✨Edwin von Manteuffel
Edwin Karl Rochus Freiherr von Manteuffel (24 tháng 2 năm 1809 – 17 tháng 6 năm 1885) là một Thống chế quân đội Phổ-Đức nửa sau thế kỷ 19. Manteuffel đã tham gia chỉ huy lực lượng Phổ trong các cuộc chiến tranh thống nhất nước Đức, giành được nhiều thắng lợi trong 2 chiến dịch tấn công Áo (1866) và Pháp (1870 – 1871). Manteuffel cũng từng có nhiều đóng góp cho chính sách ngoại giao của Phổ trong thời gian Bismarck cầm quyền.
Manteuffel đã gia nhập quân ngũ từ năm 1827, trở thành sĩ quan hầu cận của một vương thân Phổ vào năm 1843, và của vua Phổ Friedrich Wilhelm IV vào năm 1848. Kể từ đó, ông bắt đầu được thăng tiến như diều gặp gió trong quân ngũ, và trở thành Bộ trưởng Nội các Quân sự vào năm 1857. Ông đã tham gia tích cực trong việc cải cách quân đội Phổ vốn đã lạc hậu sau chiến thắng trong Chiến tranh Napoléon. Sau khi lên quân hàm Trung tướng năm 1861, Manteuffel đã góp phần chỉ huy lực lượng Phổ, Áo tấn công Đan Mạch trong Chiến tranh Schleswig năm 1864. Các hoạt động ngoại giao của Manteuffel trong cuộc chiến đã góp phần thắt chặt sự hợp tác của liên minh Áo – Phổ. Năm 1865, vua Wilhelm I phong Manteuffel làm Thống đốc Schleswig, và trên cương vị này, ông đã góp phần giải quyết dứt điểm tranh chấp lãnh thổ Schleswig-Holstein giữa Phổ và Áo. Trong Chiến tranh Áo-Phổ năm 1866, Manteuffel chỉ huy 1 sư đoàn Phổ tấn công Tây Đức trong đội hình Tập đoàn quân Main (Tư lệnh: Thượng tướng Bộ binh Falckenstein). Sau khi Falckenstein bị sa thải, Manteuffel lãnh chức Tư lệnh Tập đoàn quân Main, ông đã giành thắng lợi chóng vánh trước quân đội Liên minh Đức và tạo tiền đề cho Phổ sáp nhập một số tiểu quốc Đức sau chiến tranh, mặc dù quốc hội từ chối thưởng lương cho ông do quan điểm chính trị bảo thủ của ông. Sau đó, ông đã thực hiện thành công một sứ mệnh ngoại giao sang Nga.
Thân thế và sự nghiệp ban đầu
Edwin Karl Rochus von Manteuffel sinh ngày 24 tháng 2 năm 1809 tại Dresden Ông là con trai của Chánh án Toà án thành phố Magdeburg, và thuở nhỏ ông được nuôi nấng cùng với người anh họ của mình là Otto von Manteuffel (1805 – 1882), một nhà chính khách Phổ
Ngày 18 tháng 1 năm 1861, 36 trung đoàn bộ binh mới được thành lập theo cải cách của Roon, đã trình diện cờ hiệu của mình ở mộ Friedrich Đại đế mà không có sự đồng ý của quốc hội. Thủ tướng Phổ Rudolf von Auerswald yêu cầu Manteuffel ngăn chặn hành động này cùng với nhà vua, song Manteuffel giận dữ vì "Thánh thượng đã ra lệnh cho tôi tổ chức lễ duyệt binh", chứ ông không có lỳ gì phải tuân theo _"một số người ngồi trong một tòa nhà ở Dönhoff-platz, những người tự xưng là Nghị viện và những người có thể không đồng tình với nghi lễ này". Sự bảo thủ của Manteuffel đã chọc giận một đại biểu trẻ của phe tự do là Karl Twesten. Tháng 4 năm 1861, Twesten xuất bản nặc danh một cuốn sách nhỏ 88 trang, trong đó ông này công kích cá nhân Manteuffel như một tướng lĩnh nguy hiểm về chính trị, và từ lâu đã không tiếp xúc với quân đội vốn không tin tưởng vào ông: "Liệu chúng ta có phải chịu một trận Solferino trước khi loại bỏ kẻ xấu này khỏi một chức vụ xấu ?"_ Manteuffel đề nghị cho biết tên của tác giả cuốn sách này và Twesten đã tự khai tên mình, do đó Manteuffel thách Twesten đấu súng vào ngày 27 tháng 5 năm 1861. Twesden bắn trượt và Manteuffel tuyên bố sẽ rút lui nếu Twesten rút lại những lời đả kích của mình. Twesten từ chối và Manteuffel đã bắn nát cánh tay phải của Twesten. Vụ đấu súng đã khiến cho hai người trở nên nổi tiếng trong cả nước, và làm cho vua Wilhelm I vô cùng thất vọng. Do đấu súng là bất hợp pháp, điều này đã đủ để nhà vua sa thải Manteuffel. Nhưng rồi, nhờ ảnh hưởng cá nhân của ông với quân vương, vị tướng chỉ bị cầm tù một thời gian ngắn và không bị mất chức. Có thể thấy ngay từ đầu, Manteuffel có chủ ý giảm bớt quyền lực của Bộ trưởng Chiến tranh, do đó mâu thuẫn với Roon là điều hiển nhiên. Manteuffel cũng đóng một vai trò quan trọng trong việc thành lập liên minh tạm thời giữa Phổ và Áo chống lại Đan Mạch. Đầu năm 1864, khi tình hình cho thấy là người Áo thiếu nhiệt huyết đối với cuộc chiến, Manteuffel đã được cử đến Viên để khích lệ triều đình Áo chiến đấu hăng hái hơn. Việc lựa chọn Manteuffel bắt nguồn từ tư tưởng thân Áo của ông, mặc dù cũng có mạo hiểm: trên thực tế, về những bất đồng giữa Áo và Phổ, ông có suy nghĩ riêng rằng một khi thắng cuộc Chiến tranh Schleswig lần thứ hai, Áo không chỉ phối hợp với Phổ mà còn cho phép Phổ quyền kiểm soát vùng Schleswig-Holstein chiếm được từ tay Đan Mạch nếu Phổ đồng ý giúp Áo lấy lại Lombardy trong "cuộc chiến tiếp theo. May mắn là Manteuffel đã được chỉ thị không tranh cãi về vấn đề miền Bắc Ý. Sứ mệnh của ông đã thành công lớn: các lực lượng Đồng minh quyết tâm phải đánh chiếm Jutland từ tay Đan Mạch. Sau khi tham gia trận Mysunde, Manteuffel đã tham gia các cuộc giao chiến và hành quân dẫn tới việc Jutland thất thủ về tay liên quân.
Mặc dù Bismarck vẫn giữ mối quan hệ tốt đẹp với Manteuffel cho đến mùa xuân năm 1865, tình hình đã chia rẽ do từ năm 1865, Manteuffel bắt đầu tính kế ngăn ngừa nhà vua thực hiện bất kỳ một sự thỏa hiệp nào với quốc hội. Khi quốc hội tìm cách giảng hòa và lập một kế hoạch được Bismarck và mọi đình thần Phổ ủng hộ, Manteuffel đã làm tiêu tan khả năng chấm dứt khủng hoảng hiến pháp Phổ, ông gửi thư cho Quốc vương: "Ai trị vì và quyết định ở Phổ, Đức vua hay quần thần ? … Quần thần của Bệ hạ đều trung thành và tận tụy nhưng giờ đây họ chỉ sống trong bầu không khí của Nghị viện. Nếu thần có thể bày tỏ ý kiến, thì theo tôi, Bệ hạ đừng mở một hội đồng nào nhưng hãy gửi thư cho Thủ tướng Bismarck và nói `Trẫm đã đọc đề xuất rồi, trẫm đã quyết định rằng chính phủ sẽ không tán đồng với nó’. Nghe lời ông, quân vương không chịu thỏa hiệp. Trong một lá thư ngày 28 tháng 5, ông khuyên nhà vua rằng nếu một cuộc chiến nổ ra và Phổ giành được đất đai, thì quân vương phải tuyên bố hiến pháp là không phù hợp với một nước Phổ lớn mạnh và tái lập nền quân chủ chuyên chế của nhà Hohenzollern. Mặc dù Bismarck và Roon không ưa gì quốc hội, họ biết rằng một cuộc đảo chính quân sự bảo hoàng sẽ cướp đi sự nghiệp của họ; hơn nữa nó có thể gây nên một cuộc cách mạng và lấy đi cái đầu của họ. Sau khi nhà vua tổ chức Hội đồng Vương quốc vào ngày 29 tháng 5 mà không tham vấn Bismarck, Thủ tướng nhận thấy cần phải loại trừ Manteuffel và những người bảo thủ cực đoan.
Thống đốc Schleswig và cuộc Chiến tranh Áo-Phổ
Manteuffel đã đóng góp không nhỏ đến việc ký kết thỏa thuận Gastein vào ngày 20 tháng 8 năm 1864, và thỏa thuận này đã ngăn ngừa nguy cơ chiến tranh giữa Áo và Phổ trong một thời gian. Thỏa thuận này đã tạo điều kiện cho Bismarck hất cẳng Manteuffel khỏi kinh đô Berlin: nhận thấy sự cấp thiết của việc bổ nhiệm một người có tầm vóc và tài năng về ngoại giao để làm Thống đốc Schleswig, Thủ tướng và Roon, mặc dù khó nhọc, đã thuyết phục được Quốc vương trao quyền kiểm soát Schleswig cho Manteuffel. Không những loại bỏ được đối thủ bảo thủ cực đoan của mình, đây cũng là chủ ý của Thủ tướng: do Manteuffel trên thực tế là người thân Áo nhất trong triều đình Phổ (điều có thể gây hại cho chính sách chống Áo của Bismarck), Bismarck biết rằng việc cử ông làm người đại diện của Phổ ở hai công quốc mà Phổ và Áo đã phối hợp chinh phạt có thể tạo nên một tạm ước là điều kiện hai nước chiếm đóng vốn đang mâu thuẫn, và một khi Manteuffel không thể giàn hòa với Áo, vua Phổ sẽ có cớ để tuyên bố rằng người Áo đã cố tình không chịu thỏa thuận vì lợi ích chung với Phổ, và Bismarck sẽ dật dây cho nhà vua khai chiến với Áo. Tướng Hermann von Tresckow thay ông điều khiển Khoa Nhân sự Phổ vào năm 1865.
Manteuffel đã gặp khó khăn khi cai quản Schleswig. Gablenz, Tổng tư lệnh quân đội Áo ở Holstein, thì ngược lại: do chính sách của Áo hướng tới việc thừa nhận người đòi quyền thừa kế Augustenburg làm công tước cai trị cả hai công quốc, không có khó khăn cho người Áo để hòa nhập với Holstein. Ngược lại, Manteuffel đã tỏ ra quyết liệt trong việc phản đối yêu cầu đưa Augustenburg lên làm chúa tể của hai công quốc, và phản ứng mạnh mẽ với thái độ xem nhẹ Phổ của Augustenburg. Giờ đây, điều mà Bismarck thấy trước đã đến: mọi tình cảm thân Áo của Manteuffel hoàn toàn tan biến trước vấn đề Schleswig-Holstein. Khi người đòi quyền thừa kế Augustenburg, cảm thấy an toàn vì được Áo, tự tấn phong mình làm Quận công vào ngày 14 tháng 10 năm 1865, Manteuffel thông báo với ông này vào ngày 16 tháng 10, rằng nếu Augustenburg không chịu nhượng bộ, viên tướng Phổ sẽ bắt giam Augustenburg. Khi tướng Gablenz, trái ngược với Thỏa thuận Gastein, triệu tập các địa chủ ở Holstein tại Itzehoe vào tháng 6 năm 1866, Manteuffel, được lệnh của triều đình, đã viết thư gửi Gablenz rằng do Áo đã vi phạm thỏa thuận, ông cần phải giành quyền kiểm soát cả hai công quốc ngay lập tức. Vào ngày 7 tháng 6, Manteuffel đem quân đến Holstein. Do lực lượng chênh lệch, Gablenz đã rút quân cùng với người đòi quyền kế vị Augustenburg. Manteuffel đã chiếm Itzehoe và chấm dứt cuộc họp mặt mà Gablenz dự kiến. Ngày 10 tháng 6 năm 1866, ông tuyên bố với dân Holstein: "Để bảo vệ quyền lợi bị đe dọa của Quốc vương Bệ hạ, tôi buộc lòng phải giành lấy quyền thống trị tối cao ở Công quốc Holstein". Gablenz đã vượt khỏi sông Elbe, và vào ngày 15 tháng 6, sau khi Chiến tranh Áo-Phổ bùng nổ, Manteuffel tiến vào Vương quốc Hanover. Ngày 18 tháng 6, quân ông chiếm Stade và thu được rất nhiều kho đạn dược. Trước bước tiến nhanh chóng của Manteuffel, Gablenz rút quân qua Harburg tới Cassel.< Thành công của ông trong các chiến dịch năm 1866 đã khiến cho ông được tặng thưởng Huân chương Quân công của Phổ, nhưng do quan điểm chính trị bảo hoàng và niềm tin Công giáo cuồng nhiệt của ông, quốc hội coi ông là phản động và từ chối thưởng lương cho ông như các tướng lĩnh khác. và cuối cùng đã chiếm lại được mọi vị trí bị quân Pháp chiếm giữ.. Quân Pháp bị đánh bật qua sông Somme về Arras. Vào ngày 30 tháng 11, thành trì Amiens đầu hàng quân ông, sau khi thành La Fère đầu hàng ngày 27 tháng 11. Sau khi một lực lượng dưới quyền ông đánh tan một đạo quân Pháp trong trận Buchy ngày 4 tháng 12, ngày 5 tháng 12, ông đánh chiếm Rouen. Tiếp theo đó, ông tập trung binh lực, và sau hàng loạt trận đánh khốc liệt trên sông Hallue, về hướng Đông Bắc Amiens, vào các ngày 23 và 24 tháng 12, ông đã đánh bại lực lượng đông áp đảo của Tập đoàn quân Bắc (Pháp) do tướng Faidherbe chỉ huy, làm Faidherbe phải thu quân vào các thành lũy miền Bắc Pháp. Tiếp theo đó, Manteuffel thúc quân chiếm Bapaume ngày 26 tháng 12 và tiến hành vây hãm Péronne.
Để giải vây cho Péronne, Faidherbe chỉnh đốn lực lượng và tổ chức tấn công quân Đức ở Bapaume ngày 2 tháng 1 năm 1871. Quân Đức đã bẻ gãy được các đợt tiến công của Pháp trong ngày hôm đó. Sang ngày 3 tháng 1, quân Pháp mở những cuộc công kích mạnh mẽ hơn, làm quân Đức bị khá nhiều thiệt hại, nhưng Manteuffel đã giữ được trận địa và quân Pháp phải lui về hướng Arras-Douai. Chỉ 5 ngày sau đó, quân Đức hạ được thành Péronne. Ngày 8 tháng 1 năm 1870, vua Wilhelm I phân công cho Manteuffel làm Tư lệnh Tập đoàn quân Nam tân lập, ông được lệnh hành quân vào dãy Vosges đặng tiếp sức cho Quân đoàn XIV (Trung tướng Werder) đang bị Tập đoàn quân Đông (Pháp) của tướng Bourbaki đe dọa. Bất chấp thời tiết khắc nghiệt và lượng tuyết rơi rất lớn, Manteuffel đã dẫn 4,5 vạn binh tướng hành quân thần tốc qua vùng Côte-d'Or và dãy núi Jura, chặt đứt mọi nẻo đường rút xuống Lyons của quân Bourbaki. Và, cuối cùng, trong trận Pontarlier (29 tháng 1 – 1 tháng 2 năm 1871), quân của Manteuffel đã tấn công dồn dập và đánh bại đối phương, thu giữ 2 cờ hiệu, 29 khẩu đại bác và khoảng 15.000 tù binh. Quân Pháp phải tháo chạy vào lãnh thổ Thụy Sĩ trung lập. Thảm họa cuối cùng này đã góp phần khiến cho Bộ trưởng Nội vụ Pháp Léon Gambetta phải thừa nhận thất bại.
Wilhelm I, Hoàng đế Đức và cũng là Quốc vương Phổ, rất hoan nghênh những cống hiến của tướng Manteuffel đến thắng lợi quyết định của người Đức trong cuộc chiến. Đức hoàng ban tặng cho Đại Thập tự của Huân chương Thập tự Sắt và Huân chương Đại bàng Đen. Sau khi Tập đoàn quân phía Nam được giải tán, Manteuffel được bổ nhiệm làm Tổng tư lệnh Tập đoàn quân số 2 vào ngày 30 tháng 3, và sau cùng, vào ngày 20 tháng 6 năm 1871, ông trở thành Tổng tư lệnh của lực lượng chiếm đóng Đức trên lãnh thổ Pháp. Manteuffel đã thiết lập tổng hành dinh tại Nancy. Ông được người Pháp ca ngợi vì tinh thần nhân đức, thượng võ của mình. Khi cuộc chiếm đóng kết thúc, ông rời khỏi nước Pháp, được Đức hoàng phong cấp Thống chế và ban thưởng một khoản tiền lớn. Trong khoảng thời gian đó, Nga hoàng Aleksandr II tặng thưởng cho ông Huân chương Thánh Anđrê. Sau đó, ông đã tham gia trong một số sứ mệnh ngoại giao, và trong một khoảng thời gian ông giữ chức vụ Thống đốc Berlin. Đến năm 1879, do cần có một người bảo thủ điển hình để giữ cương vị Thống đốc, và để loại bỏ đối thủ có tiềm năng của mình trong chính trường, Bismarck đã xin với Đức hoàng bổ nhiệm vị Thống chế làm Thống đốc vùng Alsace-Lorraine thuộc Đức. Hoàng đế Wilhelm I đã chuẩn y. Manteuffel trở thành vị Thống đốc đầu tiên của Đức ở Alsace-Lorraine, và Thống đốc Alsace-Lorraine phải báo cáo trực tiếp với Hoàng đế. Ông đã cố gắng hết sức để hòa đồng dân chúng Alsace-Lorraine với Đế quốc Đức. Song, trái với niềm tin của ông, chính sách này đã không thể thay đổi xu hướng chống Đức đang thịnh hành ở vùng này. Mối quan hệ thân thiện giữa ông với các Giám mục Strasbourg và Metz không thể đem lại sự ủng hộ rộng rãi của người Công giáo đối với chính quyền cai trị của Đức. Điều này xuất phát từ một thực tế là các Giám mục không làm chủ tăng lữ của mình về mặt chính trị, và các tăng lữ cấp dưới ở Alsace-Lorraine là những người có thiên hướng chống Đức kịch liệt. Họ đã cổ vũ sự kháng cự đối với bộ máy cai trị của Đức. Ngoài ra, do bộ máy hành chính tại Alsace-Lorraine từ Thống đốc tới nhân viên văn phòng và cảnh sát không hề có một người bản địa, Manteuffel khó thể thu thập sự ủng hộ của tiểu tư sản Alsace-Lorraine. Thêm nữa, sự hiện diện của một lực lượng đồn binh lớn tại Alsace luôn làm cho dân chúng nơi đây khó chịu. Thái độ hống hách của các sĩ quan tại đây không chỉ làm mất lòng dân chúng địa phương mà còn gây cho bộ máy hành chính dân sự của Đức phiền hà.
Chính sách hòa giải của vị Thống đốc Alsace cũng bị nhiều người Đức di cư đến đây chỉ trích dữ dội. Các cuộc bầu cử năm 1881, khi mà mọi đại biểu Alsace đều phản kháng Berlin, cho thấy rằng chính sách của Manteuffel đã thất bại. Sau các cuộc bầu cử này, Manteuffel trở nên thiếu tự tin vào chính sách của mình, và đôi khi ông thiên về những biện pháp khắt khe hơn. Các tổ chức và cá nhân thân Pháp bị giám sát chặt chẽ hơn. 200 tổ chức xã hội và văn hóa bị tình nghi là chống Đức đã bị giải tán. Ông làm Thống đốc cho đến khi từ trần tại Carlsbad, Böhmen vào ngày 17 tháng 6 năm 1885.
Chú ý
Lưu ý đến tên riêng của ông: Freiherr là một tước hiệu, dịch ra thành Nam tước, chứ không phải là một tên thánh hay tên đệm. Nữ Nam tước trong tiếng Đức là Freifrau và Freiin.
Gia đình _von Collas_ **Paul Albert Hector August Baron von Collas** (31 tháng 1 năm 1841 tại Bromberg – 27 tháng 10 năm 1910 tại Kassel-Wehlheiden) là một sĩ quan quân đội Phổ,