✨Binh đoàn số 1 (Phổ-Đức)

Binh đoàn số 1 (Phổ-Đức)

Binh đoàn số 1 () là một đại đơn vị quân sự của Phổ trong Chiến tranh Pháp–Phổ năm 1870-1871. Đơn vị này từng chiến đấu ở Lorraine vào đầu cuộc chiến và sau đó chuyển sang chiến trường mới ở miền bắc nước Pháp.

Hình thành

Sau Chiến tranh Áo – Phổ và việc thành lập Liên bang Bắc Đức, Thủ tướng Phổ Otto von Bismarck đã ký kết hiệp ước liên minh phòng vệ chung với các tiểu quốc Nam Đức còn lại, cung cấp hành động chung trong trường hợp xảy ra xung đột với nước ngoài. Khi vụ bê bối Mật điện Ems nổ ra (13 tháng 7 năm 1870) và lời tuyên chiến sau đó của Pháp cho thấy rằng một cuộc chiến tranh đã trở nên không thể tránh khỏi.

Chiến tranh đã nổ ra. Trong khi Binh đoàn 3 đột nhập vào khu vực phía nam ở Alsace, Binh đoàn số 1 ở phía nam Luxembourg tiến đến hội quân ở Moselle, phía sau họ là Binh đoàn 2. Tổng tư lệnh Binh đoàn 1 là Thượng tướng Bộ binh Karl Friedrich von Steinmetz, Tổng tham mưu trưởng là Thiếu tướng Oscar von Sperling. Sau khi Binh đoàn 1 hội quân, tổng binh lực của binh đoàn này là 75.000 người, với 9.500 kỵ binh và 288 khẩu pháo. Khi bắt đầu cuộc chiến, tổng hành dinh của binh đoàn đặt tại Koblenz.

Biên chế chủ lực ngày 31 tháng 8 năm 1870

thumb|Tổng tư lệnh Karl Friedrich von Steinmetz thumb|Tổng tham mưư trưởng Oskar von Sperling Quân đoàn VII dưới quyền Thượng tướng bộ binh Heinrich Adolf von Zastrow

  • Sư đoàn 13 bộ binh : Trung tướng Adolf von Glümer
  • Sư đoàn 14 bộ binh : Trung tướng Georg von Kameke

Quân đoàn VIII dưới quyền Thượng tướng Bộ binh August Karl von Goeben

  • Sư đoàn 15 bộ binh : Trung tướng Ludwig von Weltzien
  • Sư đoàn 16 bộ binh : Trung tướng Albert von Barnekow
  • Sư đoàn 3 kỵ binh : Trung tướng Georg von der Gröben

Quân đoàn I dưới quyền Thượng tướng kỵ binh Edwin von Manteuffel

  • Sư đoàn 1 bộ binh : Trung tướng Georg Ferdinand von Bentheim
  • Sư đoàn 2 bộ binh : Trung tướng Gustav von Pritzelwitz
  • Sư đoàn 1 kỵ binh : Trung tướng Julius von Hartmann

Tổng binh lực của Binh đoàn 1 là: 75 tiểu đoàn, 64 phân đội và 45 khẩu đội

Lược sử tham chiến

Khởi đầu

Binh đoàn 1 được thành lập ban đầu từ các quân đoàn VII, VIII và các sư đoàn kỵ binh 1 và 3. Sau đó tiếp tục nhập thêm Quân đoàn I, tổng cộng 75 tiểu đoàn, 64 phân đội và 45 khẩu đội. Tất cả đều là các đơn vị của Phổ. Binh đoàn được bố trí ở cánh phải mặt trận. Tướng von Steinmetz ban đầu muốn tự mình bắt đầu chiến dịch nhưng ông buộc phải tuân theo chỉ thị từ Tổng hành dinh của tướng Montke, chờ cho việc triển khai Binh đoàn 2 dưới quyền của Vương tử Friedrich Karl thực hiện xong. Ngày 6 tháng 8 năm 1870, von Steinmetz đã ra lệnh tấn công Spicheren Höhen mà không đợi mệnh lệnh từ Tổng hành dinh, đồng thời tuyến hành quân của Binh đoàn 1 lại chồng lấn với Binh đoàn 2. Điều này đã gây ra mối bất hòa giữa hai chỉ huy binh đoàn. Trận giao chiến kết tiếp, von Steinmetz lại tiếp tục cho Binh đoàn 1 vào tham chiến, trái với ý định của Tổng ham mưu trưởng von Moltke. Điều này dẫn đến việc Tổng tư lệnh Binh đoàn sông Rhin của Pháp, Thống chế Bazaine, đã kịp ra lệnh cho binh đoàn của mình rút lui về bảo vệ Pháo đài Metz, thoát khỏi mối đe dọa bao vây của lực lượng Đức.

Binh đoàn 1 dưới sự chỉ huy của tướng Steinmetz tiếp cận Metz với Quân đoàn I. Ở cánh bên phải, Sư đoàn 3 kỵ binh dưới quyền của Bá tước von der Groeben đã dọn sạch quân Pháp cho đến Pháo đài Thionville và đảm bảo ngăn ngừa mọi mối đe dọa tấn công bên sườn từ phía bắc. Ngày 14 tháng 8 năm 1870, lực lượng quân Pháp, gồm Quân đoàn 6 (Canrobert) và phần lớn Quân đoàn 2 (Frossard), đã vượt qua bờ trái sông Moselle khi trước khi tướng von Manteuffel tự mình quyết định mở cuộc tấn công nhằm giữ chân quân đoàn Pháp còn lại ở bờ phải sông Moselle. Bazaine dừng việc tiến quân về phía tây và chấp nhận giao chiến tại Trận Colombey-Nouilly . Vì các đơn vị của Quân đoàn I Phổ vẫn còn ở phía sau nên Quân đoàn VII (von Zastrow) phát động cuộc tấn công đầu tiên bằng sư đoàn 13. Vài giờ sau, Quân đoàn I cũng vào trận và cùng với Sư đoàn 1 (von Bentheim) tấn công Montoy. Trong khi điều này giúp ổn định cuộc chiến không cân sức trên đỉnh Colombey, thì vị thế của Sư đoàn 3 Phổ (von Pritzelwitz) ở cánh phải xung quanh Nouilly có vấn đề. Trận đánh được quyết định vào lúc 18 giờ 45, khi Sư đoàn 14 xuất hiện ở Colombey. Đồng thời, từ phía Nam, các đơn vị của Quân đoàn IX (Binh đoàn 2) tiến đánh mạnh mẽ vào cánh phải vị trí của quân Pháp tại làng Mercy le Haut.

Ngày 15 tháng 8, Quân đoàn II Phổ dưới sự chỉ huy của tướng von Fransecky tiến vào chiến trường và tấn công quân Pháp.

  • Sư đoàn 3 bộ binh: Thiếu tướng Mathias Andreas Ernst von Hartmann
  • Sư đoàn 4 bộ binh: Trung tướng Benno Hann von Weyhern

Trong trận Gravelotte, chỉ các quân đoàn VII và VIII của Binh đoàn 1 tham chiến trong khi các đơn vị còn lại trấn thủ bên hữu ngạn sông Moselle trước Metz. Dù vậy, các đơn vị Pháp dưới quyền Bazaine vẫn bị đánh thiệt hại nặng, và đến ngày 20 tháng 8, bị bao vậy trong pháo đài Metz với khoảng 180.000 người.

Cuộc vây hãm Metz

thumb|Phòng thủ Metz. Tranh của [[Alphonse de Neuville.]] Cả 2 binh đoàn 1 và 2 của Phổ được lệnh đóng lại Metz và tiếp tục vây hãm binh đoàn sông Rhin Pháp bị mắc kẹt trong pháo đài Moselle. Quyền Tổng chỉ huy chiến trường của cả 2 binh đoàn được trao cho Vương tử Friedrich Karl. Điều này, đã làm cho tướng von Steinmetz, cho đến lúc đó là chỉ huy một đạo quân độc lập, giờ đây lại được đặt dưới sự chỉ huy của vị vương tử trẻ tuổi, cảm thấy bị thương tổn sâu sắc. Để giải quyết những tranh cãi trong giới chỉ huy cấp cao, tướng Steinmetz đã được miễn nhiệm chức vụ chỉ huy và được bổ nhiệm làm Tổng đốc Poznań theo ý chỉ của vua Phổ. Cho đến khi có thông báo mới, các chỉ huy cấp cao của Binh đoàn 1 và 2 đều đặt dưới quyền của Vương tử Friedrich Karl.

Mặc dù vậy, một phần Binh đoàn 1 vẫn được đặt dưới sự chỉ huy của tướng von Manteuffel, để sau khi pháo đài Metz thất thủ, để đề phòng, cơ quan chỉ huy có thể được chuyển dụng cho các hoạt động khác. Trong cuộc bao vây Metz, tướng von Manteuffel nắm quyền chỉ huy tối cao ở bờ đông sông Moselle, Quân đoàn I đóng quân ở hai bờ sông Seille, giữa Servigny và Rupigny trên đỉnh Pouilly; còn Quân đoàn II thì giữa Remilly và Pont-à-Mousson.

Trong tình thế bị vậy ngặt, Thống chế Bazaine dự kiến dùng dùng hết binh lực còn lại đột phá vòng vây của kẻ thù ở hữu ngạn Moselle, vượt qua Moselle tại Diedenhofen và nhập vào đạo quân của Thống chế MacMahon đang hành quân về hướng Sedan. Tuy nhiên, nỗ lực đột phá được lên kế hoạch kỹ lưỡng của Bazaine đã tan vỡ với các thất bại trong Trận Noisseville.

Tham chiến trên Somme, tiến vào Normandie

Sau khi Pháo đài Metz đầu hàng vào cuối tháng 10 năm 1870, Binh đoàn 1 được rảnh tay. Một phần của binh đoàn (gồm Quân đoàn VIII và một bộ phận của Quân đoàn I) dưới quyền tướng von Manteuffel đã di chuyển đến Somme để đảm bảo cuộc bao vây Paris chống lại Binh đoàn phương Bắc () mới thành lập của Pháp.

Sau nhiều cuộc giao chiến nhỏ của các đơn vị trinh sát, ngày 27 tháng 11, trận giao chiến thực sự đã nổ ra gần làng Villers-Bretonneux, phía đông chiến trường chính Amiens. Trong trận Amiens, Binh đoàn phương Bắc của Pháp, dưới sự chỉ huy của tướng Jean-Joseph Farre, đã giao chiến với Quân đoàn VIII Phổ, dưới quyền tướng von Goeben. Quân Pháp nhanh chóng thất bại và tìm cách rút về bảo vệ pháo đài Arras. Ngày 28 tháng 11, Quân đoàn VIII dưới sự chỉ huy của tướng von Goeben đã tiến chiếm thành phố Amiens, bức hàng quân Pháp trong pháo đài. Sau đó, Binh đoàn 1 đã vượt qua Normandie, tiếp chiến với một đạo quân Pháp đang tập hợp lại dưới sự chỉ huy của tướng Louis Faidherbe. thumb|Tướng Faidherbe trong trận Bapaume. Binh đoàn 1 trong ngày 23 và 24 tháng 12 năm 1870 được điều động tham chiến trong Trận Hallue. Binh đoàn phương Bắc của Pháp bao gồm 2 quân đoàn XXII và XXIII, với khoảng 43.000 người và 80 khẩu pháo. Binh lực của Phổ đối chiến trực tiếp chỉ có quân số khoảng 22.000 người, bao gồm cả quân đoàn VIII (gồm các sư đoàn 15 và 16), một lữ đoàn của sư đoàn 2, sư đoàn 3 kỵ binh và một số đơn vị nhỏ. Tuy nhiên, quân Pháp vẫn ở thế hạ phong, vì vậy vào ngày 25. tháng 12, tướng Faidherbe phải ra lênh chấm dứt giao tranh và rút lui, đưa Sư đoàn Barnekow và Sư đoàn 3 dự bị về Pháo đài Péronne. Sau khi các lực lượng mới của Pháp tại Amiens bị đánh tan và Mezieres thất thủ, ngày 1 tháng 1 năm 1871, Quân đoàn VIII cũng tập trung về Bapaume. Tại Arras, tướng Faidherbe tập hợp lại lực lượng, 3 tháng 1, tiếp tục phát động tấn công với trận Bapaume nhưng thất bại.

Sau khi Manteuffel được bổ nhiệm làm chỉ huy Binh đoàn phương Nam Südarmee, tướng von Goeben lên nắm quyền chỉ huy Binh đoàn 1 vào ngày 9 tháng 1 năm 1871. Binh đoàn phương Bắc của Pháp dưới sự chỉ huy của tướng Faidherbe bị đánh bại vào ngày 19 tháng 1 trong Trận Saint-Quentin. Ngày 28 tháng 1, Hiệp định đình chiến Versailles kết thúc chiến sự được ký kết.

👁️ 3 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Binh đoàn số 1** () là một đại đơn vị quân sự của Phổ trong Chiến tranh Pháp–Phổ năm 1870-1871. Đơn vị này từng chiến đấu ở Lorraine vào đầu cuộc chiến và sau đó
**Binh đoàn số 3** () là một biên chế đơn vị quân sự được thành lập trong thời gian ngắn trong Chiến tranh Pháp–Phổ. Nó được tạo thành từ các đơn vị quân đội của
**Binh đoàn Châlons** () là một đạo quân của Pháp tham gia Chiến tranh Pháp–Phổ năm 1870. Được thành lập tại trại Châlons vào ngày 17 tháng 8 năm 1870, từ một phần của Binh
**Binh đoàn 15** trực thuộc Bộ Quốc phòng Việt Nam là một đơn vị kinh tế quốc phòng của Quân đội nhân dân Việt Nam. Binh đoàn có tên giao dịch kinh tế là **Tổng
**Binh đoàn 16** trực thuộc Bộ Quốc phòng Việt Nam là một đơn vị kinh tế quốc phòng của Quân đội nhân dân Việt Nam. Binh đoàn có tên giao dịch kinh tế là **Tổng
**Chiến tranh Pháp – Phổ** (19 tháng 7 năm 1870 – 28 tháng 1 năm 1871), thời hậu chiến còn gọi là **chiến tranh Pháp – Đức** (do sự kiện thống nhất nước Đức ở
thumb|Quân hàm Lục quân thumb|Phù hiệu (Hạ sĩ quan và binh sĩ) **_Quân đội Đức_** (Heer), là Lục quân Đức và là một phần lực lượng _Wehrmacht_ rộng lớn hơn, thực sự đã kế thừa
nhỏ|Trụ sở chính của Quân đoàn I ở Königsberg nhỏ|Quân đoàn 1 trong Đế quốc Đức, trước Thế chiến thứ nhất **Quân đoàn I** (Tiếng Đức: **_I. Armee-Korps / I AK_**) là một đơn vị
**Trường Trung học phổ thông Thuận Thành 1** là một trường trung học phổ thông công lập ở Bắc Ninh. Được thành lập từ năm 1961, cho đến nay Trường Trung học phổ thông Thuận
**Binh đoàn sông Rhin** () là một đại đơn vị quân sự Pháp tham gia Chiến tranh Pháp–Phổ. Nó được thành lập ngay sau khi Pháp tuyên chiến với Phổ vào ngày 18 tháng 7
**Binh đoàn Lê dương Pháp** (tiếng Pháp: _Légion étrangère,_ tiếng Anh_:_ _French Foreign Legion-FFL_) là một đội quân được tổ chức chặt chẽ, kỷ luật, chuyên môn cao, tinh nhuệ trực thuộc Lục quân Pháp.
**Tập đoàn quân đoàn số 6** (tiếng Đức: _Armeeoberkommando 6_, viết tắt **6. Armee**/**AOK 6**) là một đại đơn vị của Quân đội Đức Quốc xã. Từng là một trong những đại đơn vị thiện
Bệnh viện Hữu Nghị Việt Tiệp là cơ sở y tế hàng đầu trong việc chăm sóc sức khỏe cho nhân dân thành phố Hải Phòng và vùng Duyên hải Bắc Bộ. Bệnh viện Hữu
**Tập đoàn quân số 8** (Tiếng Đức: **_8. Armee / Armeeoberkommando 8 / A.O.K. 8_**) là một đơn vị cấp Tập đoàn quân của Đức trong Thế chiến thứ nhất. Nó được triển khai ở
**Binh đoàn Sản xuất và Xây dựng Tân Cương** (), tên khác là **Công ty Tập đoàn Tân Kiến Trung Quốc** (中国新建集团公司), Các binh đoàn kiến thiết được chính quyền Cộng hòa Nhân dân Trung
**Quảng Bình** là một tỉnh ven biển cũ nằm ở phía nam vùng Bắc Trung Bộ, miền Trung của Việt Nam. Tỉnh lỵ của tỉnh là thành phố Đồng Hới. Nơi đây cũng là nơi
**Legion Romana** tức **Quân đoàn La Mã**, **Binh đoàn La Mã** là một đơn vị tổ chức của Quân đội La Mã trong giai đoạn từ Cộng hòa La Mã tới Đế quốc La Mã.
**Trung đoàn Lính ném lựu đạn "Thái tử Friedrich III" (Đông Phổ số 1) số 1** (_Grenadier-Regiment „Kronprinz" (1. Ostpreußisches) Nr. 1_) một trung đoàn bộ binh tồn tại dưới nhiều tên gọi khác nhau
Tên quốc tế: DUCGIANG CHEMICALS GROUP JOINT STOCK COMPANY Tên viết tắt: DCGTrải qua hơn 60 năm hình thành và phát triển, CTCP Tập Đoàn Hóa chất Đức Giang (DGC) đã nỗ lực không ngừng
Tên quốc tế: DUCGIANG CHEMICALS GROUP JOINT STOCK COMPANY Tên viết tắt: DCGTrải qua hơn 60 năm hình thành và phát triển, CTCP Tập Đoàn Hóa chất Đức Giang (DGC) đã nỗ lực không ngừng
**_Quân khu số 1_** là một chương trình về chiến đấu giữa các quân khu do Đài Truyền hình Việt Nam và Bộ Quốc phòng phối hợp thực hiện. Chương trình được phát sóng trên
**Fedor von Bock** (3 tháng 12 năm 1880 – 4 tháng 5 năm 1945) là một Thống chế quân đội Đức thời Chiến tranh thế giới thứ hai. Ông đã đóng một vai trò quan
Quân kỳ của Quân đội Đức quốc xã**Lịch sử quân sự Đức trong Chiến tranh thế giới thứ hai** bắt đầu từ quân số 100.000 do Hòa ước Versailles hạn chế, không được quyền có
**Chiến tranh Xô–Đức 1941–1945** là một cuộc chiến giữa Liên Xô và Đức Quốc xã trong Thế chiến thứ hai, trải dài khắp Bắc, Nam và Đông Âu từ ngày 22 tháng 6 năm 1941
:_Lục quân Đế quốc Đức được đổi hướng đến đây. Để tìm hiểu các nghĩa khác, xem bài Lục quân Đế quốc La Mã Thần thánh và Lục quân Áo và Hungary trong Chiến tranh
**Cụm tập đoàn quân Trung tâm** (tiếng Đức: _Heeresgruppe Mitte_) là tên của tổ chức tác chiến chiến lược cấp cụm tập đoàn quân của Đức Quốc xã tại Mặt trận phía Đông trong Thế
**Friedrich III của Đức** ( _Prinz von Preußen_; 18 tháng 10 năm 1831 – 15 tháng 6 năm 1888) là Hoàng đế Đức và là Vua của Phổ trong khoảng ba tháng (99 ngày) từ
**Wilhelm I** (tên đầy đủ: _Wilhelm Friedrich Ludwig_; 22 tháng 3 năm 1797 – 9 tháng 3 năm 1888), là quốc vương Phổ từ ngày 2 tháng 1 năm 1861, chủ tịch Liên bang Bắc
**Thái Bình** là một tỉnh cũ ven biển thuộc vùng đồng bằng sông Hồng. Theo quy hoạch phát triển kinh tế, Thái Bình thuộc vùng duyên hải Bắc Bộ. Theo cuộc Tổng điều tra dân
**Trận Sedan** là một trận chiến quan trong cuộc Chiến tranh Pháp-Đức (1870–1871), đã diễn ra vào 1 tháng 9 năm 1870 tại Sedan trên sông Meuse, miền Đông Bắc nước Pháp. Dưới sự chỉ
**Trận Verdun** là một trận lớn chính của mặt trận phía Tây trong Chiến tranh thế giới thứ nhất. Trận đánh nổ ra giữa quân đội Đức và Pháp từ 21 tháng 2 đến 19
**Quân đội Hoàng gia Phổ** () là lực lượng quân sự của Vương quốc Phổ (nguyên là lãnh địa Tuyển hầu tước Brandenburg trước năm 1701). Quân đội Phổ đóng vai trò quan trọng trong
**Trận Wœrth** theo cách gọi của người Đức (người Pháp gọi là **Trận Frœschwiller-Wœrth ** hay **Trận Reichshoffen**), là một trong những trận lớn đầu tiên của cuộc Chiến tranh Pháp-Đức (1870–1871), diễn ra vào
**New York** hay còn được gọi là **Thành phố New York** (; gọi tắt là **NYC**) để phân biệt với tiểu bang New York, là thành phố đông dân nhất của Hoa Kỳ. Với dân
**Đức Quốc Xã**, còn gọi là **Đệ Tam Đế chế** hay **Đế chế thứ ba** () hoặc với tên chính thức là **Đế chế Đức** (), là nước Đức trong thời kỳ 1933–1945 đặt dưới
**Câu lạc bộ bóng đá Công an Thành phố Hồ Chí Minh** là một câu lạc bộ bóng đá có trụ sở ở Thành phố Hồ Chí Minh. Đội bóng này là hậu thân của
**Phaolô Nguyễn Văn Bình** (1 tháng 9 năm 1910 – 1 tháng 7 năm 1995) là một giám mục Công giáo Rôma người Việt Nam. Ông nguyên là Tổng giám mục Tiên khởi của Tổng
**Friedrich II** (24 tháng 1 năm 171217 tháng 8 năm 1786) là vua nước Phổ trị vì từ ngày 31 tháng 5 năm 1740 cho đến khi qua đời vào ngày 17 tháng 8 năm
**Tập Cận Bình** (giản thể: 习近平; phồn thể: 習近平; bính âm: _Xí Jìnpíng_; phát âm: [ɕǐ tɕînpʰǐŋ], sinh ngày 15 tháng 6 năm 1953) là một chính trị gia người Trung Quốc. Ông hiện đang
**Sư đoàn 308** hay **Đại đoàn Quân Tiên phong** trực thuộc Quân đoàn 12 là Sư đoàn bộ binh chủ lực được thành lập đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam. Thành lập
**Trận St. Quentin** diễn ra vào ngày 19 tháng 1 năm 1871 gần thị trấn St. Quentin thuộc miền Picardie (Pháp), giữa Tập đoàn quân số 1 Phổ-Đức với Tập đoàn quân Bắc của Pháp
**Friedrich Karl Nikolaus của Phổ** (1828 – 1885) là cháu trai Wilhelm I – vị hoàng đế khai quốc của đế quốc Đức – và là một Thống chế quân đội Phổ-Đức. Ông thường được
**Sư đoàn 23 Bộ binh** là một trong 2 đơn vị chủ lực trực thuộc Quân đoàn II và Quân khu 2 của Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Đây là đơn vị đầu tiên
Từ thời kỳ cổ đại, **Đức** (lúc đó được người La Mã gọi là vùng đất Germania) đã có các bộ lạc người German (tổ tiên trực tiếp của người Đức) chính thức cư ngụ
**Phổ** (tiếng Đức: Preußen; tiếng Latinh: _Borussia_, _Prutenia_; tiếng Anh: Prussia; tiếng Litva: _Prūsija_; tiếng Ba Lan: _Prusy_; tiếng Phổ cổ: _Prūsa_) là một quốc gia trong lịch sử cận đại phát sinh từ Brandenburg,
nhỏ|phải|Chữ Doãn. **Doãn** là một họ của người ở vùng Văn hóa Đông Á, phổ biến ở Việt Nam, Trung Quốc (chữ Hán: 尹, Bính âm: Yin) và Triều Tiên (Hangul: 윤, Romaja quốc ngữ:
**Cụm tập đoàn quân B** (tiếng Đức: __) là một phiên hiệu đại đơn vị cấp Cụm tập đoàn quân của Đức Quốc xã trong Thế chiến thứ hai. Theo thời gian, phiên hiệu này
**Đặng Tiểu Bình** ( giản thể: 邓小平; phồn thể: 鄧小平; bính âm: _Dèng Xiǎopíng_; 22 tháng 8 năm 1904 - 19 tháng 2 năm 1997), tên khai sinh là **Đặng Tiên Thánh** (邓先聖) là một
**Bình Định** là một tỉnh cũ ven biển nằm ở phía bắc vùng Duyên hải Nam Trung Bộ, miền Trung, Việt Nam. Ngày 12 tháng 6 năm 2025, Quốc hội thông qua Nghị quyết số
Trang cuối văn bản Hiệp ước không xâm phạm Đức – Xô ngày 26 tháng 8 năm 1939 (chụp bản xuất bản công khai năm 1946) **Hiệp ước Xô – Đức**, còn được gọi là