✨Chiến tranh Lương – Bắc Ngụy (528–529)

Chiến tranh Lương – Bắc Ngụy (528–529)

Chiến tranh Lương-Ngụy, 528-529 là cuộc chiến tranh giữa hai nước Lương và Bắc Ngụy thời Nam-Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc. Cuộc chiến này là một phần của chiến tranh Lương-Bắc Ngụy, một trong nhiều cuộc chiến giữa các triều đại cai trị miền Bắc (của người Hồ) và các triều đại cai trị miền Nam (của người Hán). Cuộc chiến kéo dài trong 9 tháng, từ tháng 10 năm 528 đến tháng 6 nhuận năm 529.

Hoàn cảnh

Từ sau chiến tranh Lưu Tống-Bắc Ngụy chấm dứt (năm 451), các triều đại kế tục Lưu Tống là Nam Tề và Lương vẫn cùng Bắc Ngụy tranh giành vùng Hà Nam, Hoài Bắc. Từ cuối thế kỷ 5 sang đầu thế kỷ 6, xung đột nam-bắc vẫn diễn ra với nhiều trận đánh quy mô lớn nhỏ khác nhau.

Ở phía nam, từ khi Lương Vũ Đế thay thế nhà Nam Tề (502), trong nước khá ổn định. Ông vài lần điều quân đánh Bắc Ngụy khi thắng khi thua. Từ năm 516 do đê Phù Sơn vỡ, hai bên phải tạm ngưng chiến sự.

Ở phía bắc, nước Ngụy sau vài lần đánh lui quân Lương bắc tiến cũng phát sinh nội loạn. Năm 523, sáu trấn biên giới khởi binh chống triều đình. Hồ thái hậu muốn chuyên quyền nên mâu thuẫn với vua con Nguyên Hủ (Bắc Ngụy Hiếu Minh Đế) ngày càng sâu sắc. Hồ thái hậu đầu độc giết vua con rồi lập cháu nhỏ Nguyên Chiêu mới 3 tuổi lên ngôi.

Nhà Lương ở phía nam nhân lúc Bắc Ngụy khó khăn, Lương Vũ Đế Tiêu Diễn lại tấn công lên phía bắc. Năm 526, quân Lương chiếm 52 thành ở Thọ Dương của Bắc Ngụy. Sang năm sau quân Lương dưới quyền Trần Khánh Chi lại chiếm được Quảng Lăng, Đông Dự châu và Qua Dương.

Năm 528, quyền thần Nhĩ Chu Vinh nhân trấn áp quân nổi dậy của Cát Vinh thành công, nắm quyền lớn trong triều, lập vua mới là Bắc Ngụy Hiếu Trang Đế, ra tay tàn sát hoàng thất Bắc Ngụy, giết chết vua nhỏ Nguyên Chiêu và Hồ thái hậu tại Hà Âm. Bắc Hải Vương Nguyên Hạo là cháu Bắc Ngụy Hiến Văn đế, khi đó giữ chức Phiêu kỵ đại tướng quân, Thứ sử Tương Châu, cùng với các hoàng thân Lâm Hoài vương Nguyên Úc, Nhữ Nam vương Nguyên Duyệt, Nghĩa Dương vương Nguyên Hiển Đạt, thấy xảy ra sự biến Hà Âm, liền chạy về phía nam sang đất nhà Lương đầu hàng, tiến đánh Vĩnh Thành rồi tiến đến Tuy Dương.

Trần Khánh Chi nhân cơ hội quân Bắc Ngụy đang thảo phạt khởi nghĩa Hình Cảo, tiến đến Lương Quốc. Tướng Ngụy là Khâu Đại Thiên soái 7 vạn quân chia ra đắp 9 tòa thành, để ngăn quân nhà Lương. Trần Khánh Chi đưa quân tấn công, trong một ngày trời đã hạ được ba thành, buộc Khâu Đại Thiên phải đầu hàng.

Nguyên Hạo tiến đến phía nam thành Tuy Dương xưng đế. Nguyên Hạo phong Trần Khánh Chi làm Sứ trì tiết, Trấn bắc tương quân, Hộ quân, Tiền quân đại đô đốc.

Quân Lương chiếm Huỳnh Dương

Tế Âm vương Nguyên Huy Nghiệp nhà Bắc Ngụy soái 2 vạn Vũ lâm quân đến tăng viện, đóng quân ở Khảo Thành. Khảo Thành 4 mặt là nước, phòng ngự kiên cố. Trần Khánh Chi lệnh cho bộ hạ ở mặt nước đắp lũy, đánh phá thành này, giết sạch 2 vạn người, bắt sống Nguyên Huy Nghiệp, thu được 7800 cỗ xe.

Nhân đà thắng lợi, Trần Khánh Chi tiến lên phía bắc, quân Bắc Ngụy nhiều nơi ra hàng. Tháng 5 năm 529, vua Bắc Ngụy là Nguyên Tử Du phái tướng chẹn giữ Huỳnh Dương, Hổ Lao, nhằm bảo vệ kinh đô Lạc Dương. Nguyên Hạo sau khi đánh chiếm Lương Quốc, lệnh cho Trần Khánh Chi tiếp tục đốc quân tây tiến đánh Huỳnh Dương. Tả bộc xạ Dương Dục, Tây A Vương Nguyên Khánh, Phủ quân tướng quân Nguyên Hiển Cung nhà Bắc Ngụy soái 7 vạn Vũ lâm quân giữ Huỳnh Dương, chống lại quân nhà Lương.

Quân Bắc Ngụy khí thế mạnh mẽ, thành Huỳnh Dương kiên cố, Trần Khánh Chi không thể hạ được. Trong lúc Trần Khánh Chi đang đánh thành, đại quân của Thượng Đảng vương Nguyên Thiên Mục cũng đến, đầu tiên sai Phiếu kị tướng quân Nhĩ Chu Thổ Một Nhi lĩnh 5000 kỵ binh người Hồ, kị tướng Lỗ An soái 9000 bộ kị ở Hạ Châu tăng viện Dương Dục. Lại sai Hữu bộc xạ Nhĩ Chu Thế Long, Tây Kinh Châu thứ sử Vương Bi soái 1 vạn kị binh đến giữ Hổ Lao. Quân Ngụy tất cả có 30 vạn người.

Nguyên Hạo vào Lạc Dương

Bắc Ngụy Hiếu Trang Đế Nguyên Tử Du vì tránh mũi nhọn Trần Khánh Chi, bị bức phải vượt qua sông Hoàng Hà chạy tới Hà Nội, rút về Trưởng Tử. Nguyên Hạo tiến vào Lạc Dương, Lâm Hoài Vương Nguyên Úc, An Phong Vương Nguyên Duyên Minh nhà Bắc Ngụy đưa bách quan đón Nguyên Hạo vào thành. Nguyên Hạo đổi niên niệu là Kiến Vũ, phong Trần Khánh Chi làm thị trung, Xa kị đại tướng quân, Tả quang lộc đại phu, tăng ấp vạn hộ.

Trần Khánh Chi chỉ có 7.000 người, từ huyện Chí đến Lạc Dương, trước sau giành chiến thắng 47 trận, phá được 32 tòa thành, đánh bại 30 vạn quân Ngụy, được xem là kỳ tích trong lịch sử quân sự Trung Quốc.

Đánh giá

Quân Lương tuy thành công trong việc đánh chiếm Lạc Dương, chiếm đất trung nguyên, đưa Nguyên Hạo về làm vua Bắc Ngụy nhưng nhanh chóng thất bại. Nguyên nhân chủ yếu vì sự chủ quan của Lương Vũ Đế không chi viện cho Trần Khánh Chi và tư tưởng sớm ly khai nhà Lương của Nguyên Hạo khi chưa đủ thực lực. Nhận xét về cuộc chiến này, các sử gia cho rằng tướng Trần Khánh Chi đã tạo nên một kỳ tích lấy ít địch nhiều, còn Lương Vũ Đế thì thực hiện một quyết sách hoang đường, thí mạng vô lý một cánh quân.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Chiến tranh Lương-Ngụy, 528-529** là cuộc chiến tranh giữa hai nước Lương và Bắc Ngụy thời Nam-Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc. Cuộc chiến này là một phần của chiến tranh Lương-Bắc Ngụy, một
**Nhà Bắc Ngụy** (tiếng Trung: 北魏朝, bính âm: běi wèi cháo, 386–535), còn gọi là **Thác Bạt Ngụy** (拓拔魏), **Hậu Ngụy** (後魏) hay **Nguyên Ngụy** (元魏), là một triều đại thời Nam Bắc triều trong
hay **chiến tranh Minh Trị Duy tân**, là một cuộc nội chiến ở Nhật Bản diễn ra từ năm 1868 đến năm 1869 giữa quân đội của Mạc phủ Tokugawa đang cầm quyền và những
**Chiến dịch Lam Sơn 719** hay **Cuộc Hành quân Hạ Lào** (cách gọi của Việt Nam Cộng hòa) hay **Chiến dịch đường 9 - Nam Lào** (cách gọi của Chính phủ Cách mạng lâm thời
**Lương Võ Đế** (chữ Hán: 梁武帝; 464 – 549), tên húy là **Tiêu Diễn** (蕭衍), tự là **Thúc Đạt** (叔達), tên khi còn nhỏ **Luyện Nhi** (練兒), là vị Hoàng đế khai quốc của triều
**Nhĩ Chu Vinh** (, 493 -530), tên tự là **Thiên Bảo** (天寶), người Bắc Tú Dung, là tướng lĩnh, quyền thần nhà Bắc Ngụy thời Nam Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc. Ông là
**Vũ Văn Thái** () (507 – 556), biệt danh là **Hắc Thát** (黑獺), tước hiệu là **An Định Văn công** (安定文公) sau được nhà Bắc Chu truy tôn là miếu hiệu Thái Tổ (太祖), thụy
**Sở** (chữ Hán: 楚國), (chữ Phạn: श्रीक्रुंग / **Srikrung**) đôi khi được gọi **Kinh Sở** (chữ Hán: 荆楚), là một chư hầu của nhà Chu tồn tại thời Xuân Thu Chiến Quốc kéo đến thời
**Phục bích** (chữ Hán: 復辟), còn được phiên âm là **phục tích** hay **phục tịch**, nghĩa đen là "khôi phục ngôi vua" ## Phân loại Phục bích có nhiều dạng, đại để như sau: #Trường
thumb|Nam giới người Do Thái không được cắt tóc ở vùng thái dương Truyền thống coi **613 điều răn** (: _taryag mitzvot_, "613 mitzvot") là số lượng điều răn (mitzvot) có trong Kinh thánh Torah