minh Đức Mã hoàng hậu** (chữ Hán: 明德馬皇后; ? - 9 tháng 7, 79), hay thường gọi **Minh Đức hoàng thái hậu** (明德皇太后), **Đông Hán Minh Đức Mã hoàng hậu** (東漢明德馬皇后), **Đông Hán Mã thái
**Lưu Hán Hoành** (, ? - 887?) là một quân phiệt vào cuối thời nhà Đường. Ông thoạt đầu đã nổi dậy chống lại triều đình Đường, song sau đó đã chịu quy phục và
**_Đêm và sương mù_** (tiếng Đức: **_Nacht und Nebel_**, tiếng Anh: **_Night and Fog_**) còn được gọi là **Nghị định về Đêm và Sương mù**, là một chỉ thị do Adolf Hitler ban hành vào
**Hứa Bình Quân** (chữ Hán: 許平君; ? - 72 TCN), thụy hiệu **Cung Ai Hoàng hậu** (恭哀皇后), là nguyên phối và Hoàng hậu đầu tiên của Hán Tuyên Đế Lưu Tuân, sinh mẫu của Hán
Nền kinh tế nhà Hán (206 TCN - 220 CN) đã trải qua các thời kỳ thịnh suy thuận theo các thăng trầm trong dòng lịch sử của Trung Hoa cổ đại. Thời kỳ nhà