Trong cuộc Chiến tranh Pháp-Phổ (1870 – 1871), hai tập đoàn quân Phổ gồm khoảng 120.000 quân dưới sự thống lĩnh của Thân vương Friedrich Karl vây hãm 180.000 quân Pháp do Thống chế François Bazaine chỉ huy trong hệ thống pháo đài của Metz - thủ phủ vùng Lorraine (Pháp) - từ ngày 19 tháng 8 cho đến ngày 27 tháng 10 năm 1870. Quân Pháp đã tiến hành một số cuộc phá vây, tiêu biểu là trận Noisseville cuối tháng 8 và trận Bellevue đầu tháng 10, nhưng đều bất thành. Tình trạng đói kém và bệnh tật trong hàng ngũ quân Pháp cuối cùng đã dẫn đến sự thất thủ của Metz, khi Bazaine và toàn bộ binh tướng của ông đầu hàng đối phương.
Cuộc bao vây
Sau khi bị Binh đoàn số 1 của Phổ dưới quyền Thượng tướng Bộ binh Karl Friedrich von Steinmetz và Binh đoàn số 2 của Phổ dưới quyền Thân vương Friedrich Karl đánh bại trong trận Gravelotte đẫm máu ngày 18 tháng 8 năm 1870, thống chế Pháp là Bazaine phải rút toàn bộ Binh đoàn sông Rhin uể oải của mình vào hệ thống pháo đài Metz. Buổi sáng ngày 19 tháng 8, được sự chuẩn y của Vua Wilhelm I, Tổng tham mưu trưởng quân đội Phổ-Đức Helmuth von Moltke ra chỉ thị tách các Quân đoàn Vệ binh, IV và II khỏi Binh đoàn số 2 của Phổ để thành lập Binh đoàn sông Maas do Thái tử Albert của Sachsen chỉ huy, cùng với Binh đoàn số 3 Liên bang Bắc Đức do Thái tử Phổ Friedrich Wilhelm tiến về hướng tây để đánh dứt điểm cánh quân chủ lực thứ hai của Pháp dưới quyền Thống chế Patrice de MacMahon. Tại Metz, Moltke tiến hành phong tỏa Binh đoàn sông Rhin bằng Binh đoàn số 1 do Steinmetz (sau bị thay bằng Thượng tướng Bộ binh Edwin von Manteuffel vào tháng 9) trên hữu ngạn sông Moselle và Binh đoàn số 2 do Friedrich Karl - người được kiêm nhiệm tổng chỉ huy lực lượng vây hãm Metz - trên tả ngạn sông Moselle.
Ngày 21 tháng 8, Hoàng đế Napoléon III cùng Thống chế MacMahon thành lập Binh đoàn Châlons gồm 140.000 lính và 564 cỗ đại bác. Đối mặt với sự xuống dốc niềm tin của dư luận và sự bùng phát của các cuộc bạo động do phe cộng hòa thực hiện, Hoàng hậu Eugénie và Bộ trưởng Chiến tranh Palikao liên tục đánh điện thúc giục Napoléon rằng ông ta không thể dẫn Binh đoàn Châlons về Paris như một vị hoàng đế bại trận, vì điều này sẽ dẫn đến sự sụp đổ hoàn toàn của Đế chế. Trước áp lực của dư luận đòi giải nguy cho Bazaine, cộng thêm áp lực về sự cần thiết của một thắng lợi, MacMahon và Napoléon quyết định hành động. Rời Châlons, họ tiến quân đến Rheims và sau đó đến Montmédy trong một nỗ lực nhằm đi vòng sườn phía bắc của Moltke và giải vây cho Metz từ hướng tây bắc. Không may cho người Pháp, Moltke đã phát giác được cuộc hành quân này vào ngày 25 tháng 8. Sau khi đánh bại Quân đoàn V Pháp trong trận Beaumont ngày 30 tháng 8, Moltke huy động quân chủ lực các Binh đoàn số 3 và Maas hợp vây Binh đoàn Châlons tại Sedan, buộc Napoléon, MacMahon cùng 83.000 quân phải đầu hàng và bị bắt tù binh vào ngày 2 tháng 9.
trái|thumb|Quân Pháp phòng thủ tại Metz, họa phẩm của [[Alphonse de Neuville.]]
Trong khoảng thời gian giữa các trận thảm bại ở Gravelotte và Sedan, Bazaine chỉ tiến hành hai cuộc phá vây duy nhất. Đợt đầu là vào ngày 26 tháng 8, khi viên thống chế hạ lệnh xây thêm hai cây cầu bắc qua sông Moselle để vận chuyển 3 quân đoàn từ tả ngạn sang hữu ngạn sông Moselle. Bazaine dự định tập kết binh lực quanh thành trì St. Julien trước khi giáng mạnh vào các đội quân yếu ớt của Phổ phía đông bắc Metz và tiến ra Thionville trên mạn bắc. Nhưng quân Pháp chỉ mới đẩy lui được một số đơn vị tiền đồn Phổ thì cuộc phá vây đã đổ vỡ và quân Pháp rút trở về Metz. Quan sát trận đánh, Tư lệnh Quân đoàn VI Pháp - Thống chế François Canrobert nhận định thời tiết xấu là một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự thất bại của trận đột vây này. Mưa gió đã làm chậm bước tiến của người Pháp và đem lại thời gian cho phía Phổ tăng cường phòng ngự. Trong lần đột vây thứ hai (trận Noisseville), Bazaine điều toàn bộ 2 quân đoàn tấn công vài ngàn quân Phổ gần St. Barbe trên tả ngạn sông Moselle chiều ngày 31 tháng 8. Quân Pháp giành được làng Noisseville và một số làng khác. Mặc dù các chỉ huy quân Phổ cố sức chi viện cho lực lượng bị tấn công và các khẩu đại bác của họ gây nhiều thiệt hại cho quân Pháp, phía Pháp vẫn chiếm ưu thế tuyệt đối về quân số. Song trong đêm ấy, Friedrich Karl và các tướng tùy tùng đã gia cố cho các vị trí bị đe dọa bằng lực lượng mạnh. Khi Bazaine tiếp tục tiến công vào ngày 1 tháng 9, Friedrich Karl phát động phản công buộc quân Pháp phải rút vào hệ thống pháo đài Metz.
Tình trạng đói kém đã trở nên trầm trọng trong khắp Metz, nơi mà các khẩu phần ăn uống đã bị cắt đứt từ ngày 4 tháng 9. Khi lượng cỏ khô và yến mạch cho ngựa ăn bị cạn kiệt, Bazaine ra lệnh bón lúa mì cho ngựa. Quyết định này làm lính Pháp không còn bánh mì để ăn và hàng ngày họ buộc phải nuôi sống bản thân chỉ bằng 350 gam thịt ngựa không ướp muối và 1/4 lít rượu vang. Ban đầu các khẩu phần ăn của lính Pháp chỉ đòi hỏi ngựa thồ, nhưng kể từ ngày 9 tháng 9 thì họ giết thịt cả ngựa chiến. Sau khi bác bỏ một kế hoạch đột vây trên hữu ngạn sông Moselle bằng các quân đoàn II, III và VI do "sự ưu việt" của quân Phổ, Bazaine xuống lệnh cho mỗi trung đoàn pháo binh, kỵ binh và mọi đại đội công binh loại 40 con ngựa ra làm thịt. Đến ngày 20 tháng 9, phân nửa số ngựa của Binh đoàn sông Rhin đã bị mổ thịt. 3 ngày sau, để thu nhặt khoai tây, 200 lính Pháp đói ăn đã tấn công các đồn bót quân Phổ trên hữu ngạn sông Moselle nhưng bị giết sạch.
trái|thumb|Không lâu sau [[chiến thắng Metz, Thân vương Friedrich Karl được lãnh hàm Thống chế. Ông là một trong những vương thân đầu tiên của vương tộc Phổ được phong cấp bậc cao quý này. ]]
Trong ngày hôm ấy, Lữ đoàn số 26 Phổ đã tiến vào tiếp quản Metz. Thành phố không bị hư hại, nhưng tình trạng của các doanh trại đã cho thấy những gì mà binh sĩ hai phe phải hứng chịu trong suốt cuộc vây hãm vừa qua.
Trận bao vây Metz đã đem lại cho quân Phổ tổn thất đến 240 sĩ quan và 5.500 binh lính chết hay bị thương. Đổi lại, họ bắt được một lượng tù binh khổng lồ gồm 6.000 sĩ quan và 167.000 binh lính. Con số này chỉ bị vượt mức trong các trận hợp vây thời Chiến tranh thế giới thứ hai. Thêm vào đó, quân Phổ cũng thu được 56 quân kỳ, 622 pháo dã chiến và 876 pháo trong thành, 72 súng máy mitrailleuse và 260.000 súng trường. Sử gia thế kỷ 19 G. L. M. Strauss đã đánh giá cuộc đầu hàng của Metz là "một cuộc đầu hàng độc đáo trong những trang lịch sử", do, khác với Sedan và Paris, quân Pháp tại Metz chiếm ưu thế quân số so với lực lượng vây hãm Phổ.
Hàng binh Pháp được vận chuyển theo đường Trèves và Saarbrücken dưới sự hộ tống của một số tiểu đoàn vệ binh quốc gia Phổ. Sau khi giải hết tù binh về Đức, các tiểu đoàn vệ binh quốc gia này sẽ tiếp tục làm nhiệm vụ quản thúc tù binh chứ không trở lại tham chiến ở Pháp.
Với các cuộc đầu hàng của Binh đoàn Châlons tại Sedan và Binh đoàn sông Rhin tại Metz, người Phổ giờ đã bắt được toàn bộ quân đội Pháp trước chiến tranh. Nói như lời đùa đầy ảm đạm của thị dân Paris,"cuối cùng thì Bazaine và MacMahon đã hội quân". Sự thất thủ của Metz cũng tạo cho các Binh đoàn số 1 và số 2 Phổ rảnh tay để đối phó với lực lượng Pháp trên các mặt trận khác. Sau khi nhận định tình hình thuận lợi, Bộ Tổng chỉ huy quân Phổ tại Versailles phát lệnh cho tướng von Manteuffel kéo quân chủ lực Binh đoàn số 1 vào miền Compiègne và yểm trợ lực lượng vây hãm Paris trên mạn bắc. Đồng thời, Manteuffel còn phải chia quân đóng giữ Metz và tiến hành bao vây các pháo đài Thionville và Montmédy. Về phần mình, Friedrich Karl được lệnh đem Binh đoàn số 2 đến khu vực ven sông Loire, nơi chính phủ Cộng hòa Pháp non trẻ đã thành lập một đạo quân lớn để duy trì sự kháng cự của mình.
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
Trong cuộc Chiến tranh Pháp-Phổ (1870 – 1871), hai tập đoàn quân Phổ gồm khoảng 120.000 quân dưới sự thống lĩnh của Thân vương Friedrich Karl **vây hãm** 180.000 quân Pháp do Thống chế François
**Cuộc vây hãm Verdun** là một trận vây hãm tại Pháp trong cuộc Chiến tranh Pháp-Phổ, diễn ra từ ngày 13 tháng 10 cho đến ngày 8 tháng 11 năm 1870. Cuộc vây hãm ban
**Cuộc vây hãm Thionville** là một trận bao vây trong cuộc Chiến tranh Pháp-Phổ, đã diễn ra từ ngày 13 tháng 10 cho đến ngày 24 tháng 10 năm 1870, đã vây hãm pháo đài
**Cuộc vây hãm Toul** là một hoạt động bao vây trong Chiến dịch chống Pháp của quân đội Phổ – Đức vào các năm 1870 – 1871,, tại Toul – một pháo đài nhỏ của
**Binh đoàn sông Rhin** () là một đại đơn vị quân sự Pháp tham gia Chiến tranh Pháp–Phổ. Nó được thành lập ngay sau khi Pháp tuyên chiến với Phổ vào ngày 18 tháng 7
**Binh đoàn số 1** () là một đại đơn vị quân sự của Phổ trong Chiến tranh Pháp–Phổ năm 1870-1871. Đơn vị này từng chiến đấu ở Lorraine vào đầu cuộc chiến và sau đó
**Trận Sedan** là một trận chiến quan trong cuộc Chiến tranh Pháp-Đức (1870–1871), đã diễn ra vào 1 tháng 9 năm 1870 tại Sedan trên sông Meuse, miền Đông Bắc nước Pháp. Dưới sự chỉ
**Peter Friedrich Ludwig „Louis“ von Weltzien** (1 tháng 4 năm 1815 tại Bockhorn (Friesland) – 16 tháng 10 năm 1870 tại Wiesbaden) là một sĩ quan Đức, đã được phong đến cấp Trung tướng trong
**Chiến tranh Pháp – Phổ** (19 tháng 7 năm 1870 – 28 tháng 1 năm 1871), thời hậu chiến còn gọi là **chiến tranh Pháp – Đức** (do sự kiện thống nhất nước Đức ở
Bá tước **Helmuth Karl Bernhard _Graf_ von Moltke** (26 tháng 10 năm 1800 tại Parchim, Mecklenburg-Schwerin – 24 tháng 4 năm 1891 tại Berlin, Phổ) là một thống chế Phổ và đế quốc Đức. Ông
**Wilhelm Leopold Colmar Freiherr von der Goltz** (12 tháng 8 năm 1843 – 19 tháng 4 năm 1916), còn được biết đến như là _Goltz Pasha_, là một Thống chế của Phổ, Đế quốc Đức
**Trận Wœrth** theo cách gọi của người Đức (người Pháp gọi là **Trận Frœschwiller-Wœrth ** hay **Trận Reichshoffen**), là một trong những trận lớn đầu tiên của cuộc Chiến tranh Pháp-Đức (1870–1871), diễn ra vào
Wolf Louis Anton **Ferdinand von Stülpnagel** (10 tháng 1 năm 1813 tại Berlin – 11 tháng 8 năm 1885 tại Brandenburg) là một Thượng tướng Bộ binh và Kinh nhật giáo sĩ (_Domherr_) vùng Brandenburg
phải|nhỏ|Tướng Gustav von Stiehle **Friedrich Wilhelm Gustav Stiehle**, sau năm 1863 là **von Stiehle** (14 tháng 8 năm 1823 tại Erfurt – 15 tháng 11 năm 1899 tại Berlin) là một sĩ quan quân đội
phải|Julius von Hartmann **Julius Hartwig Friedrich von Hartmann** (2 tháng 3 năm 1817 tại Hannover – 30 tháng 4 năm 1878 tại Baden-Baden) là một Thượng tướng Kỵ binh của Phổ. Ông đã từng tham
**Eduard Friedrich Karl von Fransecky** (16 tháng 11 năm 1807 – 22 tháng 5 năm 1890) là một tướng lĩnh trong quân đội Phổ, đã có nhiều đóng góp đến việc thành lập Đế quốc
**Binh đoàn số 3** () là một biên chế đơn vị quân sự được thành lập trong thời gian ngắn trong Chiến tranh Pháp–Phổ. Nó được tạo thành từ các đơn vị quân đội của
phải|nhỏ|Tướng Adolf von Glümer Heinrich Karl Ludwig **Adolf von Glümer** (5 tháng 6 năm 1814 tại Lengefeld – 3 tháng 1 năm 1896 tại Freiburg im Breisgau) là một sĩ quan quân đội Phổ, được
**August Christoph Viktor von Kleist** (19 tháng 2 năm 1818 tại Perkuiken – 14 tháng 5 năm 1890 tại Potsdam) là một Thiếu tướng quân đội Phổ, đã từng được giao nhiệm vụ phòng ngự
**Georg Leo Graf von Caprivi de Caprera de Montecuccoli** (tên khai sinh là **Georg Leo von Caprivi**; 24 tháng 2 năm 1831 – 6 tháng 2 năm 1899) là một Thượng tướng Bộ binh và
phải|nhỏ|Tướng von Kottwitz và Tiểu đoàn Bắn súng hỏa mai trong _Trận chiến Loigny_ nhỏ|_Trận chiến Königgrätz_ nhỏ|200x200px|Mộ phần của ông ở Pragfriedhof Stuttgart **Hugo Karl Ernst Freiherr von Kottwitz** (6 tháng 1 năm 1815
phải|nhỏ|Hans von Kretschmann năm [[1897.]] **Hans Alfred Konstantin von Kretschmann**, còn gọi là _Hans von Kretschman_, (21 tháng 8 năm 1832 tại Charlottenburg – 30 tháng 3 năm 1899 tại Berlin) là một sĩ quan
phải|nhỏ|Bản thảo của một [[pháo đài Biehler.]] **Hans Alexis Biehler**, sau năm 1871 là **von Biehler** (16 tháng 6 năm 1818 tại Berlin – 30 tháng 12 năm 1886 tại Charlottenburg) là một Thượng tướng
phải|nhỏ|Ernst von Unger (1831–1921), Thượng tướng Kỵ binh **Ernst Karl Friedrich von Unger** (5 tháng 6 năm 1831 tại Groß-Stöckheim tại Wolfenbüttel – 10 tháng 10 năm 1921 tại Falkenberg) là một sĩ quan quân
**Alexander Friedrich Adolf Heinrich von Zastrow** (11 tháng 8 năm 1801 – 12 tháng 8 năm 1875) là một tướng lĩnh Phổ, đã tham gia chỉ huy quân đội trong cuộc Chiến tranh Áo-Phổ và
**Wilhelm Friedrich von Woyna** (7 tháng 5 năm 1819 tại Trier – 29 tháng 12 năm 1896 tại Bonn) là một sĩ quan quân đội Phổ, đã được thăng đến cấp Thượng tướng Bộ binh.
**Gustav von Alvensleben** (30 tháng 9 năm 1803 – 30 tháng 6 năm 1881) là một Thượng tướng Bộ binh (_General der Infanterie_) trong quân đội Phổ. Cùng với người em trai của mình là
**Alfred August Ludwig Wilhelm von Lewinski** hoặc Alfred von Lewinski (14 tháng 1 năm 1831 tại Münster – 22 tháng 7 năm 1906 tại Görlitz) là một sĩ quan quân đội Phổ, được thăng đến
**Eugen Ludwig Hannibal von Delitz** (31 tháng 1 năm 1820 tại Berlin – 22 tháng 3 năm 1888 tại Potsdam) là một sĩ quan quân đội Phổ, đã được thăng đến cấp Thiếu tướng. Ông
phải|nhỏ|Trung tướng Emil Karl von Pfuel **Emil Karl Friedrich von Pfuel** (13 tháng 11 năm 1821 tại Jästersheim – 4 tháng 7 năm 1894 tại Breslau) là một sĩ quan quân đội Phổ, đã được
**Karl Freiherr von Wrangel** (28 tháng 9 năm 1812 tại Königsberg, Đông Phổ – 28 tháng 11 năm 1899 tại điền trang của con rể ông ở huyện Rothenburg, Oberlausitz) là một Thượng tướng Bộ
phải|nhỏ|Gustav Freiherr von Buddenbrock **Gustav Freiherr von Buddenbrock** (10 tháng 3 năm 1810 tại Lamgarden, Landkreis Rastenburg ở Đông Phổ – 31 tháng 3 năm 1895 tại Düsseldorf) là một Thượng tướng Bộ binh của
**Albert von Memerty** (8 tháng 12 năm 1814 – 24 tháng 1 năm 1896) là một tướng lĩnh trong quân đội của Vương quốc Phổ và Đế quốc Đức. Memerty sinh ra tại Damsdorf gần
**Anton Wilhelm Karl von L'Estocq** (2 tháng 11 năm 1823 tại Neustrelitz – 18 tháng 8 năm 1913 tại Gut Matzdorf) là một sĩ quan quân đội Phổ, đã làm tới cấp Trung tướng. Ông
**Reimar Constantin von Alvensleben** (26 tháng 8 năm 1809 – 28 tháng 3 năm 1892) là một tướng lĩnh trong quân đội Phổ (và quân đội Đế quốc Đức sau này). Ông đã tham gia
**Gustav Bernhard Karl Thilo von Schimmelmann** (4 tháng 8 năm 1816 – 17 tháng 2 năm 1873) là một sĩ quan quân đội Phổ, được thăng đến cấp bậc Thượng tướng Bộ binh. ## Tiểu
**Trận Noisseville** là một trận đánh trong cuộc Chiến tranh Pháp-Phổ, Hai bên đều thiệt hại khoảng chừng 3.000 người trong trận đánh này. Ngày hôm sau (2 tháng 9), quân đội Đức đã bắt
phải|nhỏ|Tướng Ewald von Kleist **Ewald Christian Leopold von Kleist** (25 tháng 3 năm 1824 tại Stolp in Hinterpommern – 29 tháng 12 năm 1910 tại Potsdam) là một sĩ quan quân đội Phổ, đã được
**Jules Brunet** (2 tháng 1 năm 1838 – 12 tháng 8 năm 1911) là một sĩ quan quân đội Pháp nổi tiếng trong cuộc chiến tranh Boshin. Ông được gửi đến Nhật Bản với phái
phải|nhỏ|Tướng Graf von Wartensleben **Hermann Wilhelm Ludwig Alexander Karl Friedrich Graf von Wartensleben-Carow** (17 tháng 10 năm 1826 tại Berlin – 9 tháng 3 năm 1921 tại điền trang Karow ở Genthin) là một Thượng
Ngày **27 tháng 10** là ngày thứ 300 (301 trong năm nhuận) trong lịch Gregory. Còn 65 ngày trong năm. ## Sự kiện * 1075 – Vi Thủ An dẫn 700 quân tấn công trại
**Trận Gravelotte** (theo cách gọi của người Đức) hay **Trận St. Privat** theo cách gọi của người Pháp, còn được các sử gia gọi là **Trận Gravelotte-St. Privat**, là một trận đánh quyết định trong
**Trận Villiers**, còn gọi là **Trận Champigny-Villiers**, **Trận Champigny** hay **Trận Đại đột vây từ Paris**, diễn ra từ ngày 29 tháng 11 cho tới ngày 3 tháng 12 năm 1870 khi quân đội Phổ-Đức
**Eduard Kuno von der Goltz** (còn được viết là _Cuno_) (2 tháng 2 năm 1817 tại Wilhelmstal – 29 tháng 10 năm 1897 tại Eisbergen ở Minden) là một Thượng tướng Bộ binh của Phổ
**Christof Gottlieb Albert Freiherr von Barnekow** (2 tháng 8 năm 1809 tại Hohenwalde, Đông Phổ – 24 tháng 5 năm 1895 tại Naumburg (Saale)) là một sĩ quan quân đội Phổ, được thăng đến cấp
**Otto Eduard Leopold von Bismarck-Schönhausen** (1 tháng 4 năm 1815 – 30 tháng 7 năm 1898) là một chính trị gia người Đức, ông là người lãnh đạo nước Đức và châu Âu từ năm
**Gustav Franz Wilhelm von Kleist** (19 tháng 9 năm 1806 tại Körbelitz – 26 tháng 3 năm 1882 tại Berlin) là một sĩ quan kỹ thuật Phổ, đã được thăng đến hàm Trung tướng. Ông
**Richard Georg von Wedell** (17 tháng 5 năm 1820 tại Augustwalde, quận Naugard – 27 tháng 3 năm 1894 tại Leer (Ostfriesland)) là một sĩ quan quân đội Phổ, đã được thăng đến cấp Trung
phải|nhỏ|Tướng Wilhelm von Tümpling **Wilhelm Ludwig Karl Kurt Friedrich von Tümpling** (30 tháng 12 năm 1809 tại Pasewalk – 13 tháng 2 năm 1884 tại Talstein thuộc Jena) là một sĩ quan Phổ, đã được
**Karl August Adalbert Graf zu Solms-Wildenfels** (7 tháng 9 năm 1823 tại Potsdam – 28 tháng 2 năm 1918 tại Berlin-Halensee) là một tướng lĩnh, đã từng tham gia cuộc Chiến tranh Bảy tuần với