✨Chiến tranh Pháp – Phổ
Chiến tranh Pháp – Phổ (19 tháng 7 năm 1870 – 28 tháng 1 năm 1871), thời hậu chiến còn gọi là chiến tranh Pháp – Đức (do sự kiện thống nhất nước Đức ở thời điểm ấy Chiến thắng của quân Phổ và Đức là một bước ngoặt to lớn trong lịch sử châu Âu, tên tuổi của vị Tổng tham mưu trưởng Quân đội nước Đức là Đại tướng - Bá tước Helmut von Moltke đạt tới đỉnh cao vinh quang, với đầu óc sáng tạo mang tầm ảnh hưởng to lớn đến nền quân sự toàn cõi châu Âu. Thất bại thảm hại của Pháp cũng đánh dấu sự sụp đổ của Napoléon III và dấu chấm hết cho nền Đệ Nhị đế chế Pháp, sau đó được thay thế bởi Đệ Tam cộng hòa. Do đó, thất bại này đã hoàn toàn chấm dứt chế độ quân chủ Pháp, trở thành một trong những thảm bại nặng nề nhất trên đất Pháp. Trong khi đó, chiến thắng quyết định của người Phổ - Đức đã tiếp lửa cho tinh thần đoàn kết, cao trào dân tộc chủ nghĩa Đức trỗi dậy mạnh mẽ và làm cho nước Pháp thất trận bị lăng nhục nặng nề,, đánh một đòn đau đớn tới nước Pháp nói chung kể từ sau năm 1815.
Tóm lược
Cuộc chiến nối tiếp chiến thắng của nước Phổ hùng mạnh trong cuộc Chiến tranh Áo-Phổ, và là kết quả của sự căng thẳng kéo dài nhiều năm giữa hai cường quốc, mà ngòi nổ là mâu thuẫn về việc một hoàng thân của Vương tộc Hohenzollern ứng cử ngai vàng của Tây Ban Nha đã bị bỏ trống sau khi Nữ vương Isabel II bị phế truất năm 1868. Việc bản tuyên cáo Ems bị để lộ ra cho báo chí, trong đó cường điệu sự lăng mạ giữa Quốc vương nước Phổ và đại sứ Pháp, đã như châm thêm dầu vào lửa ở cả hai phía. Bất chấp thất bại vừa qua tại México, trong khi Pháp còn bị rối loạn trầm trọng.
Sức mạnh vượt trội của nước Phổ và Đức hiển hiện nhanh chóng, một phần bằng việc sử dụng hiệu quả vận chuyển bằng đường sắt (hệ thống đường sắt Phổ lớn thứ tư trên thế giới trong khi hệ thống đường sắt Pháp thì lớn thứ năm đồng thời Napoléon III và toàn bộ đạo quân dưới quyền bị bắt vào ngày 2 tháng 9 - thất bại thảm hại của Pháp chỉ 6 tuần sau khi chiến sự nổ ra. Chiến thắng huy hoàng trong trận Sedan với ý nghĩa quyết định đã tạo điều kiện cho Liên minh Đức sớm chấm dứt chiến sự với thắng lợi thuộc về mình. Ngoài ra, Quân đội Phổ sau khi nhử được mồi còn xiết chặt quân Pháp và chiếm đoạt được pháo đài Metz. các tiểu quốc Đức đã tuyên bố hợp nhất dưới sự trị vì của vua Phổ, thống nhất nước Đức thành Đế quốc Đức do Phổ làm minh chủ. Đây là thắng lợi quyết định của Thủ tướng Otto von Bismarck, Ông được Hoàng đề Đức phong làm Vương công. Với những điều khoản khắt khe mà nước Đức áp đặt cho kẻ thù bại trận, Hiệp ước Frankfurt được ký kết giữa nước Đức trỗi dậy với nước Pháp thất trận vào ngày 10 tháng 5 năm 1871 chấm dứt chiến tranh, và còn là một thắng lợi của nền giáo dục quân sự Đức lúc ấy. Sau đại thắng trong cuộc Chiến tranh Pháp–Phổ, nước Đức dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Bismarck không những rộng hơn mà còn nhanh chóng công nghiệp hóa. Với việc Napoleon III lên ngai vàng sau cuộc đảo chính ở Pháp, và việc Otto von Bismarck trở thành Thủ tướng vương quốc Phổ, căng thẳng giữa hai nước ngày càng lên cao kể từ cuộc Chiến tranh Áo-Phổ năm 1866. Nước Phổ giờ đây trở thành một liệt cường mới nổi trên lục địa châu Âu.
[[Otto von Bismarck, Thủ tướng Phổ]] [[Napoléon III|Napoleon III, Hoàng đế Pháp]]
Sau khi thắng trận Königgrätz, đàm phán hòa bình giữa Áo và Phổ diễn ra. Một phần do Pháp đứng trung lập, không can thiệp vào cuộc chiến cũng như quá trình đàm phán, nên Hoàng đế Áo là Franz Joseph I chấp nhận những đòi hỏi mà Bismarck đưa ra, theo đó Bismarck tuyên bố Liên minh các quốc gia Đức thành lập từ năm 1815 không còn giá trị, thay thế vào đó là một tập hợp các tiểu quốc Đức dưới quyền lãnh đạo của Phổ. Các tiểu quốc như Frankfurt-am-Main, Vương quốc Hannover, Hessen-Kassel (còn gọi là Hesse-Cassel), Công quốc Holstein, Công quốc Nassau, và Công quốc Schleswig bị sáp nhập vào Phổ, trong khi Đại công quốc Hessen-Darmstadt, Công quốc Mecklenburg, Vương quốc Sachsen, và công quốc Thüringen, cũng như các thành phố Bremen, Hamburg, và Lubeck phải hợp nhất vào Liên minh Bắc Đức. Liên minh này tuy chưa hẳn là một quốc gia dân tộc nhưng có tiền tệ, phong tục riêng và trên lý thuyết thì có nền quân sự riêng. Quốc vương Wilhelm I trở thành Chủ tịch của Liên minh trong khi Bismarck là Thủ tướng, với quyền hành đáng kể. Như vậy, Liên minh Bắc Đức là một liên minh quân sự theo đó vị Quốc vương nước Phổ thống suất toàn bộ quân đội các quốc gia ở Đức.
Đại sứ Pháp tại Phổ là Vincent Benedetti ngay sau đó xin được hội kiến với Bismarck. Benedetti mang theo đề nghị bí mật của Napoleon III, theo đó Pháp sẽ chấp thuận để Bismarck thâu tóm các tiểu quốc miền bắc Đức và quyền điều khiển các tiểu quốc miền nam Đức, để đổi lại việc Pháp sáp nhập Bỉ và Luxembourg, dù trước đó Pháp đã cam kết bảo vệ nền độc lập của Bỉ trong Hiệp ước Luân Đôn năm 1839. Bismarck hết sức kinh ngạc, vì Đức đã vươn lên hàng cường quốc châu Âu sau khi ký kết bản hòa ước, và gọi đề xuất của Napoleon là sự vòi vĩnh hoa hồng của một anh hầu bàn. Ông yêu cầu Benedetti viết đề xuất này ra giấy trắng mực đen, và tài liệu này sau trở thành một con bài quan trọng trong tay Bismarck.
Vị thế của Pháp trên chính trường châu Âu vốn đã trở nên lung lay vì việc nước Phổ trỗi dậy, nay càng yếu thế trước những thắng lợi mà Bismarck gặt hái được. Rõ ràng, chiến thắng quyết định của Vương quốc Phổ trước Đế quốc Áo đã thể hiện thất bại của chính quyền Napoléon III trong chính sách kìm hãm sự nhất thống của nước Đức, cùng với những tin đồn về khả năng cách mạng bùng nổ. Hơn nữa, cuộc can thiệp vào México thất bại, với việc Hoàng đế Mexico là Maximiliano I - nguyên là một đại vương công Áo - bị bắt và bị xử tử năm 1867.. Tình thế khiến chính quyền Pháp phải tìm kiếm thắng lợi từ bên ngoài, để xoa dịu quần chúng. Nếu như Pháp có thể đánh bại Phổ và giành được các lãnh thổ trên sông Rhine, và sau đó là Luxembourg và Bỉ, thì đó sẽ là cơ hội tốt nhất tập hợp sự ủng hộ của dân chúng cho Vương triều Bonaparte. Không những lo sợ nước Phổ dẫn đầu cả đất Đức, Napoléon III còn muốn tìm lại vinh quang cho mình. Trước khi chiến tranh Pháp - Phổ nổ ra, chỉ có một vài tiểu quốc Đức tỏ ra mong muốn thống nhất nước Đức.
Otto von Bismarck vốn có quan điểm riêng, ông chỉ quan tâm vào việc thống nhất nước Đức nếu nó giúp củng cố vị thế của nước Phổ Bismarck trước chiến tranh đã đề cập đến việc cắt cho Pháp các lãnh thổ dọc sông Rhine, và Napoleon III, bị thúc giục bởi các cố vấn của mình, trên cơ sở đó đòi thêm các lãnh thổ mà Phổ giành được sau chiến tranh với Áo. Các cuộc đàm phán đó bị Bismarck để lộ ra ngoài, khiến cho các tiểu quốc Đức vốn thù nghịch với Phổ nhanh chóng đổi thái độ, cam kết với Phổ đặt quân đội của họ dưới quyền chỉ huy của Phổ trong trường hợp chiến tranh với Pháp nổ ra
phải|Quốc vương Wilhelm I ra trận mạc (ngày [[31 tháng 8 năm 1870), qua nét vẽ của nhà danh họa Adolph von Menzel.]]
Tình hình châu Âu cũng tỏ ra thuận lợi cho Phổ. Các tiểu quốc Đức vốn thù nghịch với Phổ và thân thiện với Pháp nay e ngại tham vọng lãnh thổ của Pháp dọc sông Rhine và tìm kiếm sự bảo vệ quân sự từ Phổ. Đan Mạch từng thua Phổ trong hai cuộc chiến tranh trước đó, và chưa sẵn sàng tham chiến. Áo muốn báo thù trận thua vừa rồi, nhưng ra điều kiện chỉ tham chiến nếu Ý cũng tham gia liên minh. Tuy nhiên dư luận Ý đang hết sức không thân thiện với Pháp, do việc Hoàng đế Pháp gửi quân bảo vệ Giáo hoàng tại La Mã, cản trở việc sáp nhập thành La Mã vào quá trình thống nhất nước Ý. Nước Nga ủng hộ Phổ, cam kết gửi quân đội chống lại Áo trong trường hợp Áo tiến hành các hoạt động quân sự chống Phổ. Như vậy nước Phổ có thể yên tâm dốc lực lượng về mặt trận Pháp. Anh không hài lòng với tham vọng lãnh thổ của Pháp ở Bỉ và Luxembourg, nên sẽ không làm gì để giúp Pháp hết.
Nguyên nhân trực tiếp xảy ra chiến tranh là vấn đề ngai vàng Tây Ban Nha. Cuộc Cách mạng Vinh quang bùng nổ đã dẫn đến sự sụp đổ của Vương triều Bourbon năm 1869. Sau khi Nữ vương Isabel II của Tây Ban Nha phải chạy trốn sang Pháp, người Tây Ban Nha muốn chọn vương công Đức Leopold von Hohenzollern kế vị ngai vàng, nhưng Pháp không chấp thuận để một hoàng thân Đức họ hàng với vua Phổ lên làm vua Tây Ban Nha, vì lo ngại Pháp sẽ bị kẹp giữa hai gọng kìm (họ vốn lo sợ Vương triều Hohenzollern sẽ vây bọc họ giống như Vương triều Habsburg dưới triều Hoàng đế Karl V của Đế quốc La Mã Thần thánh dân tộc Đức hồi thế kỷ thứ XVI và thế kỷ thứ XVII. Dân chúng Pháp trở nên xôn xao về việc Ngoại trưởng bị "sỉ nhục". Lập tức, quần chúng tụ tập ở kinh thành Paris và biểu hiện thái độ căm phẫn. Pháp chính thức tuyên chiến với Phổ ngày 19 tháng 7 năm 1870, chỉ vài giờ sau khi lời tuyên bố được đưa ra. Người Pháp cả tin rằng nước Phổ nhất thiết sẽ phải thất trận. Ngay bốn ngày trước khi Hoàng đế nước Pháp phát lệnh tuyên chiến, Thủ tướng Pháp là Emile Olivier đã tuyên bố rằng ông ta cảm thấy nguy cơ chiến tranh với nước Phổ sắp tới, mà không chút băn khoăn lo sợ. Như vậy, tầm nhìn xa trông rộng của Thủ tướng Bismarck đã mang lại lợi ích cho nước Phổ. Chỉ không lâu sau lời tuyên chiến với mỗi nước Phổ, nước Pháp trong tình trạng chiến tranh với toàn thể dân tộc Đức..
Quân Pháp tới tháng 7 năm 1870 bao gồm 492.585 quân chính quy, một số là những binh lính dày dặn kinh nghiệm chiến trận từ các cuộc chiến trước đó như Chiến tranh Krym, Chiến tranh xâm lược xứ Algérie (Bắc Phi), Chiến tranh giành độc lập Ý, và cuộc can thiệp của Pháp vào México (Bắc Mỹ). Trong số đó, có 300.000 quân sẵn sàng tham chiến trong vòng 3 tuần, theo như tân Bộ trưởng Bộ Chiến tranh, Thống chế Edmond Le Bœuf (Thống chế Niel mất vào năm trước đó). Số này sẽ tăng lên đến 662.000 quân trong trường hợp tổng động viên quân dự bị, cộng thêm chừng 417.366 quân trong các đội Vệ binh Cơ động - Garde Mobile, với tổ chức lỏng lẻo và cần thêm thời gian để huấn luyện Thêm vào đó, quân Pháp còn được trang bị phiên bản tiền thân của súng máy – súng mitrailleuse. Loại súng này được sản xuất một cách bí mật từ năm 1866, với 25 nòng súng, vận hành bởi một vòng tay quay, có khả năng bắn ra 150 viên/phút với tầm bắn 2.000 thước (1.829 mét). Mặc dù mẫu thiết kế này mang tính đột phá và có khả năng tiềm tàng to lớn, nó vẫn không phát huy được hiệu quả do binh lính không được huấn luyện sử dụng đầy đủ, được bố trí trong đội hình quá chật hẹp, và bắn ra ở khoảng cách quá xa nên độ chính xác rất thấp, và không được phát huy hiệu quả bởi các chỉ huy.
Pháo binh Pháp không hề tiến hành tái trang bị vì Nghị viện không bỏ phiếu cấp tiền, và kết quả là bao gồm ba loại cỡ nòng cơ bản: bốn bảng, 12 bảng và súng mitrailleuse. Loại pháo nòng bốn bảng có tầm bắn 1.300 thước (1.189 mét) ở tầm ngắn, và khoảng 2.500 thước (2.286 mét) ở tầm xa, trong khi loại cỡ nòng 12 bảng (đều là đạn nạp tiền) được dùng cho các cuộc bắn phá tầm xa hơn. Dân chúng Pháp đến dự Triển lãm thế giới 1867 tại Paris xem loại đại bác khổng lồ Krupp của Đức, nhưng đa phần đều tỏ ra bàng quan, vì cho rằng loại đại bác này quá cồng kềnh và tốn kém, nên không thực tiễn, hoặc cho rằng chiến tranh là chuyện không liên quan gì đến tiến bộ khoa học công nghệ. Và năm 1868, các chuyên gia vũ khí Pháp chứng kiến sự ưu việt của pháo nạp hậu Krupp trong cuộc trình diễn tại Bỉ. Mặc dù nhận được sự hậu thuẫn tích cực của họ, nhưng Thống chế Le Bœuf vẫn viết "Rien à faire" (Không có gì để làm) trong đơn đặt hàng với Krupp và việc này bị xếp lại. Mãi đến sau chiến tranh, người ta mới phát hiện ra là ông ta và phe cánh tìm cách bảo hộ hãng Schneider của Pháp khỏi sự cạnh tranh.
Trên danh nghĩa, quân đội do Hoàng đế Napoléon III chỉ huy. Thống chế Bazaine, MacMahon và Canrobert ban đầu được chọn để chỉ huy các quân đoàn. Họ cũng như các sĩ quan tùy tùng vốn giành được nhiều vinh quang do sự anh dũng và tài chỉ huy trong các cuộc chiến tranh Crimea, chiến tranh Pháp-Áo và nhiều cuộc chiến tranh thuộc địa khác.
Trên thực tế, quân đội Pháp dù đã tiến hành các cải cách khẩn cấp vì kết quả cuộc Chiến tranh Áo – Phổ, vẫn bị tê liệt bởi sự điều hành yếu kém và việc lên kế hoạch thiếu rõ ràng. Dù Bộ trưởng Le Bœuf tuyên bố Quân đội Pháp đã sẵn sàng "tới chiếc đinh giày cuối cùng", khi chiến sự nổ ra, nhiều đơn vị vẫn còn thiếu quân vì quân dự bị còn vất vưởng tại các khu tuyển quân và nhà ga vì họ vẫn còn phải loay hoay tìm trung đoàn của họ. Trong số rất nhiều trang bị và quân nhu bị thiếu, phải kể đến phần lớn thuốc men tiếp tế vẫn còn nằm lại tại Điện Invalides ở Paris, chờ được vận chuyển. Trong suốt cuộc chiến, sự hành quân của các đơn vị quân Pháp được tiến hành rất tệ, chậm chạp và đầy hỗn loạn, vô quy củ, ngược hẳn với quân đội Phổ với sự kỉ luật thường thấy.
Quân đội Phổ
[[Pháo binh Phổ sản xuất bởi hãng Krupp, 1870]] Tổ chức quân đội Phổ được hoàn toàn biến đổi nhờ công sức của Đại tướng Albrecht von Roon và Quốc vương Wilhelm I của Phổ trong khoảng năm 1858 và về sau. Wilhelm I, vốn đã được thưởng Thập tự Sắt nhờ công lao trong cuộc chiến đấu chống Napoléon I hồi năm 1814, xem việc thống lĩnh ba quân là trách nhiệm của mình. Sau khi cải cách được tiến hành, Quân đội Phổ bao gồm toàn lính quân dịch và quân dự bị. Nghĩa vụ quân sự trở thành bắt buộc cho tất cả đàn ông trong độ tuổi quân dịch, và do đó Phổ và đồng minh miền Nam và Bắc Đức có thể huy động đến 1,2 triệu quân nếu chiến tranh nổ ra, trong vòng chỉ vài ngày. Quân Phổ có ưu thế tuyệt đối về sự cơ động người cũng như vật tư chiến tranh, và không vấp phải cơn ác mộng về tiếp liệu làm vướng chân quân Pháp. Đôi khi người ta miêu tả các chiến sĩ Phổ hùng mạnh như "một đoàn quân có quốc gia". Chính sách quân sự của Đại tướng Roon đã tạo tiền đề cho sách lược chính trị của Bismarck đánh bại các đối thủ theo chủ nghĩa tự do của ông vào năm 1863.. Khiếm khuyết này của súng trường Kreyse được bù lại bởi loại pháo của hãng Krupp cỡ nòng sáu bảng (3 kg) nạp hậu mà pháo binh Đức sử dụng. Pháo Krupp có tầm bắn xa hơn, tốc độ bắn nhanh hơn, và cũng chính xác hơn loại pháo nạp tiền của Pháp rất nhiều. Quân Phổ là lực lượng quân đội duy nhất ở châu Âu có Bộ Tổng Tham mưu mà hoạt động duy nhất là chỉ đạo hướng hành binh, tổ chức tiếp tế, liên lạc và triển khai chiến thuật. Các sĩ quan thuộc Bộ Tổng Tham mưu phải trải qua một quá trình tuyển chọn và huấn luyện khắt khe, thực hiện chức năng tương tự tại tất cả các bộ tham mưu chính yếu. Một Tổng Tham mưu trưởng trong Quân đội Phổ phải là một nhân vật quan trọng, vì ông ta là người duy trì sự liên kết tin cậy giữa chỉ huy và thuộc cấp. Với một lực lượng Quân đội tinh nhuệ như vậy, Bismarck sẽ còn có thể tự tin hơn cả hồi năm 1866, rằng nước Phổ và các đồng minh nhất thiết sẽ chiến thắng cuộc chiến tranh này..
Để giảm sức ép của quân Đức mà người Pháp dự kiến sẽ đánh vào vùng Alsace-Lorraine, Napoléon III và bộ Tổng chỉ huy Pháp vạch kế hoạch mở cuộc đổ bộ đường biển đánh vào miền bắc Đức khi chiến tranh nổ ra. Họ hy vọng rằng cuộc đổ bộ sẽ không chỉ khiến người Đức phải rút bớt quân từ mặt trận về, mà còn sẽ kích thích quân Đan Mạch đông tới 50.000 người cộng với hạm đội đáng kể của họ tham chiến. Tuy nhiên người ta phát hiện ra là Phổ đã cho thiết lập một hệ thống phòng ngự bờ biển đáng gờm dọc theo các cảng biển chính miền Bắc Đức với các trận địa đại pháo Krupp có khả năng nã đạn vào chiến thuyền Pháp từ khoảng cách 4 000 thước (~3658m). Hải quân Pháp không có loại trọng pháo hạng nặng có thể đương đầu với hệ thống pháo phòng thủ bờ biển của Phổ, trong khi địa hình bờ biển Phổ khiến việc đổ bộ là bất khả thi.
Hải quân Pháp và lực lượng thủy quân lục chiến vốn được giao nhiệm vụ đổ bộ đánh vào miền bắc Đức, nay được thuyên chuyển tăng cường cho Quân đoàn Châlons, để rồi bị bắt sống trong trận Sedan cùng với Hoàng đế Napoléon III. Pháp thiếu nghiêm trọng sĩ quan, do phần lớn quân đội chính quy của Pháp bị bắt sống trong cuộc vây hãm pháo đài Metz và trận Sedan, nên buộc phải thuyên chuyển những sĩ quan hải quân từ chiến thuyền sang chỉ huy các đội quân gardes mobiles - vệ binh cơ động, hay các đơn vị quân dự bị.
Khi các trận bão mùa thu ở Biển Bắc làm hư hại các thuyền tuần tiễu còn lại của Pháp, cuộc phong tỏa trở nên ngày càng kém hiệu quả. Tới tháng 9 năm 1870, người ta phải bãi bỏ cuộc phong tỏa khi mùa đông tới, hạm đội Pháp rời về các cảng dọc theo eo biển Manche và ở lại đó cho tới khi kết thúc cuộc chiến, và cuộc đấu pháo giữa tàu Meteor của Đức với tàu Bouvet của Pháp bên ngoài cảng La Habana, Cuba vào tháng 10 năm 1870.
Quân Pháp bất ngờ tiến công
Chuẩn bị tấn công
Bố trí quân Đức và Pháp gần biên giới ngày [[31 tháng 7 năm 1870]] Ngày 28 tháng 7 năm 1870, Napoléon III rời Paris đi Metz và nắm quyền chỉ huy đạo quân mới được đặt tên là Binh đoàn sông Rhin (), với 202.448 quân và dự tính còn tăng thêm nữa khi cuộc động viên tiếp tục. Thống chế MacMahon nắm quyền chỉ huy Quân đoàn 1 (gồm 4 sư đoàn bộ binh) gần Wissembourg, Thống chế François Canrobert mang Quân đoàn 6 (4 sư đoàn bộ binh) tới Châlons-sur-Marne ở miền bắc Pháp làm lực lượng dự bị và đề phòng một cuộc tấn công của Phổ qua hướng Bỉ.
Theo kế hoạch trước khi chiến tranh nổ ra của Thống chế Adolphe Niel, quân Pháp sẽ tấn công từ Thionville tới Trier và tiến vào vùng Rhineland của Phổ. Kế hoạch này bị bãi bỏ, thay bằng kế hoạch phòng ngự của tướng Charles Frossard và tướng Bartélemy Lebrun, theo đó Binh đoàn sông Rhin sẽ phòng ngự gần biên giới với Đức và đẩy lùi các cuộc tấn công của Phổ. Vì họ tính rằng Áo, cùng với Bayern, Württemberg và Baden sẽ tham chiến để trả thù Phổ, Quân đoàn 1 sẽ tiến chiếm vùng Pfalz thuộc Bayern rồi từ đó sẽ phối hợp với quân Áo-Hung "giải phóng" các tiểu quốc Nam Đức. Quân đoàn 6 sẽ tăng viện một trong hai cánh quân này nếu cần thiết. Ngoài ra, tuy chưa có trinh sát gì về tình hình nước Phổ, quân Pháp dự định sẽ tiến chiếm kinh thành Berlin.. Do đó, kế hoạch nêu trên của quân Pháp bị phá sản.
Quân đoàn 2 của tướng Frossard và Quân đoàn 3 của Thống chế Bazaine vượt biên giới Đức ngày 2 tháng 8, bắt đầu đẩy lui lực lượng thuộc trung đoàn 40 của sư đoàn 16 bộ binh khỏi thị trấn Saarbrücken sau một loạt cuộc giáp chiến. Súng trường Chassepot của Pháp tỏ rõ tính ưu việt so với súng trường Dreyse của quân Phổ, khi tầm bắn quân Pháp thường vượt quá tầm bắn quân Phổ trong các cuộc chạm trán quanh Saarbrücken. Tuy nhiên, quân Phổ chống cự ngoan cường, và quân Pháp phải chịu 86 thương vong so với 83 thương vong về phía quân Phổ. Saarbrücken cũng là một trở ngại về mặt hậu cần, vì chỉ có một tuyến đường sắt duy nhất nối liền thị trấn với vùng nội địa Đức, đồng thời hệ thống sông ngòi ở vùng này lại chạy song song với biên giới, thay vì hướng về phía nội địa. Trong khi quân Pháp hoan nghênh chiến thắng này như là bước đầu của sự chinh phục vùng Rhineland và tiếp theo là kinh đô Berlin, thì tướng Le Bœuf và Napoléon III lại nhận được những báo cáo nguy cấp từ báo chí nước ngoài về việc quân Phổ và Bayern đã hội quân ở phía đông nam, cùng với các lực lượng ở hướng bắc và đông bắc.
Moltke trên thực tế đã hội 3 cánh quân;
- Binh đoàn 1 (1. Armee) với 50.000 quân, chỉ huy bởi tướng Karl von Steinmetz – một danh tướng 74 tuổi vốn bắt đầu sự nghiệp với cuộc chiến đấu chống lại Napoléon I - đối diện Saarlouis
- Binh đoàn 2 (2. Armee) với 134.000 quân chỉ huy bởi Hoàng thân Phổ Friedrich Karl (được mệnh danh là "Hồng Thân vương" vì thường vận quân phục màu đỏ của Khinh Kỵ binh. Kế hoạch này của Moltke đã tái hiện lại kế sách tương tự của ông trong cuộc chiến chống Áo vào năm 1866.
Thống chế MacMahon, cho tới lúc này ở gần Wissembourg nhất, dàn bốn sư đoàn của mình trên một diện rộng 20 dặm để đề phòng một cuộc tấn công của quân Phổ. Việc bố trí binh lực này xuất phát từ việc hậu cần cho quân đội không được bảo đảm, khiến cho các sư đoàn phải tự lo kiếm lấy lương thực cho mình. Tình hình đã xấu còn bị làm cho trở nên tồi tệ hơn bởi tướng Auguste-Alexandre Ducrot, chỉ huy sư đoàn 1 của Thống chế MacMahon. Ông ta thông báo với tướng Abel Douay, chỉ huy sư đoàn 2 ngày 1 tháng 8 rằng "Thông tin mà tôi nhận được cho thấy không có những lực lượng đáng kể địch quân ở các vị trí tiền phương, và quân địch không có ý định chuyển sang tấn công". Hai ngày sau, ông ta cho MacMahon biết là ông ta không phát hiện ra "dù chỉ 1 vị trí địch quân[...], theo tôi thì mối đe dọa từ quân Bayern chỉ là trò bịp bợm". Dù tướng Ducrot coi nhẹ khả năng quân Đức tấn công, nhưng Thống chế MacMahon vẫn tìm cách cảnh báo các sư đoàn dưới quyền, nhưng không có kết quả. Cùng ngày hôm đó, tại kinh thành Paris, một trong những người con của Napoléon III làm lễ nổ súng đại bác, báo hiếu cuộc chiến tranh bùng nổ, với những tiếng hô vang lên "Về phía Berlin" (À Berlin).
Cuộc giao tranh bên trong thị trấn trở nên hết sức dữ dội, giao tranh diễn ra trên từng căn nhà, từng góc phố. Dù bộ binh Phổ liên tục tấn công, binh lính sư đoàn 2 vẫn ngoan cường phòng ngự các vị trí của mình. Tuy nhiên dân chúng Wissembourg tỏ ra tuyệt vọng, đầu hàng quân Đức vì cho rằng tiếp tục kháng cự là vô ích, từ chối hỗ trợ cho binh lính Pháp tiếp tục kháng cự. Những binh lính Pháp không chịu đầu hàng rút lui về phía tây, bỏ lại chừng 1000 người bị bắt làm tù binh, cùng tất cả số đạn dược. Quân Phổ đã sẵn sàng thừa thắng xông lên, trong khi người Pháp vẫn tiếp tục tỏ ra hết sức mù quáng dù sức mạnh cỗ máy chiến tranh Phổ đã dần hiện ra.
Trận Spicheren
Bản đồ hướng tấn công của quân Đức và Phổ ngày 5 và 6 tháng 8 năm [[1870]] Trận Spicheren, diễn ra ngày 5 tháng 8, là trận thua thứ hai trong ba trận đại bại của quân Pháp. Tướng Helmut von Moltke ban đầu định cầm chân đạo quân của Thống chế Bazaine bên bờ sông Saar cho tới khi ông ta có thể tấn công với Binh đoàn số 2 đánh đằng trước và Binh đoàn số 1 đánh tạt sườn trái, trong khi Binh đoàn số 3 đánh vòng tập hậu. Viên tướng già nua Karl von Steinmetz vì ganh tỵ nên cứ cho tiến quân không theo kế hoạch, dẫn Binh đoàn số 1 về hướng nam từ vị trí đóng quân bên bờ sông Moselle. Ông ta tiến thẳng về hướng thị trấn Spicheren, và trong quá trình hành quân khiến cho Vương tử Friedrich Karl bị cắt rời khỏi các đạo kỵ binh tiền phương của ông.
Về phía quân Pháp, việc lên kế hoạch sau trận thảm bại tại Wissembourg trở thành vấn đề sinh tử. Tướng Le Bœuf, giận dữ điên người, dự định mở cuộc tấn công theo hướng Saar để bù đắp lại thua thiệt. Tuy nhiên, việc lên kế hoạch cho trận giao tranh kế tiếp lại dựa chủ yếu vào tình hình thực tế đang diễn ra, hơn là vào cảm xúc bảo vệ danh dự bị thương tổn, như tướng Wolff nhắc nhở ông và bộ chỉ huy của mình là việc tiếp tế xa hơn vùng Saar là bất khả thi. Do đó, các cánh quân Pháp phải tiến hành chiếm lĩnh các vị trí phòng thủ đề phòng ngự mọi hướng tấn công có thể của địch, nhưng đồng thời việc này cũng làm cho quân Pháp không thể hỗ trợ cho nhau được.
Trong khi đạo quân Pháp dưới quyền tướng MacMahon nghênh chiến với Binh đoàn số 3 Đức trong trận Worth, Binh đoàn số 1 Đức dưới quyền tướng Steinmetz hoàn tất cuộc hành quân về hướng tây từ Saarbrücken. Quân tuần tiễu của Binh đoàn số 2 Đức dưới quyền chỉ huy của Hoàng thân Phổ Friedrich Karl phát hiện các đám cháy nghi binh lân cận và đạo quân của tướng Frossard ở đằng xa, trên một bình nguyên phía nam thị trấn Spicheren, nên coi đó là dấu hiệu đạo quân của Frossard đang rút chạy. Lờ đi kế hoạch của tướng Moltke, cả hai đạo quân Đức tiến công Quân đoàn 2 của Pháp phòng ngự ở khoảng giữa Spicheren và Forbach.
Quân Pháp không biết rằng mình chiếm ưu thế về binh số khi trận đánh nổ ra, vì Binh đoàn số 2 Đức không đồng loạt tấn công. Tướng Frossard cho là cuộc tấn công của quân Đức chỉ là những cuộc đụng độ lẻ tẻ, nên không gọi viện binh từ các đạo quân khác. Cho tới khi ông nhận biết được các lực lượng đối địch thì đã quá muộn. Liên lạc giữa tướng Frossard và các sĩ quan chỉ huy quân dự bị dưới quyền Thống chế Bazaine chậm chạp đến mức tới khi các lực lượng dự bị nhận được lệnh tiến về Spicheren thì binh lính Đức thuộc Binh đoàn số 1 và số số 2 đã tấn công lên đến các cao điểm. Vì quân dự bị chưa đến nơi, nên tướng Frossard nhầm lẫn một cách tai hại là quân mình đang đứng trước nguy cơ bị đánh tạt sườn, vì quân Đức của tướng von Glume xuất hiện ở Forbach. Thay vì tiếp tục phòng ngự cao điểm, khi trận đánh dịu đi lúc trời xẩm tối, ông ta cho quân rút về hướng nam. Quân Đức bị nhiều tổn thất vì súng trường chassepot hiện đại của Pháp, nên họ hết sức ngỡ ngàng sáng hôm sau khi phát hiện ra nỗ lực của họ không phải là vô ích - tướng Frossard đã rút chạy khỏi các vị trí phòng ngự trên bình nguyên. Tuy cả hai đoàn quân đếu chiến đấu ác liệt, quân Đức đã đại thắng trận chiến này.
Trận Wœrth
[[Aimé Morot, La bataille de Reichshoffen, 1887]]
Chỉ hai ngày sau (6 tháng 8 năm 1870), gần Wœrth tại thị trấn Frœschwiller, chưa đầy 16 km từ Wissembourg, hai đạo quân lại giao chiến một lần nữa. Quân Đức của Binh đoàn số 3 được tăng thêm quân dự bị, tổng số lên đến 140.000 quân. Quân Pháp cũng nhận được viện binh, nhưng viện binh của họ đến rất chậm, nên tổng số quân Pháp chỉ có 35.000 quân. Mặc dù phải chống lại đối phương đông gấp bội, quân Pháp vẫn cầm cự ở ngay ngoại vi Frœschwiller. Tới trưa, cả hai phe tham chiến đều phải chịu 10.000 thương vong, quân Pháp do bị tổn thất quá lớn nên không thể tiếp tục kháng cự. Nguy hơn nữa là quân Đức đã chiếm được thị trấn Frœschwiller tọa trên đỉnh đồi nằm ngay ở trung tâm phòng tuyến quân Pháp. Không còn hy vọng giành chiến thắng và đứng trước nguy cơ bị tàn sát bởi quân Đức, quân Pháp rút lui khỏi chiến trường về phía tây, hy vọng liên hợp được với các cánh quân Pháp khác ở phía bên kia dãy núi Vosges. Binh đoàn số 3 Đức không truy kích quân Pháp mà dừng lại ở Alsace rồi chậm rãi di chuyển về phía nam, tấn công và tiêu diệt các đơn vị trú phòng Pháp ở các khu vực lân cận.
Trận Wœrth là trận chiến quan trọng đầu tiên của cuộc chiến tranh Pháp-Phổ, với hơn 100.000 quân tham chiến. Đó cũng là trận giao tranh đầu tiên mà binh lính từ khắp các tiểu quốc Đức (Phổ, Baden, Bayern, Sachsen...) hợp đồng tác chiến. Vì việc này mà một số sử gia gọi chiến trường Wœrth là "cái nôi của nước Đức". Cái giá của chiến thắng không phải là nhỏ, quân Phổ mất 10.500 binh lính hoặc bị thương. Tình hình quân Pháp của tướng MacMahon còn bi đát hơn, họ thiệt hại tới 19.200 người (chết, bị thương hay bị bắt làm tù binh). Hoàng thái tử Friedrich Wilhelm - người anh hùng của trận thắng này, có ghi nhận: Trong trận đánh này có sự tham chiến của hai người con của Thủ tướng Bismarck là Herbert von Bismarck và Wilhelm von Bismarck. Trong đêm sau trận đánh Mars-la-Tour, khi đang dùng bữa tối với Quốc vương Wilhelm I và Tổng tham mưu trưởng Moltke, Bismarck hay tin rằng Herbert đã hy sinh và Wilhelm thì bị thương chí mạng. Ông lập tức đi tìm các con của mình. Khi vào một trang trại tại một ngôi làng nơi chứa thương binh, ông thấy hai con của mình. Herbert không chết nhưng bị thương, còn Wilhelm thì đã bị ngã ngựa. Từ lúc đó, ông không bao giờ cho các con mình ra trận nữa.
Trận Gravelotte
trái|[[Juliusz Kossak, Battle of Gravelotte, quân Phổ trong trận Gravelotte, 1871]] Trận Gravelotte, hay còn gọi là trận Saint-Privat, là trận chiến lớn nhất trong cuộc chiến tranh Pháp-Phổ. Trận chiến diễn ra về phía tây Metz khoảng 10 km, thuộc tỉnh Lorraine, Pháp, nơi mà một ngày trước đó, sau khi chặn đường rút lui của quân Pháp theo hướng tây sau trận Mars-La-Tour, quân Phổ hội quân lại nhằm tiêu diệt hoàn toàn các lực lượng Pháp. Sự giáp phải hỏa lực quân Pháp của quân Phổ khi chủ động tấn công trong trận đánh ác liệt này đã khiến họ được so sánh với lực lượng tiến công trong trận Gettysburg vào năm 1863 thời Nội chiến Hoa Kỳ.
Từ 22 giờ, tiếng súng yên dần trên toàn trận địa cho tới hết đêm. Sáng hôm sau, Binh đoàn sông Rhin của Pháp, thay vì tiếp tục trận đánh và mở cuộc phản kích vào các cánh quân Phổ kiệt sức sau trận giao chiến, lại rút lui về Metz và bị bao vây, cho tới khi họ buộc phải hạ vũ khí đầu hàng hai tháng sau. Do đó, cuộc lui quân về Metz của Bazaine được coi là thời khắc quyết định của cuộc chiến tranh đế quốc, và thể hiện tầm vóc quan trọng của trận đại thắng ở Gravelotte đối với người Phổ - Đức.
Trận đánh Gravelotte là một trong những trận chiến khốc liệt nhất của thế kỷ XIX.
Đại quân Pháp đóng cứ với vị trí hết sức là không thuận lợi Tới cuối ngày, khi hy vọng phá vây không còn, Napoléon III hủy bỏ lệnh tấn công. Quân Pháp mất hơn 17.000 người chết và bị thương, với 21.000 người bị bắt sống. Quân Phổ mất 2.320 người bị giết, 5.980 bị thương và 700 người bị bắt hoặc mất tích.
Ngày hôm sau, ngày 2 tháng 9, trước tình thế quân Đức vây bọc quân Pháp, Với đạo quân Pháp bị cầm chân và vây hãm trong thành phố Metz, người Pháp không còn lực lượng nào có thể cản nổi sức tấn công của quân Phổ, tuy vậy cuộc chiến sẽ vẫn còn tiếp diễn trong 5 tháng nữa. Dẫu sao đây nữa thì đại thắng huy hoàng tại Sedan của Quân đội Đức đã đưa tình đoàn kết to lớn của các quốc gia Đức lên tới đỉnh điểm. Nếu như chiến thắng hủy diệt của quân Phổ trong trận này đã mang lại kết cục thiếu vinh quang cho Napoléon III, thì nó đồng thời đem lại đỉnh cao vinh quang cho Bismarck, đặt nền móng vững chắc cho thắng lợi về mặt chính trị của ông. Trận chiến tại Sedan đã trở thành một trong những chiến thắng lẫy lừng nhất gắn liền với nền quân sự Phổ trong suốt chiều dài của mình.
Như một tuyệt tác của Tổng Tham mưu trưởng bậc thầy Von Moltke, chiến thắng hùng tráng, "thiêng liêng" tại trận Sedan được nhân dân Đức đánh giá rất cao, như một bước ngoặt trong lịch sử nhân loại. Vào ngày 3 tháng 9 năm 1870, tại Nhà hát Mới ở Leipzig, người Đức làm lễ ăn mừng chiến thắng. Chỉ sau một thời gian ngắn mà cuộc tiến công nhanh gọn của các đoàn binh Phổ thiện chiến đã khiến quân Pháp trở nên nhục nhã. Sau chiến thắng quyết định của quân Đức tại Sedan, đại bộ phận quân thường trực của Pháp bị loại khỏi vòng chiến, một đạo quân bị cầm chân và bị vây hãm tại Metz, đạo quân chỉ huy bởi Hoàng đế Napoléon III thì đầu hàng. Tình hình đó khiến người Đức hy vọng một cuộc ngừng bắn sẽ nhanh chóng được thông qua để chấm dứt chiến tranh. Thủ tướng Bismarck đặc biệt kỳ vọng vào cuộc ngừng bắn, vì ông muốn chấm dứt chiến tranh càng nhanh càng tốt. Với một quốc gia bị bao quanh bởi quá nhiều nước láng giềng, một cuộc chiến dai dẳng mang lại nguy cơ can thiệp từ phía một cường quốc khác, và von Bismarck quyết tâm không đánh liều.
Thoạt đầu, triển vọng cho hòa bình khá sáng sủa. Người Đức tính rằng chính phủ mới của Pháp không muốn tiếp tục cuộc chiến tranh gây ra bởi Vương triều mà họ vừa lật đổ. Để dọn đường đàm phán hòa bình, Thủ tướng Phổ von Bismarck mời tân chính phủ Pháp đến dự đàm phán tại Ferrières và đưa ra những yêu sách vừa phải, bao gồm yêu cầu một số vùng lãnh thổ nhỏ tại tỉnh Alsace, mặc dầu ngay từ trước chiến thắng lẫy lừng tại Sedan, báo chí Đức cũng bàn bạc nhiều về chuyện người Đức yêu cầu Pháp phải nhượng cả hai vùng Alsace và Lorraine.. Bằng được không làm theo những yêu sách tương đối khoan hồng của Thủ tướng Bismarck,. Tiếp đó, Garibaldi đến Tours, thủ đô tạm thời của nước Pháp khi Paris đang bị vây hãm, và nắm quyền chỉ huy Binh đoàn Vosges (Armée des Vosges), một đạo quân bao gồm quân tình nguyện. Báo chí cấp tiến Pháp (nhất là Le Siècle) tôn vinh Garibaldi là vị anh hùng giải phóng của nhân dân bị áp bức, và coi ông là công dân thế giới chứ không phải chỉ mỗi nước Ý. Chiến dịch của Garibaldi tại miền Đông Pháp đã thất bại. Dù con ông là Ricciotti giành chiến thắng nhỏ nhoi trước quân Đức tại Châtillon-sur-Seine, nhưng Garibaldi khi gửi một đạo quân đến giúp thị dân Dijon chống lại cuộc chiếm đóng của quân Đức thì dân chúng Dijon đã đầu hàng, khiến cho quân ông phải thoái lui. Và rồi, vào ngày 31 tháng 1 năm 1871, quân Đức tiếp tục tổ chức công kích Dijon. Garibaldi thất bại và đêm ngày hôm ấy ông cho rút quân, và bản thân ông cũng lập doanh trại khác tại Chagny. Quân Đức thừa thắng đoạt lấy Dijon vào sáng ngày 1 tháng 2 năm 1871. Garibaldi cũng hoàn toàn từ bỏ Dijon khi thỏa ước giữa hai phe được ký kết.
Lúc bấy giờ tướng Mỹ Philip Sheridan - trở nên nổi tiếng với Chiến dịch Thung lũng Shenendoah vào năm 1864 trong cuộc Nội chiến Hoa Kỳ, đến làm quan sát viên của lực lượng Quân đội Phổ. Vốn đã khét tiếng với chiến tranh "tiêu thổ" của mình, ông khuyên Thủ tướng Bismarck nên thực hiện lối đánh này nhằm tận diệt quân Pháp. Tuy nhiên, Moltke phản đối kịch liệt. Vào ngày 7 tháng 10 năm 1870, dù chiến sự vẫn chưa chấm dứt, ông bình tĩnh tuyên bố rằng cuộc chiến thực sự đã kết thúc, và do đó ông không cần phải tiến hành một chiến dịch nào lớn hơn. Thực chất, ông chỉ muốn cho hai đạo quân Đức đánh vào thành phố, rồi chỉ cắt tiếp tế lương thực để cho thị dân Paris chóng đói, xin hàng. Vào ngày 23 tháng 9 năm 1871, Paris hoàn toàn bị vây hãm. Lúc bấy giờ, người Pháp chỉ còn có cách là dùng khinh khí cầu. Trong khi ấy, vào ngày 7 tháng 10 năm 1870 Gambetta dùng khinh khí cầu bay gần đến nước Bỉ, và tới được miền Đông Nam nước Pháp để tìm kiếm lương thực. Trong suốt ba tháng 11, 12 và 1, Gambetta có những ba lần tìm cách phá vòng vây. Tất cả các đợt chống trả này đều bị quân Đức đánh tan tác. Sau chiến bại nặng nề tại Le Mans, Chanzy kể rằng có đến 7 vạn binh lính Pháp đã đào ngũ - tương đương với quân số của đoàn quân Phổ đại thắng trận Le Mans. Quân Pháp đã suy sụp trước sức mạnh uy chấn của các đoàn quân Đức của Von Moltke. Trong khi ấy, dân chúng Paris chịu biết bao nhiêu là đau khổ trong cuộc vây hãm của quân Đức. Đây là một nỗi nhục ghê gớm của nước Pháp thất trận. Tại buổi lễ thiết lập Đế quốc Đức có sự tham gia của viên Sĩ quan Paul von Hindenburg - vốn đã chiến đấu xuất sắc trong cuộc Chiến tranh Áo - Phổ và sau này sẽ còn là một trong những vị Thống chế xuất sắc của Quân đội Đế quốc Đức.
Đến đây, vị thủ tướng đại tài Otto von Bismarck, sau một loạt cuộc chinh chiến của nền quân phiệt Phổ, đã đạt được chiến quả hiển hách là nhất thống được cả dân tộc Đức sau hàng thế kỷ bị chia cắt. Thực chất Moltke có ý định triệt tiêu hoàn toàn sức mạnh của Pháp và hoãn lại việc thiết lập hòa bình, nhưng Bismarck đã thắng thế. Ba cuộc chiến tranh này, đều mở đầu với cuộc tấn công của quân Đức vào đất Pháp, thể hiện đúng theo điều nhà chiến lược đại tài Karl von Clausewitz đã trông thấy trước. Đây là một mối thù nhằm tranh giành quyền bá chủ vùng Tây Âu giữa hai dân tộc Đức và Pháp. đồng thời là cuộc chiến đầu tiên trong số ba cuộc Chiến tranh Pháp - Đức khốc liệt trong suốt 70 năm trời. Nếu sự sụp đổ của Pháp trước cuộc tấn công của Đức Quốc xã vào năm 1940 đưa quá trình suy vong của Pháp lên đến đỉnh điểm, thì chiến thắng oanh liệt của Đế quốc Đức trong cuộc chiến năm 1870 - 1871 này đã mở ra quá trình ấy. Ông đã bày binh bố trận hết sức chuẩn mực: ông cho lực lượng Pháo binh kìm chân quân Pháp trực diện, sau đó xua đại quân đánh thốc vào sườn địch và áp đảo địch quân: hơn hết cả, quân Phổ đã hủy diệt được quân Pháp nhờ có hỏa lực khủng khiếp và sự bố trí đúng đắn của quân Pháo binh từ bên kia dãy súng Chassepot của Pháp. Điều này đã chứng nhận hoàn toàn tài nghệ chiến lược tuyệt đỉnh của Moltke, vốn đã biểu hiện trong cuộc Chiến tranh Áo - Phổ trước đó, và làm áp đảo hoàn toàn lợi thế của Pháp về súng Chassepot. Với các thắng lợi của Moltke, ông trở thành người học trò xuất sắc của nhà lý luận quân sự Phổ vĩ đại Karl von Clausewitz. Công tích mang tính chiến lược huy hoàng của ông - là chiến thắng uy dũng của nước Đức trong cuộc Chiến tranh Pháp - Đức này, đã thể hiện khả năng của ông biết tận dụng lợi thế đã đánh bại kẻ địch. Thời đấy, nước Phổ có hệ thống hỏa xa lớn thứ tư trên khắp thế giới trong khi hệ thống hỏa xa của Pháp thì lớn thứ năm, và cũng nhờ nền giáo dục quân sự rất tốt mà họ đã chiến thắng cả cuộc chiến. Ngay cả những đạo quân Nam Đức cũng chiến đấu hiệu quả, dù họ đã từng chống lại sự truyền bá của tổ chức và các phương pháp quân sự Phổ. Giờ đây, họ đã nuôi dưỡng cách nhìn nhận rằng cuộc chiến tranh này là một cuộc Thập Tự chinh Chưa bao giờ Bismarck trở nên được lòng dân như sau chiến thắng cuộc chiến này. Chính tài năng của cả hai ông kết hợp lại đã mang lại cho Đức Quốc một chiến thắng quyết định đến như thế.. Đến tận năm 1940, khi nước Đức Quốc xã đại thắng trận chiến nước Pháp và làm chủ được Pháp, cựu hoàng Wilhelm II khi viết thư chúc tụng Lãnh tụ Đức Quốc xã Adolf Hitler cùng với toàn thể lực lượng Vệ Quốc Quân, đã hoài niệm về chiến thắng huy hoàng của người ông nội Wilhelm Đại Đế của ông trong cuộc Chiến tranh Pháp - Đức năm 1870 - 1871. Ông trích dẫn câu nói của Đức hoàng Wilhelm I trong năm thắng lợi ấy:
Thực chất, với sự nhất thống của nước Đức thì chiến thắng về chính trị của Bismarck đã được hoàn vẹn ngay cả trước khi Paris đầu hàng Pháp không những đại bại, mà cuộc chiến này còn hạ nhục Pháp một cách nặng nề. Và, khi hay tin về sự sụp đổ của Napoléon III - chính là kẻ đã đánh bại họ trong cuộc Chiến tranh Krym, Đế quốc Nga rất mực vui sướng.
Phản ứng của Phổ và cuộc rút quân
Lễ Tuyên bố thành lập Đế quốc Đức Như vậy chính nhờ những lần xuất binh không ngừng của nước Phổ đã mang lại quốc thống cho nước Đức.. Cùng thời gian, các lực lượng Phổ rút khỏi Pháp và tập kết tại các tỉnh Alsace và Lorraine. Ở thủ đô diễn ra một cuộc tản cư lớn với chừng 200.000 người, phần lớn thuộc tầng lớp trung lưu, về miền thôn quê. Paris được Vương quốc Anh nhanh chóng cung ứng lương thực và nhiên liệu miễn phí, nên theo một số tài liệu thì cuộc sống trong thành phố dần trở lại bình thường.
Trong những giờ phút đóng quân cuối cùng của người Đức tại Versailles, Hoàng thái tử Friedrich Wilhelm khuyên Bismarck tiến cử Tử tước Von Roggenbach làm quan Tổng trấn tỉnh Alsace. Tuy nhiên, vốn đã biết về con người của Roggenbach thông qua những gián điệp của mình, vị Thủ tướng từ chối. Friedrich Wilhelm cho rằng Bismarck tỏ ra uy quyền và chỉ muốn bổ nhiệm những người luôn luôn biết tuân phục ông. Hoàng đế và Thái tử chiến thắng về nước, được toàn dân chào đón nhiệt liệt ở khắp mọi điểm dừng, và rồi xa giá đến thành Potsdam vào ngày 17 tháng 3 năm 1871. Trên cao điểm của sự nghiệp chính trị của mình, người chính khách thiên tài Otto von Bismarck trở về kinh kỳ Berlin vào tháng 3 năm 1871, tên tuổi ông đã trở thành bất hủ. Hoàng đế Wilhelm I phong cho ông là Vương tước (Fürst).
Nhìn chung, trong mọi buổi lễ kỷ niệm chiến thắng quyết định của nước Đức hùng mạnh, nhiệt huyết của chủ nghĩa dân tộc - quân phiệt Đức sục sôi dâng trào. Trong niềm vui sướng chiến thắng, họ còn trở nên vô cùng mộ đạo. Họ cho rằng chiến thắng rực rỡ của họ là thuận theo mệnh Trời. Và, sau chiến thắng rực rỡ, nước Đức vẫn luôn xem trọng sức mạnh của Pháo binh hạng nặng đã mang lại chiến thắng cho mình Vào năm 1905, người Đức càng cải tiến thêm tầm đạn của Pháo binh hiệu Krupp. Điều ấy khiến cho về Pháo binh hạng nặng - vốn cũng đóng vai trò rất lớn cho trong các cuộc chiến khác vào thời đó như Chiến tranh Boer lần thứ hai hoặc là Chiến tranh Nga-Nhật, Đế quốc Đức hùng mạnh vẫn áp đảo Cộng hòa Pháp. Cuộc chiến cũng thể hiện rằng sự chuyên môn quân sự là không thể thiếu được để mà vệ quốc. Sự chiến đấu tệ hại của các Binh đoàn Tham mưu là một trong những nguyên nhân dẫn đến chiến bại, do đó điều này khiến cho người Pháp chủ trương xây dựng Bộ Tổng Tham mưu theo kiểu Phổ. Cho đến năm 1914, khi cuộc Đại chiến thế giới thứ nhất - một cuộc Chiến tranh Pháp - Đức còn khốc liệt hơn nhiều Giai đoạn đầu tiên của cuộc Chiến tranh thế giới này, các đợt công kích của quân Pháp đều thất bại rất thảm hại.
Theo Hiệp ước Frankfurt, ngoài việc thành phố Strasbourg và pháo đài Metz bị cắt cho Đức, Đức còn được sở hữu tỉnh Alsace và phần phía bắc tỉnh Lorraine (Moselle), cả hai vùng đất này (đặc biệt là Alsace) có đa phần dân cư là người Đức. Người Pháp trở nên rất cay đắng với chiến bại của mình, và các Chính phủ liên tiếp thay nhau đều ưu tiên cho việc đòi lại Alsace và Lorraine. Cuộc Chiến tranh Pháp - Đức (1870 - 1871) đã đi vào lịch sử như một trong những cuộc chiến đầy thảm họa nhất trên đất Pháp. Trong khi vào năm 1871 thì nước Đức có dân số tương đương với Pháp, thì vào năm 1914, họ có đông đảo dân số hơn hẳn - nhân dân Đức đều được giáo dục tốt, có tinh thần kỷ cương và sáng tạo hơn bất kỳ một dân tộc nào khác trên thế giới. Cũng biết rằng do kẻ thù bại trận của mình luôn uất ức với thất bại thảm hại trong cuộc Chiến tranh Pháp - Đức năm 1870 - 1871, Bộ Tổng Tham mưu Đức trong suốt thời gian thái bình đã ráo riết chuẩn bị cho chiến tranh, và Kế hoạch Schlieffen ra đời.
Nước Đức không có một quốc lễ như ngày quốc khánh 14 tháng 7 của nước Pháp, kỷ niệm sự kiện quần chúng đột chiếm ngục Bastille. Tuy nhiên, gắn liền với niềm vinh quang của Đế quốc Đức có các lễ kỷ niệm quan trọng, nhất là lễ đăng ngôi của Hoàng đế Wilhelm I tại cung điện Versailles - tức là ngày 18 tháng 1, rồi đến ngày 2 tháng 9 - là ngày đại thắng ở trận Sedan - lễ mừng của những người theo Phúc Âm tại Đức.
Ngoài ra, trong khi người Pháp luôn mang nặng tư tưởng phục thù thì người Đức sau chiến thắng luôn nhắc đến cái ngày Der Tag - khi ấy Đế quốc Đức tiêu diệt được cả Đế quốc Áo lẫn Pháp. Sau khi nước Pháp chiến bại hoàn toàn chiến phí, người Đức từng bàn chuyện xuất binh đánh Pháp thêm một lần nữa để tránh bị báo thù. Mặt khác, chính sách của Bismarck sau thống nhất cũng tránh né xung đột và củng cố nền quốc thống. Do đó, cuộc Chiến tranh Pháp - Đức cũng trở thành một sự kiện nổi bật trong quan hệ Đức - Ba Lan, mở đầu cho một thời kỳ lâu dài mà các nhà cầm quyền Đức tiến hành những biện pháp trấn áp Ba Lan và nỗ lực thực hiện công cuộc Đức hóa.