Chiến tranh Schleswig đầu tiên (tiếng Đức: Schleswig-Holsteinischer Krieg), còn được gọi là Khởi nghĩa Schleswig-Holstein (tiếng Đức: Schleswig-Holsteinische Erhebung) và Chiến tranh ba năm (tiếng Đan Mạch: Treårskrigen), là một cuộc xung đột quân sự ở miền nam Đan Mạch và miền bắc nước Đức bắt nguồn từ Liên minh Schleswig-Holstein, tranh luận về vấn đề ai sẽ kiểm soát các Công quốc Schleswig, Holstein và Lauenburg, những người vào thời điểm đó được cai trị bởi vua Đan Mạch trong một liên minh cá nhân. Cuối cùng, phía Đan Mạch đã giành chiến thắng với sự hỗ trợ ngoại giao của các cường quốc, đặc biệt là Anh và Nga, vì các công quốc này nằm gần một tuyến đường biển Baltic quan trọng nối liền cả hai cường quốc.
Dân số đa số là người Đan Mạch ở Bắc Schleswig (gần khu vực được trả lại cho Đan Mạch sau Thế chiến thứ nhất) trong khi ở phần còn lại của Schleswig và ở Holstein và Lauenburg, đa số là người Đức.
Tháng 3 năm 1848, người Đức ở Schleswig, Holstein và Lauenburg nổi dậy, thành lập chính phủ và quân đội lâm thời. Vì Holstein và Lauenburg là các quốc gia thành viên của Liên minh Đức, nên nó ủng hộ quân nổi dậy như một cuộc chiến tranh liên bang (Bundeskrieg) theo quy chế của nó. Điều này được tiếp tục bởi Chính phủ Trung ương Đức (của nhà nước liên bang đã thay thế Liên bang vào năm 1848/49-51), với hầu hết quân đội Đức do Phổ chuyển giao.
Chiến tranh bị gián đoạn vào tháng 8 năm 1848 bởi hiệp định đình chiến Malmö nhưng lại bắt đầu bằng một cuộc tấn công của Đan Mạch vào tháng 2 năm 1849. Vào mùa hè năm 1850, Phổ phải rút lui và để quân nổi dậy tự quyết. Vào ngày 1 tháng 4 năm 1851, quân đội Schleswig-Holstein bị giải tán. Nghị định thư Luân Đôn năm 1852 là giải pháp cuối cùng cho cuộc xung đột với các cường quốc xác nhận vua Đan Mạch là công tước của các công quốc nhưng cũng tuyên bố rằng các công quốc phải độc lập khỏi Đan Mạch.
Diễn biến
Vào đầu năm 1848, Đan Mạch bao gồm Công quốc Schleswig, và vua Đan Mạch cai trị các công quốc Holstein và Sachsen-Lauenburg trong Liên bang Đức. Phần lớn người dân tộc Đức ở Đan Mạch sống ở những khu vực này. Người Đức chiếm một phần ba dân số của đất nước, và ba công quốc chiếm một nửa nền kinh tế của Đan Mạch. Chiến tranh Napoléon, kết thúc vào năm 1815, đã thúc đẩy chủ nghĩa dân tộc của cả Đan Mạch và Đức. Hệ tư tưởng Liên Đức đã trở nên có ảnh hưởng lớn trong những thập kỷ trước chiến tranh, và các nhà văn như Jacob Grimm (1785–1863) và Peter Andreas Munch người Na Uy (1810–1863) lập luận rằng toàn bộ bán đảo Jutland đã có người Đức sinh sống trước khi người Đan Mạch đến và do đó người Đức có thể đòi lại nó một cách chính đáng. Jens Jacob Asmussen Worsaae (1821–1885), một nhà khảo cổ học đã khai quật các phần của Danevirke, bác bỏ những tuyên bố thân Đức, viết những cuốn sách nhỏ lập luận rằng không có cách nào biết được ngôn ngữ của những cư dân đầu tiên trên lãnh thổ Đan Mạch, rằng người Đức đã có những yêu sách lịch sử vững chắc hơn đối với phần lớn nước Pháp và Anh, và rằng người Slav theo lý do tương tự có thể thôn tính các phần của miền đông nước Đức.
Các mục tiêu trái ngược nhau của những người theo chủ nghĩa dân tộc Đan Mạch và Đức đã góp phần làm bùng nổ Chiến tranh Schleswig lần thứ nhất. Những người theo chủ nghĩa dân tộc Đan Mạch tin rằng Schleswig, chứ không phải Holstein, nên là một phần của Đan Mạch, vì Schleswig có một số lượng lớn người Đan Mạch, trong khi Holstein thì không. Những người theo chủ nghĩa dân tộc Đức tin rằng Schleswig, Holstein và Lauenburg nên duy trì sự thống nhất, và niềm tin của họ rằng Schleswig và Holstein không nên bị tách rời đã dẫn đến việc hai công quốc được gọi là Schleswig-Holstein. Schleswig đã trở thành một nguồn gây tranh cãi đặc biệt, vì nó chứa một số lượng lớn người Đan Mạch, người Đức và người Bắc Frisia. Một nguyên nhân khác của cuộc chiến là sự thay đổi đáng ngờ về mặt pháp lý đối với các quy tắc kế vị công tước ở các công quốc.
Vua Christian VIII của Đan Mạch qua đời vào tháng 1 năm 1848. Con trai hợp pháp duy nhất của ông, Frederick VII tương lai, dường như không thể có người thừa kế, do đó các công quốc dường như sẽ chuyển sang quyền cai trị của Nhà Oldenburg, điều này có thể dẫn đến sự phân chia của Đan Mạch. Theo đó, Christian VIII đã ra sắc lệnh (ngày 8 tháng 7 năm 1846) thay đổi luật kế vị ở các công quốc để cho phép kế vị theo dòng dõi nữ. Việc thực hiện luật này là bất hợp pháp.
Câu hỏi về Schleswig-Holstein cũng là mối quan tâm lớn của các cường quốc châu Âu khác. Để duy trì quyền tiếp cận Baltic, Bộ trưởng Ngoại giao Anh Lord Palmerston muốn quyền kiểm soát eo biển Đan Mạch nối Biển Bắc với Biển Baltic không được kiểm soát bởi bất kỳ cường quốc châu Âu nào như Phổ. Theo quan điểm của Palmerston, việc có một cường quốc tương đối yếu như Đan Mạch duy trì quyền kiểm soát eo biển Đan Mạch tốt hơn nhiều so với việc có một cường quốc mạnh, và do đó, Anh có xu hướng ủng hộ các yêu sách của Đan Mạch, tin rằng một cuộc chiến tranh Đan Mạch-Phổ có thể dẫn đến việc Phổ thôn tính không chỉ hai công quốc mà còn toàn bộ Đan Mạch. Tương tự như vậy, Hoàng đế Nicholas I của Nga ủng hộ Đan Mạch vì ông không muốn một cường quốc kiểm soát eo biển Đan Mạch. Nicholas cũng tin rằng nếu Đan Mạch bị đánh bại ngay cả khi không bị thôn tính, điều đó có thể dẫn đến việc người Đan Mạch gia nhập Liên minh Scandinavi, điều này sẽ gây ra mối đe dọa tiềm ẩn đối với khả năng rời Baltic của hạm đội Baltic thuộc Hải quân Đế quốc Nga. Pháp, cường quốc châu Âu phản đối sự thống nhất của Đức nhất, là do Cách mạng năm 1848 không thể có lập trường mạnh mẽ đối với các vấn đề của Đức.
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Chiến tranh Schleswig đầu tiên** (tiếng Đức: Schleswig-Holsteinischer Krieg), còn được gọi là Khởi nghĩa Schleswig-Holstein (tiếng Đức: Schleswig-Holsteinische Erhebung) và Chiến tranh ba năm (tiếng Đan Mạch: Treårskrigen), là một cuộc xung đột quân
**Chiến tranh Schleswig lần thứ hai** (; ) là cuộc xung đột quân sự thứ hai xảy ra như một kết quả của vấn đề Schleswig-Holstein – một trong những vấn đề ngoại giao phức
**Chiến tranh thế giới thứ nhất**, còn được gọi là **Đại chiến thế giới lần thứ nhất**, **Đệ nhất Thế chiến** hay **Thế chiến I**, là một cuộc chiến tranh thế giới bắt nguồn tại
**Friedrich Karl _Walther_ Degenhard Freiherr von Loë** (9 tháng 9 năm 1828 tại Lâu đài Allner ở Hennef ven sông Sieg – 6 tháng 7 năm 1908 tại Bonn) là một sĩ quan quân đội
**Eduard Ernst Friedrich Hannibal Vogel von Fal(c)kenstein** (5 tháng 1 năm 1797 – 6 tháng 4 năm 1885) là một Thượng tướng Bộ binh của Phổ, đã từng tham gia cuộc Chiến tranh Schleswig lần
**Karl Konstantin Albrecht Leonhard von Blumenthal** (20 tháng 7 năm 1810 – 21 tháng 12 năm 1900), từ năm 1883 còn được gọi là **Bá tước** (_Graf_) **von Blumenthal**, là một Thống chế Phổ –
**Karl Freiherr von Wrangel** (28 tháng 9 năm 1812 tại Königsberg, Đông Phổ – 28 tháng 11 năm 1899 tại điền trang của con rể ông ở huyện Rothenburg, Oberlausitz) là một Thượng tướng Bộ
**Rudolph Otto von Budritzki** (17 tháng 10 năm 1812 tại Berlin – 15 tháng 2 năm 1876 tại Berlin) là một tướng lĩnh quân đội Phổ, đã từng tham gia trong cuộc Chiến tranh Schleswig
**Bernhard von Gélieu** (tên gốc bằng tiếng Pháp: _Bernard de Gélieu_; 28 tháng 9 năm 1828 tại Neuchâtel – 20 tháng 4 năm 1907 tại Potsdam) là một tướng lĩnh quân đội Phổ, xuất thân
Đây là một **Niên biểu các sự kiện diễn ra trong thời gian Chiến tranh thế giới thứ hai**, trong năm 1939. ## Tháng 9 năm 1939 thumb|Các quốc gia Đồng Minh và phe Trục
**Friedrich Karl Nikolaus của Phổ** (1828 – 1885) là cháu trai Wilhelm I – vị hoàng đế khai quốc của đế quốc Đức – và là một Thống chế quân đội Phổ-Đức. Ông thường được
phải|nhỏ|Tướng Hermann von Gersdorff **Hermann Konstantin von Gersdorff** (sinh ngày 2 tháng 12 năm 1809 tại Kieslingswalde; mất ngày 13 tháng 9 năm 1870 tại Sedan, tỉnh Ardennes, Pháp), là một sĩ quan quân đội
[[Thống chế Đức|Thống chế Friedrich von Wrangel]] phải|nhỏ|Friedrich Graf von Wrangel. Tranh chân dung của [[Adolph Menzel, năm 1865.]] **Friedrich Heinrich Ernst Graf von Wrangel** (13 tháng 4 năm 1784 tại Stettin, Pommern – 2
**Ferdinand Emil Karl Friedrich Wilhelm von Schwartzkoppen** (15 tháng 1 năm 1810 tại Obereimer – 5 tháng 1 năm 1878 tại Stuttgart) là một sĩ quan quân đội Phổ, đã được thăng đến cấp Thượng
phải|nhỏ|Mộ phần của ông tại [[nghĩa trang Bornstedt.]] **Emil _Heinrich Ludwig_ von Albedyll** (sinh ngày 1 tháng 4 năm 1824 tại Liebenow, Pommern; mất ngày 13 tháng 6 năm 1897 tại Potsdam) là một tướng
**August Christoph Viktor von Kleist** (19 tháng 2 năm 1818 tại Perkuiken – 14 tháng 5 năm 1890 tại Potsdam) là một Thiếu tướng quân đội Phổ, đã từng được giao nhiệm vụ phòng ngự
**Otto Eduard Leopold von Bismarck-Schönhausen** (1 tháng 4 năm 1815 – 30 tháng 7 năm 1898) là một chính trị gia người Đức, ông là người lãnh đạo nước Đức và châu Âu từ năm
**Edwin Karl Rochus Freiherr von Manteuffel** (24 tháng 2 năm 1809 – 17 tháng 6 năm 1885) là một Thống chế quân đội Phổ-Đức nửa sau thế kỷ 19. Manteuffel đã tham gia chỉ huy
**Cuộc rút quân Dannervike** là một sự kiện quân sự tại Đan Mạch trong cuộc Chiến tranh Schleswig lần thứ hai – cuộc chiến tranh đầu tiên trong quá trình thống nhất nước Đức, đã
**Eduard Kuno von der Goltz** (còn được viết là _Cuno_) (2 tháng 2 năm 1817 tại Wilhelmstal – 29 tháng 10 năm 1897 tại Eisbergen ở Minden) là một Thượng tướng Bộ binh của Phổ
**Chiến tranh Pháp – Phổ** (19 tháng 7 năm 1870 – 28 tháng 1 năm 1871), thời hậu chiến còn gọi là **chiến tranh Pháp – Đức** (do sự kiện thống nhất nước Đức ở
**Trận Dybbøl**, còn được gọi là **Trận Düppel**, là một trận đánh quyết định trong cuộc Chiến tranh Schleswig lần thứ hai (1864),, tại Dybbøl (Schleswig, Đan Mạch). Đến ngày 18 tháng 4, các lực
**Walther Franz Georg Bronsart von Schellendorff** (21 tháng 12 năm 1833, tại Danzig – 13 tháng 12 năm 1914, tại Gut Marienhof, Amt Güstrow, Mecklenburg), Tiến sĩ Luật danh dự, là một Thượng tướng Bộ
**Albert Ehrenreich Gustav von Manstein** hoặc Albert Gustav von Manstein (24 tháng 8 năm 1805 – 11 tháng 5 năm 1877) là một tướng lĩnh quân đội Phổ, đã có nhiều đóng góp đến việc
**Trận Schleswig** quân Phổ và quân Schleswig – Holstein, với lợi thế lớn về quân số, đã đánh tan tành quân Đan Mạch, buộc đối phương phải rút lui. Chiến thắng toàn diện này đã
phải|nhỏ|Mộ phần của Ferdinand Wolf von Stülpnagel trong nghĩa trang [[Alter Garnisonfriedhof|Alten Garnisonfriedhof ở Berlin-Mitte]] **Ferdinand Wolf Konstantin Karl von Stülpnagel** (7 tháng 10 năm 1842 tại Berlin – 24 tháng 12 năm 1912 cũng
**August Karl von Goeben** (hay còn viết là **Göben**) (1816-1880) là một tướng lĩnh trong quân đội Đế quốc Đức, người có nguồn gốc từ xứ Hanover. Ông được nhìn nhận là một trong những
**Karl Heinrich Hermann Ludolf Bonaventura Graf von der Goltz** (19 tháng 11 năm 1803 tại Groß-Teschendorf, huyện Riesenburg – 27 tháng 1 năm 1881 tại Potsdam) là một Trung tướng quân đội Phổ, từng tham
**Công quốc Schleswig** (tiếng Đan Mạch: _Hertugdømmet Slesvig_; tiếng Đức: _Herzogtum Schleswig_; tiếng Hạ Đức: _Hartogdom Sleswig_; tiếng Bắc Friesland: _Härtochduum Slaswik_; tiếng Anh: _Duchy of Schleswig_) là một Công quốc ở Nam Jutland (_Sønderjylland_)
Bá tước **Helmuth Karl Bernhard _Graf_ von Moltke** (26 tháng 10 năm 1800 tại Parchim, Mecklenburg-Schwerin – 24 tháng 4 năm 1891 tại Berlin, Phổ) là một thống chế Phổ và đế quốc Đức. Ông
**Chiến dịch _Weserübung**_ () là mật danh của cuộc tấn công do Đức Quốc xã tiến hành tại Đan Mạch và Na Uy trong Chiến tranh thế giới thứ hai, mở màn Chiến dịch Na
**Hans Heimart Ferdinand von Linsingen** (12 tháng 3 năm 1818 tại Lüneburg – 19 tháng 7 năm 1894 tại Dessau) là một Thiếu tướng quân đội Phổ, đã từng tham gia cuộc Chiến tranh Bảy
**Friedrich August von Etzel** (tên gốc _O’Etzel_). (16 tháng 10 năm 1808 tại Berlin – 25 tháng 12 năm 1888 cũng tại Berlin) là một sĩ quan quân đội Phổ, đã tham gia các cuộc
**Karl Gustav von Sandrart** (9 tháng 6 năm 1817 tại Stettin – 27 tháng 1 năm 1898 tại Koblenz) là một sĩ quan quân đội Phổ, đã được thăng đến cấp Thượng tướng Bộ binh.
**Ludwig Freiherr von Falkenhausen** (13 tháng 9 năm 1844 – 4 tháng 5 năm 1936) là một Thượng tướng Bộ binh của Phổ và Đế quốc Đức, từng tham gia chiến đấu trong ba cuộc
phải|nhỏ|Ernst von Unger (1831–1921), Thượng tướng Kỵ binh **Ernst Karl Friedrich von Unger** (5 tháng 6 năm 1831 tại Groß-Stöckheim tại Wolfenbüttel – 10 tháng 10 năm 1921 tại Falkenberg) là một sĩ quan quân
phải|nhỏ|Tướng Ewald von Kleist **Ewald Christian Leopold von Kleist** (25 tháng 3 năm 1824 tại Stolp in Hinterpommern – 29 tháng 12 năm 1910 tại Potsdam) là một sĩ quan quân đội Phổ, đã được
phải|nhỏ|Tướng Gustav von Stiehle **Friedrich Wilhelm Gustav Stiehle**, sau năm 1863 là **von Stiehle** (14 tháng 8 năm 1823 tại Erfurt – 15 tháng 11 năm 1899 tại Berlin) là một sĩ quan quân đội
**Hans Georg Hermann von Plessen** (26 tháng 11 năm 1841 – 28 tháng 1 năm 1929) là một Thượng tướng Phổ và là Kinh nhật giáo sĩ vùng Brandenburg đã giữ cấp bậc danh dự
thumb|Hans Lothar von Schweinitz **Hans Lothar von Schweinitz** (30 tháng 12 năm 1822 tại điền trang Klein Krichen, huyện Lüben, Schlesien – 23 tháng 6 năm 1901 tại Kassel) là một sĩ quan quân đội
nhỏ|phải|alt=Political map of central Europe showing the 26 areas that became part of the united German Empire in 1891. Germany based in the northeast, dominates in size, occupying about 40% of the new empire.|Bản đồ
**Cuộc xâm lược Ba Lan 1939** – được người Ba Lan gọi là **Chiến dịch tháng Chín** (_Kampania wrześniowa_), **Chiến tranh vệ quốc năm 1939** (_Wojna obronna 1939 roku_); người Đức gọi là **Chiến dịch
**Danh sách các cuộc xung đột ở châu Âu**, (được sắp xếp theo _bảng chữ cái_ và _thứ tự thời gian_), bao gồm: * Cuộc chiến tranh giữa các quốc gia châu Âu * Nội
**Friedrich Wilhelm Ludwig Fürchtegott von Bonin** (14 tháng 11 năm 1824 tại Köln – 11 tháng 10 năm 1885 tại Dresden) là một sĩ quan quân đội Phổ, đã được thăng đến cấp Trung tướng.
nhỏ|Emil von Berger (ảnh chụp năm [[1870)]] **Emil Alexander August von Berger** (sinh ngày 4 tháng 6 năm 1813 tại Bad Segeberg; mất ngày 23 tháng 3 năm 1900) là một sĩ quan quân đội
**Ferdinand von Meerheimb**, tên đầy đủ là _Ferdinand Ludwig Johann Freiherr von Meerheimb_ (11 tháng 4 năm 1823 tại điền trang Gnemern, nay thuộc Jürgenshagen – 7 tháng 5 năm 1882 tại Berlin) là một
**Alexander Friedrich Adolf Heinrich von Zastrow** (11 tháng 8 năm 1801 – 12 tháng 8 năm 1875) là một tướng lĩnh Phổ, đã tham gia chỉ huy quân đội trong cuộc Chiến tranh Áo-Phổ và
sau này đổi tên là là tàu chiến bọc thép đầu tiên của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Đóng tại Bordeaux, Pháp vào năm 1864 cho Hải quân Liên minh Hoa Kỳ dưới tên
**Heinrich** Ludwig Wilhelm Adalbert Waldemar Alexander **của Hessen và Rhein** (28 tháng 11 năm 1838 tại Bessungen – 16 tháng 9 năm 1900 tại München) là một Đại Công tôn của Hessen và Rhein, đồng
**Eduard Friedrich Karl von Fransecky** (16 tháng 11 năm 1807 – 22 tháng 5 năm 1890) là một tướng lĩnh trong quân đội Phổ, đã có nhiều đóng góp đến việc thành lập Đế quốc