✨Chiến tranh Nam Tề – Bắc Ngụy

Chiến tranh Nam Tề – Bắc Ngụy

Chiến tranh Nam Tề-Bắc Ngụy diễn ra vào thời Nam-Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc giữa nhà Nam Tề và nhà Bắc Ngụy. Từ năm 479 đến năm 500, Nam Tề cùng Bắc Ngụy tranh giành các khu vực ngày nay là An Huy, Giang Tô, Hà Nam, Hồ Bắc. Quân Tề cuối cùng phải chịu thất bại.

Diễn biến

Giai đoạn 479 - 482

Thời Nam Bắc triều, thời gian thống trị của nhà Nam Tề là ngắn nhất, chỉ có 23 năm. Tháng 4 năm 479, Tướng quốc, Tề công nhà Lưu Tống là Tiêu Đạo Thành tiến tước làm vương, không đến 20 ngày, Tống Thuận đế Lưu Chuẩn bị bức phải nhường ngôi. Tề vương Tiêu Đạo Thành xưng đế, quốc hiệu là Tề, niên hiệu là Kiến Nguyên năm đầu, tức là vua Tề Cao đế; đô thành là Kiến Khang.

Tháng 11, Bắc Ngụy Hiếu Văn Đế Thác Bạt Hoành lấy việc phục quốc cho Đan Dương vương Lưu Sưởng nương nhờ ở Ngụy từ năm 465 làm lý do, cử đại quân chia làm nhiều đường đánh Tề.

Tề Cao đế Tiêu Đạo Thành sai kiêu kỵ tướng quân Vương Hồng Phạm đi sứ Nhu Nhiên, ước hẹn cùng đánh Ngụy, Nhu Nhiên ưng thuận, đưa 10 vạn kỵ binh đánh Ngụy, nhưng chỉ đến biên giới đã trở về.

Tháng 1 năm sau, Lũng Tây công Thác Bạt Sâm nhà Bắc Ngụy hạ được thành Mã Đầu. Nước Tề nghe tin phát binh chống lại, đánh bại quân Ngụy đến tấn công Chung Li.

Tháng 2, Ngụy đế lệnh cho Lương quận vương Thác Bạt Gia và Lưu Sưởng soái binh đánh Thọ Dương. Đối mặt với 20 vạn đại quân kỵ bộ đến đánh, thứ sử Dự Châu nhà Nam Tề là Viên Sùng Tổ quyết định dùng nước làm binh, đắp đập trên sông Phì Thủy ở phía tây bắc của thành, sau đó tháo đê thả nước tấn công quân Ngụy, nhờ vậy mà bảo vệ được Thọ Dương.

Tháng 9 nhuận, Thác Bạt Gia soái 10 vạn quân tấn công Cù Sơn của nước Tề, bị quân Tề phòng thủ Cù Sơn đánh bại. Tề đế lại sai quân chủ Thôi Linh Kiến soái hơn vạn người từ Hoài vào Đông Hải tăng viện, quân Ngụy bèn lui đi.

Tháng 1 năm 481, quân Ngụy tiến đánh Hoài Dương của nước Tề, vây quân chủ Thành Mãi của Tề ở Giác Thành. Tề đế sai Lĩnh quân tướng quân Lý An Dân làm đô đốc, cùng quân chủ Chu Bàn Long đi cứu. Quân Ngụy ven bờ sông Hoài thả sức cướp bóc, Thành Mãi gắng sức chiến đấu mà chết. Con trai của Chu Bàn Long là Chu Phụng Thúc đưa 200 người xung kích vào sâu trong trận địa của quân Ngụy, Chu Bàn Long theo sát phía sau, đánh phá quân Ngụy đông đến vài vạn người. Tướng Tề là Lý An Dân đưa quân truy kích, đánh bại quân Ngụy.

Tháng 2, Du kích tướng quân của Tề là Hoàn Khang lại đánh bại quân Ngụy ở Hoài Dương.

Vì muốn đề phòng quân Ngụy lại đánh Hoài Bắc, tướng Tề là Viên Sùng Tổ dời quân phòng thủ ở Hạ Thái đến Hoài Đông. Không lâu sau, quân Ngụy quả nhiên đến, Viên Sùng Tổ soái quân vượt sông Hoài, đánh phá quân Ngụy.

Tháng 4, tướng Tề là Hoàn Tiêu Chi lĩnh vài vạn quân ngăn quân Ngụy, đóng trại ở nơi hiểm yếu, rồi cầu viện triều đình. Tề đế sai Lĩnh quân tướng quân Lý An Dân chỉ huy các tướng đến cứu, lại phái Duyện Châu thứ lại Chu Sơn Đồ từ Hoài Thủy vào Thanh Thủy (tức Tù Thủy) tiếp ứng. Nhưng cứu binh chưa đến, Hoàn Tiêu Chi đã bị quân Ngụy tiêu diệt, hơn 3 vạn người bị bắt mất.

Tháng 3 năm 482, Tề Cao đế Tiêu Đạo Thành mất, con trai ông là Tiêu Trách lên ngôi, tức là Tề Vũ đế. Trong thời gian 5 năm sau đó, Nam Tề - Bắc Ngụy không có chiến sự.

Giai đoạn 487 - 488

Tháng 1 năm 487, người Tề là Hoàn Thiên Sinh khởi sự chiếm cứ thành cũ Nam Dương, thỉnh cầu quân Ngụy nam tiến. Tề Vũ đế sai Đại lý Đan Dương doãn Tiêu Cảnh Tiên và Đại lý Hộ quân tướng quân Trần Hiển Đạt chỉ huy toàn quân, thảo phạt Hoàn Thiên Sinh.

Hoàn Thiên Sinh dẫn quân Ngụy hơn vạn người đến Phê Dương, Trần Hiển Đạt sai Chinh lỗ tướng quân Đái Tăng Tĩnh đưa thủy quân đại phá quân Ngụy, tính ra giết chết và bắt sống đến vạn người.

Không lâu sau, Hoàn Thiên Sinh lại đưa quân Ngụy đến đánh Vũ Âm, gặp phải sự phản kích của tướng giữ thành là Ân Công Mẫn, Hoàn Thiên Sanh thụ thương chạy trốn.

Tháng 3 năm sau, tướng Tề đóng đồn ở Giác Thành là Trương Bồ bí mật liên kết với quân Ngụy, bị thú chủ ở Giác Thành là Hoàng Phủ Trọng Hiền phát giác, lĩnh binh chống cự. Hơn 3000 kị bộ quân Ngụy đến ngoài hào, tình thế nguy cấp, Hoài Âm quân chủ Vương Tăng Khánh lĩnh binh đi trước cứu viện, quân Ngụy rút lui.

Tháng 4, Hoàn Thiên Sinh quay lại dẫn quân Ngụy đến đóng ở Cách Thành, Tề đế mệnh Du kích tướng quân Tào Hổ đốc quân thảo phạt. Hoàn Thiên Sinh dẫn hơn vạn kị bộ quân Ngụy đến đánh, bị quân Tề đánh bại, bắt chém hơn 2000 người. Tiếp theo, quân Tề hạ được Cách Thành, lại bắt giết hơn 2000 người.

Quân Ngụy đắp thành ở Lễ Dương, sau khi Trần Hiển Đạt hạ được thành, lại đánh Phê Dương, hơn 10 ngày chưa hạ được, lại gặp phải quân Ngụy nhân đêm tối tập kích, bèn đưa quân về nam.

Giai đoạn 493 - 495

Tháng 1 năm 493, Bắc Ngụy Hiếu Văn Đế nghe tin Tề Vũ đế ở Thạch Đầu thành chế tạo được 3000 cỗ xe không mái không màn, muốn đánh chiếm Bành Thành, nên cùng quần thần thương nghị việc nam phạt. Tề Vũ đế lấy Hữu vệ tướng quân Thôi Huệ Cảnh làm thứ sử Dự Châu, chuẩn bị đón đánh quân Ngụy.

Tháng 7, Tề Vũ đế Tiêu Trách mất, hoàng thái tôn Úc Lâm vương Tiêu Chiêu Nghiệp nối ngôi. Tháng 8, Bắc Ngụy Hiếu Văn Đế tự mình đưa hơn 30 vạn bộ kị đánh xuống phía nam; lấy Hà Nam vương Thác Bạt Cán làm Xa kị tướng quân, đô đốc quan hữu chư quân sự; lấy Tư không Mục Lượng, An nam tướng quân Lư Uyên, Bình nam tướng quân Tiết Dận làm phó, soái 7 vạn quân ra khỏi Tử Ngọ cốc.

Tháng 9, quân Ngụy vượt qua sông Hoàng Hà, tiến đến Lạc Dương. Vua Ngụy dùng danh nghĩa phạt Tề, mệnh cho các cánh quân tiếp tục nam tiến. Quần thần hết sức can ngăn, Ngụy đế đình chỉ việc dùng binh, tuyên bố quyết định dời đô đến Lạc Dương. Tháng 11, Ngụy đế sai sứ đến Tề.

Tháng 7 năm sau, Tây Xương hầu Tiêu Loan nhà Nam Tề đang nắm giữ trọng binh đã mưu sát Úc Lâm vương Tiêu Chiêu Nghiệp, lập Tân An vương Tiêu Chiêu Văn chỉ mới 15 tuổi lên ngôi. Tiêu Loan làm Phiếu kị đại tướng quân, lục thượng thư sự, Nghi Thành quận công, quyền thế càng lớn mạnh, ngay lập tức đại sát chư vương nhà Tề. Tháng 10, Tiêu Loan lại phế Tiêu Chiêu Văn, tự xưng Hoàng đế, đổi niên hiệu là Kiến Vũ năm đầu, đó là Tề Minh Đế.

Tháng 12, Ngụy đế lấy việc Tiêu Loan phế Tiêu Chiêu Văn làm lý do, cử binh đánh Tề; mệnh cho Chinh nam đại tướng quân Tiết Chân Độ đánh Tương Dương, Đại tướng quân Lưu Sưởng đánh Nghĩa Dương, Từ châu thứ sử Thác Bạt Diễn đánh Chung Li, Bình nam tướng quân Lưu Tảo đánh Nam Trịnh , còn lấy Thượng thư Lư Uyên làm An nam tướng quân, thống lĩnh các cánh quân tiền phong ở Tương Dương. Ngụy đế tự mình đưa quân đến Huyền Hồ , sai Lư Uyên cùng hợp sức đánh Giả Dương . Các thái thú của Nam Dương, Tân Dã nhà Nam Tề đều đóng cửa thành cố thủ không ra.

Tháng 1 năm 495, Tề Minh đế lấy các cánh quân ở Ti Châu do Vương Quảng Chi, Từ Châu do Hữu vệ tướng quân Tiêu Thản Chi, Dự Châu do Thượng thư Hữu bộc xạ Thẩm Văn Tú chỉ huy, chống lại quân Ngụy. Thái úy Trần Hiển Đạt nhà Tề đưa quân đến Tân Đình , Bạch Hạ, phô trương thanh thế.

Tháng 2, Ngụy đế đưa quân tiến đến Thọ Dương, hô hào rằng có 30 vạn quân, lại men theo Hoài Hà tiến xuống phía đông đến Chung Li. Tề Minh đế vội phái Tả vệ tướng quân Thôi Huệ Cảnh, Ninh sóc tướng quân Bùi Thúc Nghiệp cầm quân đến cứu Chung Li. Quân Ngụy đánh lâu không hạ được thành, thương vong nặng nề.

Tướng Ngụy là Lưu Sưởng, Vương Túc hô hào rằng có 2 vạn quân, rồi ra sức đánh Nghĩa Dương. Ti Châu thứ sử Tiêu Đản giữ thành cố thủ, tướng Tề Vương Quảng Chi soái quân cứu viện Nghĩa Dương, cách thành hơn trăm dặm, không dám tiến, Hoàng môn thị lang Tiêu Diễn nhân đêm tối từ đường nhỏ xuất phát, thẳng đến vị trí cách quân Ngụy chỉ có vài dặm. Quân Tề ở Nghĩa Dương thấy viện binh đã đến, tức thì phát động phản công, thuận gió phóng hỏa, trong ngoài giáp kích, đại bại quân Ngụy.

Tháng 3, Ngụy đế đến Thiệu Dương châu, trên cù lao xây dựng thành bảo, lại dựng 2 tòa thành ở 2 bên bờ sông Hoài, hòng ngăn trở viện binh nhà Tề. Tướng Tề Bùi Thúc Nghiệp phá tan cả hai tòa thành, đẩy lui quân Ngụy.

Tháng 5, tướng Ngụy là Thác Bạt Anh đưa quân đánh Nam Trịnh, nhiều lần chiến thắng, nhưng không có hậu viện nên phải đưa quân quay về Cừu Trì. Thành Dương vương Thác Bạt Loan nhà Bắc Ngụy đánh Giả Dương, chư tướng phối hợp không tốt, bị quân Tề đánh bại.

Giai đoạn 497 - 499

Tháng 1 năm 496, Bắc Ngụy Hiếu Văn Đế hạ lệnh đổi họ Thác Bạt thành Nguyên, các họ Tiên Ti đều đổi thành họ Hán.

Tháng 6 năm sau, Bắc Ngụy Hiếu Văn Đế lại lấy đại quân 20 vạn người ở 5 châu Ký, Định, Doanh, Tương, Tế đánh Tề.

Tháng 8, Tề Minh đế phái Trực các tướng quân Hồ Tùng giúp Bắc Tương Thành thái thú Thành Công Kì giữ Giả Dương, Quân chủ Bảo Cử giúp thái thú 2 quận Tây Nhữ Nam, Bắc Nghĩa Dương là Hoàng Dao Khởi giữ Vũ Âm , chống lại quân Ngụy.

Tháng 9, Bắc Ngụy dời đô đến Lạc Dương. Bắc Ngụy Hiếu Văn đế tự mình đưa đại quân đi trước đến Tương Dương, 36 lộ binh mã của Bành Thành vương Nguyên Hiệp đi sau, hô hào rằng có trăm vạn quân. Ngụy đế lưu các tướng đánh Giả Dương, tự soái binh đến tiến xuống phía nam đến Uyển Thành, chiếm được thành ngoài, tướng giữ thành Phòng Bá Ngọc cố thủ thành trong, quân Ngụy không phá được.

Ngụy đế lưu binh vây đánh Nam Dương, mang theo một bộ phận binh mã đến vây Tân Dã. Tân Dã thái thú Lưu Tư Kị giữ thành chống lại. Tề Minh đế mệnh cho Từ Châu thứ sử Bùi Thúc Nghiệp dẫn binh cứu Ung Châu, Bùi Thúc Nghiệp nhận thấy quân Ngụy không khéo viễn chinh, ví thử đánh thẳng vào đất Ngụy, có thể chia tách binh lực 2 châu Ung, Ti của Ngụy, nên đánh Hồng Thành nhà Bắc Ngụy. Tề lại phái Thái tử Trung thứ tử Tiêu Diễn, Hữu quân tư mã Trương Tắc cứu Ung Châu.

Tháng 11, Tiền quân tướng quân Hàn Tú Phương mang 15 tướng hàng Ngụy. Cùng tháng, quân Ngụy đánh bại quân Tề ở Miện Bắc, bắt được tướng Tề là Vương Phục Bảo.

Tháng 12, Tề Minh đế sai Độ chi thượng thư Thôi Huệ Cảnh soái 2 vạn quân cứu Ung Châu lân nữa. Quân Tề chia binh theo nhiều đường đánh Ngụy, nhưng đều thất bại.

Tháng 1 năm 498, Thống quân Lý Tá nhà Bắc Ngụy hạ được Tân Dã, bắt giết Lưu Tư Kị, kinh động Miện Bắc. Tướng giữ các thành Hồ Dương, Giả Dương, Vũ Âm, Nam Hương nhà Nam Tề nối nhau trốn về phương nam.

Tề Minh đế lại phái thái úy Trần Hiển Đạt cứu Ung Châu, tiếp đó phái Tả vệ tướng Tiêu Huệ Hưu cứu Thọ Dương. Uyển Bắc Thành của Tề vào tháng 2 cuối cùng cũng bị quân Ngụy đánh hạ, tướng giữ thành Phòng Bá Ngọc ra hàng.

Tháng 3, tướng Tề là Thôi Huệ Cảnh, Tiêu Diễn ở Đặng Thành bị quân Ngụy đánh bại, chạy thoát về Tương Dương. 10 vạn quân Ngụy vây Phàn Thành, tiếp đến là Huyền Hồ.

Trấn Nam tướng quân Vương Túc nhà Bắc Ngụy tiến đánh Nghĩa Dương, tướng Tề Bùi Thúc Nghiệp đưa 5 vạn binh vây Qua Dương , để cứu Nghĩa Dương, đánh bại các cánh viện quân Ngụy của Phó Vĩnh, Lưu Tảo, Cao Thông.

Vương Túc giải vây Nghĩa Dương, cùng các Thống quân Dương Đại Nhãn, Hề Khang Sinh mang hơn 5 vạn binh đi cứu Qua Dương. Bùi Thúc Nghiệp thấy khí thế quân Ngụy rất thịnh, liền lui về Bảo Qua khẩu.

Tháng 7, Tề Minh đế Tiêu Loan mất, thái tử Tiêu Bảo Quyển nối ngôi. Ngụy đế vốn đã tính toán đưa đại quân tiến đánh, nghe tin vua Tề mất, lấy lý do "lễ bất phạt tang", vào tháng 9 rút quân.

Tháng 1 năm 499, thái úy Trần Hiển Đạt nhà Nam Tề đưa 4 vạn quân đánh Ngụy, muốn lấy lại 5 quận Ung Châu đã mất năm trước. Ngụy đế lệnh cho Tiền tướng quân Nguyên Anh lãnh binh chống lại. Trần Hiển Đạt nhiều lần đánh bại Nguyên Anh, vào tháng 2 chuyển sang đánh Mã Quyển Thành, kéo dài suốt 40 ngày, quân Ngụy hết lương phải phá vây mà chạy. Tướng Tề là Thôi Huệ Cảnh mang binh vây đánh Thuận Dương. Ngụy đế sai tướng đến cứu, lại phái binh đóng ở Quân khẩu cắt đứt đường lui của quân Tề. Trần Hiển Đạt đưa quân vượt qua Thủy Tây, ở núi Ưng Tử xây thành, cùng quân Ngụy quyết chiến, thảm bại, tử thương hơn 3 vạn người.

Tháng 4 năm ấy, Bắc Ngụy Hiếu Văn Đế vì bệnh nên phải lui binh về Lạc Dương, trên đường đi thì mất, thái tử Nguyên Khác nối ngôi, tức là Bắc Ngụy Tuyên Vũ đế. Cùng năm, nội loạn ở Tề lần lượt nổi lên, các tướng lĩnh như thái úy, Giang Châu thứ sử Trần Hiển Đạt nối nhau cử binh khởi sự.

Kết quả

Tháng 1 năm 500, chính trị nhà Nam Tề tiếp tục biến động, Dự Châu thứ sử Bùi Thúc Nghiệp vì Tề đế giết hại đại thần mà hàng Ngụy, Tề đế hạ lệnh chinh thảo. Tháng 2, Ngụy phái binh cứu viện, nhưng viện binh chưa đến, Bùi Thúc Nghiệp đã mất vì bệnh.

Tháng 3, Tề đế mệnh cho Bình tây tướng quân Thôi Huệ Cảnh lĩnh thủy quân đánh Thọ Dương, Thôi Huệ Cảnh lại tạo phản cử binh vây Kiến Khang, nhưng không thành công.

Tháng 6. Quan quân tướng quân Trần Bá Chi nhà Nam Tề dẫn binh đánh Thọ Dương lần nữa, vào tháng 8 bị Bành Thành vương Nguyên Hiệp, Nhữ Âm thái thú Phó Vĩnh soái quân đánh bại, bị giết 9000 người, bị bắt 1 vạn người, khu vực Hoài Nam cũng bị quân Ngụy chiếm mất.

Sau này, nội loạn Nam Tề càng thêm kịch liệt, phân tranh không thôi, lại còn xây dựng cung điện, cực kỳ đẹp đẽ, trăm họ oán giận, quân tâm li tán, không còn khả năng cùng Bắc Ngụy tái chiến, chỉ 1 năm sau đã mất về tay nhà Lương.

Bình giá

Chiến tranh Nam Tề-Bắc Ngụy, đôi bên đều dùng đến một lượng lớn binh sĩ, chiến trường rộng lớn, chiến đấu kịch liệt. Nam Tề quốc lực không mạnh, quân lực không thịnh, chính trị không ổn, nội loạn luôn phát sinh, cuối cùng thảm bại.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Chiến tranh Nam Tề-Bắc Ngụy** diễn ra vào thời Nam-Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc giữa nhà Nam Tề và nhà Bắc Ngụy. Từ năm 479 đến năm 500, Nam Tề cùng Bắc Ngụy
nhỏ|phải|Năm 440: **Chiến tranh Lưu Tống – Bắc Ngụy** là cuộc chiến tranh quy mô thời Nam-Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc giữa nhà Lưu Tống và nhà Bắc Ngụy. Cuộc chiến tranh kéo
**Vương Túc** (chữ Hán: 王肃, 464 - 501), tên tự là **Cung Ý**, người Lâm Nghi, Lang Tà , đại thần, tướng lĩnh, ngoại thích nhà Bắc Ngụy. ## Thân thế Vương Túc là hậu
**Chiến tranh cục bộ** là một chiến lược quân sự của Hoa Kỳ trong Chiến tranh Việt Nam (giai đoạn 1965-1968). Nội dung cơ bản của chiến lược này là tận dụng ưu thế hỏa
**Chiến tranh thế giới thứ nhất**, còn được gọi là **Đại chiến thế giới lần thứ nhất**, **Đệ nhất Thế chiến** hay **Thế chiến I**, là một cuộc chiến tranh thế giới bắt nguồn tại
phải|Bản đồ Thế giới năm 1962 với các phe liên kết **Chiến tranh Lạnh (1953–1962)** là một giai đoạn trong cuộc Chiến tranh Lạnh từ khi lãnh tụ Liên Xô Joseph Stalin qua đời năm
**Bắc Ngụy Thái Vũ Đế** (chữ Hán: 北魏太武帝; 408 – 11 tháng 3, 452), là vị Hoàng đế thứ ba của triều đại Bắc Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. Ông thường được nhìn nhận
**Chiến tranh Lương-Ngụy, 528-529** là cuộc chiến tranh giữa hai nước Lương và Bắc Ngụy thời Nam-Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc. Cuộc chiến này là một phần của chiến tranh Lương-Bắc Ngụy, một
**Chiến tranh Hoa Kỳ - Anh Quốc**, hay thường được biết đến với cái tên **Chiến tranh năm 1812**, là một cuộc chiến giữa các lực lượng quân đội Hoa Kỳ và quân đội Đế
**Chiến tranh đảo Crete** (, ), còn được gọi là **Chiến tranh Candia** () hay **Chiến tranh Ottoman–Venezia lần thứ năm**, là một cuộc xung đột kéo dài từ năm 1645 đến năm 1669 giữa
**Chiến tranh Minh – Thanh** hoặc **Người Mãn Châu xâm lược Trung Quốc** (1618–1683) là thời kỳ dài của lịch sử khi người Mãn Châu (Nữ Chân) từng bước xâm lấn và chinh phục lãnh
**Chiến tranh Nhật Bản – Triều Tiên**, còn gọi là **Chiến tranh Triều - Nhật** (hangul: 조일전쟁, hanja: 朝日戰爭, _Joil jeonjaeng_) hay **Chiến dịch Văn Lộc - Khánh Trường** (kanji: 文禄・慶長の役, hiragana: ぶんろく・けいちょうのえき, _Bunroku・Keichō no
**Nam Tề Cao Đế** (chữ Hán: 南齊高帝; 427–482), tên húy là **Tiêu Đạo Thành** (), tên tự **Thiệu Bá** (紹伯), tiểu húy **Đấu Tương** (鬥將), là hoàng đế sáng lập nên triều đại Nam Tề
**Chiến tranh sáu ngày** (tiếng Ả Rập: حرب الأيام الستة, _ħarb al‑ayyam as‑sitta_; tiếng Hebrew: מלחמת ששת הימים, _Milhemet Sheshet Ha‑Yamim_), cũng gọi là **Chiến tranh Ả Rập-Israel**, **Chiến tranh Ả Rập-Israel thứ ba**, **an‑Naksah
**Chiến tranh Lạnh (1947–1953)** là một giai đoạn của cuộc Chiến tranh Lạnh từ học thuyết Truman năm 1947 tới cuộc Chiến tranh Triều Tiên năm 1953. Chiến tranh Lạnh bắt đầu ngay sau Thế
**Lịch sử chiến tranh Việt Nam–Trung Quốc** là những cuộc xung đột, chiến tranh, từ thời cổ đại đến thời hiện đại giữa các chính thể trong quá khứ của những quốc gia Việt Nam
**Bắc Ngụy Hiếu Minh Đế** (chữ Hán: 北魏孝明帝; 510 – 31/3/528) tên húy là **Nguyên Hủ** (), là hoàng đế thứ chín của triều đại Bắc Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. Do ông chỉ
Các liên minh năm 1980. **Chiến tranh Lạnh giai đoạn 1985 tới 1991** bắt đầu với sự nổi lên của Mikhail Gorbachev trở thành lãnh đạo Liên Xô. Nó chấm dứt cùng với sự sụp
**Chiến tranh** (Tiếng Anh: _war_) là một mức độ xung đột vũ trang giữa các quốc gia, chính phủ, xã hội hoặc các nhóm bán quân sự như lính đánh thuê, quân nổi dậy và
**_Chiến tranh và hòa bình_** (tiếng Nga: _Война и мир_) là một tiểu thuyết của Lev Nikolayevich Tolstoy, được xuất bản rải rác trong giai đoạn 1865–1869. Tác phẩm được xem là thành tựu văn
nhỏ|Những người biểu tình trong Chiến tranh Việt Nam tuần hành tại [[Lầu năm góc ở Washington, D.C. vào ngày 21 tháng 10 năm 1967.]] **Phong trào phản chiến trong Chiến tranh Việt Nam** là
**Nhà Bắc Ngụy** (tiếng Trung: 北魏朝, bính âm: běi wèi cháo, 386–535), còn gọi là **Thác Bạt Ngụy** (拓拔魏), **Hậu Ngụy** (後魏) hay **Nguyên Ngụy** (元魏), là một triều đại thời Nam Bắc triều trong
**Chiến tranh Hán-Sở** (漢楚爭雄 _Hán Sở tranh hùng_, 楚漢戰爭 _Sở Hán chiến tranh_, 楚漢相爭 _Sở Hán tương tranh_ hay 楚漢春秋 _Sở Hán Xuân Thu_, 206–202 TCN) là thời kỳ sau thời đại nhà Tần ở
**Chiến tranh Pháp – Phổ** (19 tháng 7 năm 1870 – 28 tháng 1 năm 1871), thời hậu chiến còn gọi là **chiến tranh Pháp – Đức** (do sự kiện thống nhất nước Đức ở
**Chiến tranh Triều Tiên** là cuộc chiến xảy ra trên bán đảo Triều Tiên giữa Bắc Triều Tiên (với sự hỗ trợ của Trung Quốc, Liên Xô cùng các nước xã hội chủ nghĩa) và
**Cuộc Chiến tranh giành độc lập Hy Lạp** (1821–1829), cũng được biết đến với tên gọi **Cuộc chiến tranh cách mạng Hy Lạp** (tiếng Hy Lạp: Ελληνική Επανάσταση, _Elliniki Epanastasi_; tiếng Thổ Nhĩ Kỳ: يؤنان
**Chiến tranh Xô–Đức 1941–1945** là một cuộc chiến giữa Liên Xô và Đức Quốc xã trong Thế chiến thứ hai, trải dài khắp Bắc, Nam và Đông Âu từ ngày 22 tháng 6 năm 1941
**Chiến tranh Trung – Nhật** (1937–1945) là một cuộc xung đột quân sự giữa Trung Hoa Dân Quốc và Đế quốc Nhật Bản. Hai thế lực đã chiến đấu với nhau ở vùng biên giới
**Chiến tranh Hy Lạp-Ý** ( _Ellinoitalikós Pólemos_ hay **Πόλεμος του Σαράντα** _Pólemos tou Saránda_, "Cuộc chiến năm 40", , "Chiến tranh Hy Lạp") là một cuộc xung đột giữa Ý và Hy Lạp, kéo dài
Cuộc **Chiến tranh nhân dân giải phóng Nam Tư** là một bộ phận quan trọng của Mặt trận phía đông trong Chiến tranh thế giới thứ hai ở châu Âu. Cuộc chiến bắt đầu từ
**Chiến tranh biên giới Việt Nam – Campuchia**, hay còn được gọi là **Chiến tranh biên giới Tây Nam**; , UNGEGN: _Sângkréam Kâmpŭchéa-Viĕtnam_; Những người theo chủ nghĩa dân tộc Khmer gọi là **Việt
**Bảo tàng Chứng tích Chiến tranh** (War Remnants Museum) là một bảo tàng vì hòa bình ở số 28 đường Võ Văn Tần, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh. Bảo
right|thumb|upright=1.2|Lính nhảy dù Mỹ thuộc Lữ đoàn dù 173 tuần tra vào tháng 3 năm 1966 **Hoa Kỳ can thiệp quân sự tại Việt Nam** trong giai đoạn 1948–1975 là quá trình diễn biến của
**Việt Nam hóa chiến tranh** (tiếng Anh: _Vietnamization_) hay **Đông Dương hóa chiến tranh** là chiến lược của Chính phủ Hoa Kỳ dưới thời tổng thống Richard Nixon trong Chiến tranh Việt Nam, được áp
**Chiến tranh nhân dân** là chiến lược quân sự tại Việt Nam để chỉ chung các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc do nhân dân Việt Nam tiến hành
**Mông Cổ chinh phạt nhà Kim** (chữ Hán: 蒙古罰金; phiên âm: _Mông Cổ phạt Kim_), hay **Chiến tranh Mông–Kim** (chữ Hán: 蒙金戰爭; phiên âm: _Mông-Kim chiến tranh_), là cuộc xâm lược toàn diện của người
thumb|Các thi thể trong trang phục dân sự, được Ukraine tuyên bố là bị bắn bởi binh sĩ Nga, nằm trên một con phố ở Bucha. Tay của một trong số họ bị trói sau
nhỏ|300x300px|Bản đồ miêu tả chiến tranh Kim–Tống **Chiến tranh Kim – Tống** là một loạt các cuộc xung đột giữa nhà Kim (1115–1234) của người Nữ Chân và nhà Tống (960–1279) của người Hán. Năm
**Bắc Ngụy Tuyên Vũ Đế** (chữ Hán: 北魏宣武帝; 483 – 13/1 ÂL (12/2 DL) 515), tên húy lúc sinh là **Thác Bạt Khác** (拓拔恪), sau đổi thành **Nguyên Khác** (元恪) là hoàng đế thứ tám
upright|Một kỵ sĩ trên lưng ngựa nhỏ|phải|Một con ngựa kéo hạng nặng, có thể dùng để tải pháo **Ngựa** là động vật được sử dụng nhiều nhất trong cuộc chiến, nhất là chiến tranh thời
**Cuộc chiến Yom Kippur**, **Chiến tranh Ramadan** hay **Cuộc chiến tháng 10** (; chuyển tự: _Milkhemet Yom HaKipurim_ or מלחמת יום כיפור, _Milkhemet Yom Kipur_; ; chuyển tự: _harb 'uktubar_ hoặc حرب تشرين, _ħarb Tishrin_),
**Chiến tranh Ba Mươi Năm** bắt đầu từ năm 1618, kết thúc năm 1648, chủ yếu diễn ra tại vùng nay là nước Đức và bao gồm hầu hết các cường quốc của châu Âu
**Chiến tranh Nga–Nhật** hay **Nhật-Nga chiến tranh** (tiếng Nhật: 日露戦争 _Nichi-Ro Sensō_, âm Hán Việt: "Nhật Lộ chiến tranh"; tiếng Nga: Русско-японская война, "Russko-yaponskaya voina"; tiếng Trung: 日俄戰爭 _Rì'ézhànzhēng_, "Nhật Nga chiến tranh") là một
Bản đồ thế giới năm 1980 với các liên minh Bài **Chiến tranh Lạnh (1962-1979)** nói về một giai đoạn trong cuộc Chiến tranh Lạnh từ sau cuộc Khủng hoảng tên lửa Cuba cuối tháng
**Chiến tranh Kim-Tống** (1162 - 1164) chỉ một loạt các cuộc giao tranh giữa quân đội hai nước Kim và Nam Tống trong lịch sử Trung Quốc kéo dài trong suốt ba năm 1162 -
**Nam Tề** () (479-502) là triều đại thứ hai của các **Nam triều** ở Trung Quốc, sau nhà Lưu Tống (420-479) và trước nhà Lương (502-557), thuộc về thời kỳ mà các nhà sử học
Nagorno-Karabakh hiện tại là một nước Cộng hòa độc lập trên thực tế, nhưng trên lý thuyết vẫn là một phần của Cộng hòa Azerbaijan. Cuộc **chiến tranh Nagorno-Karabakh** là cuộc xung đột vũ trang
**Chiến tranh Mùa đông** (, , ) hay **Chiến tranh Liên Xô-Phần Lan 1939-1940** là cuộc chiến giữa Liên Xô và Phần Lan do tranh chấp lãnh thổ tại vùng Karelia. Nó diễn ra vào
**Bắc Ngụy Văn Thành Đế** (chữ Hán: 北魏文成帝; 440–465), tên húy là **Thác Bạt Tuấn** (), là hoàng đế thứ năm của triều đại Bắc Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. Ông đăng cơ sau
**Chiến tranh thống nhất Trung Hoa của Tần** là một chuỗi những chiến dịch quân sự vào cuối thế kỷ thứ 3 TCN nhằm thống nhất lãnh thổ Trung Hoa do nước Tần thực hiện