✨Helmuth Karl Bernhard von Moltke

Helmuth Karl Bernhard von Moltke

Bá tước Helmuth Karl Bernhard Graf von Moltke (26 tháng 10 năm 1800 tại Parchim, Mecklenburg-Schwerin – 24 tháng 4 năm 1891 tại Berlin, Phổ) là một thống chế Phổ và đế quốc Đức. Ông làm Tổng Tham mưu trưởng quân đội Phổ–Đức trong 30 năm, từ năm 1857 đến 1887, và được công nhận rộng rãi là "nhà tổ chức quân sự xuất sắc nhất thế kỷ 19 sau Napoléon".. Moltke là người có công đầu trong việc phát triển Bộ Tổng tham mưu Đức thành một cơ cấu chỉ huy quân sự rất hiệu quả, khiến các nước châu Âu khác phải dụng tâm học hỏi. Không những thế, ông còn dẫn dắt quân đội Phổ giành chiến thắng trong các cuộc chiến tranh thống nhất nước Đức, góp phần đưa nước Đức thành một cường quốc hàng đầu ở châu Âu, và hỗ trợ đắc lực cho các nước đi chính trị của thủ tướng Otto von Bismarck. Ông thường được biết đến là Moltke Lớn (Moltke der Ältere) để phân biệt với người cháu gọi ông bằng bác là Helmuth Johannes Ludwig von Moltke - tổng tham mưu trưởng Đức trong thời kỳ đầu Chiến tranh thế giới thứ nhất.

Trong 3 cuộc chiến tranh thống nhất nước Đức (1864-1871), Moltke đều là người phác thảo kế hoạch tác chiến của quân đội Phổ. Kế hoạch của ông trong chiến tranh Đức-Đan Mạch năm 1864 đã không được triển khai hợp lý, làm thắng lợi của Phổ không được nhanh gọn như mong muốn của Moltke. Hai năm sau ông được giao cả quyền bày biện kế hoạch lẫn chỉ đạo chiến dịch trong hai cuộc chống Áo năm 1866 và chống Pháp các năm 1870 – 1871. Dưới sự lãnh đạo chính trị của Bismarck và sự chỉ huy quân sự của Roon, Moltke, quân đội Phổ đã đánh tan đại quân Áo trong trận Königgrätz chỉ 19 ngày sau khi hai nước tuyên chiến trong mùa hè 1866, và bắt gọn cánh quân chủ lực của Pháp trong trận Sedan 7 tuần 2 ngày sau khi khai chiến (1870). Sau chiến thắng, Moltke được phong hàm Thống chế; ông tiếp tục lãnh đạo Bộ Tổng tham mưu và ra sức củng cố thực lực quân sự Đức, đồng thời tích cực tham gia chính trị. Ông cũng kêu gọi các nhà chính trị, quân sự đàn em không nên thực hiện chính sách đối ngoại hung hăng, kẻo đưa tới một cuộc chiến lan rộng châu Âu. Sau khi Moltke chết, những cảnh báo này đã bị phớt lờ, song các sách lược quân sự, chính trị của Bismarck và Moltke đã khiến nước Đức hòa bình trong hơn một nửa thế kỷ.

Đầu đời

Helmuth von Moltke chào đời tại thị trấn Parchim, Mecklenburg-Schwerin (bây giờ thuộc bang Mecklenburg-Vorpommern, trong một gia đình quý tộc, là con trai của Friedrich Philipp Victor von Moltke (1768 – 1845) và bà Sophie Henriette Paschen, con gái của một thương gia người Lübeck. Ông Friedrich von Moltke làm sĩ quan Trung đoàn Bộ binh số 25 Möllendorf từ năm 1786. Mặc dù ông mô tả những năm tháng phục vụ binh nghiệp của mình là "vô cùng hạnh phúc", Friedrich đã rời quân ngũ vào tháng 9 năm 1796 để cưới Henriette vào tháng 5 năm sau. Sau đó, Friedrich khởi đầu sự nghiệp của mình như một địa chủ nông dân. Ông đã mua một nông trang gần Wittstock, nơi ông sinh sống cùng gia đình mình, đến khi bán nông trang này và dời đến Parchim để sống với người anh, Helmuth, là một sĩ quan quân đội Phổ. Tại đây, người con thứ ba của Friedrich chào đời vào năm 1800 và được đặt theo tên của người bác, Helmuth. Năm 1801, Friedrich lại mua một điền trang ở Gnewitz và cư ngụ với gia đình ở đây cho đến năm 1803, khi ông bán điền trang này và dời đến Lübeck. Năm 1805, Friedrich mua điền trang Augustenhof tại tỉnh Holstein lân cận, nhưng do tình trạng xuống cấp của điền trang này, bà Heinriette và các con ở lại Lübeck đợi Friedrich xây ngôi nhà mới.

Gia đình trở nên bần cùng trong cuộc Chiến tranh Liên minh thứ sáu, khi quân Pháp kéo vào Lübeck, đốt nhà của Friedrich ở thôn quê và cướp phá nhà ông ở thị trấn của Lübeck. Helmuth đã sinh trưởng trong hoàn cảnh rất khó khăn. Lên 9 tuổi, ông vào học nội trú ở Hohenfelde tại Holstein. Hoàn cảnh nghèo nàn của gia đình đã bắt buộc Moltke và các anh là Wilhelm và Friedrich "phải trở thành lính". Cũng chính cảnh sống khó khăn này đã định hình phong cách sống đạm bạc của Moltke – lối sống mà ông vẫn còn giữ ngay cả khi trở thành Thống chế và "vị tướng vĩ đại nhất trong lịch sử Phổ". Năm 1811, nhằm định hướng con mình đến sự nghiệp phục vụ quân đội Đan Mạch, ông Friedrich gửi Helmuth vào học Trường Thiếu sinh quân tại Copenhagen. Moltke từng mô tả ngôi trường quân sự này là "khắt khe, thậm chí khắc nghiệt". Sau khi hoàn tất việc học tập của mình, Moltke được phong cấp hàm Thiếu úy vào ngày 20 tháng 1 năm 1818 và phục vụ trong Trung đoàn Bộ binh Oldenburg ở Rendsburg. Nhưng Moltke là người có tài năng và tham vọng to lớn. Nhận thấy quân đội Phổ sẽ đem lại cơ hội thăng tiến và lương bổng tốt hơn cho mình, sau khi phục vụ quân đội Đan Mạch được ba năm, ông xin và được chấp thuận gia nhập quân đội Phổ. Sau khi vượt qua các bài thi tuyển sĩ quan khó khăn (người ra đề là thống chế Gneisenau), ông trở thành thiếu úy trong Trung đoàn Bộ số 8, đóng đồn tại Frankfurt (Oder).

Moltke thông hiểu nghệ thuật quân sự đến mức chỉ trong năm sau, ông đã vượt qua các kỳ kiểm tra chất lượng của Trường Chiến tranh Tổng hợp ở Berlin (Allgemeine Kriegsschule, sau này gọi là Học viện Quân sự Phổ – Kriegsakademie). Lấy bối cảnh từ cuộc Chiến tranh Bảy năm, tác phẩm kể về hai viên sĩ quan Phổ – Ernest và Gustavus cùng yêu một người phụ nữ. Dĩ nhiên, tiểu thuyết không thể sánh bằng một công trình văn học lớn như Nỗi đau của chàng Werther (Goethe), nhưng ở nhiều cấp độ khác nhau, nó cũng mang những nét tương đồng rõ rệt với phong cách văn học phổ biến đương thời: người phụ nữ kia hóa ra là hai người khác nhau, và tình bạn giữa Ernerst và Gustavus được giữ vững. Tác phẩm cũng khắc họa hai sĩ quan quân đội Phổ là đại diện cho hai bản chất đối lập – Teuton và Latinh (một đề tài thường thấy trong văn học Đức). Qua tình bạn khắng khít giữa họ, một thông điệp quan trọng mà Moltke gửi đến từ tác phẩm rằng những cái đối lập nhau vẫn có thể hòa hợp với nhau. Tác phẩm cũng cho thấy hai sĩ quan Phổ có cùng tính cách trọng danh dự và cao quý như các kẻ địch người Áo của họ, khiến các sĩ quan Phổ và Áo trở nên giống những người đồng đội bị chính trị chia rẽ hơn là những kẻ thù thực sự. Tiểu thuyết đã khẳng định cái nhìn lãng mạn rõ rệt của Moltke về chiến tranh và đời lính, một quan niệm mà ông không bao giờ rời bỏ ông, theo như lá thư ông gửi bác sĩ Bluntschli cũng tiết lộ thế. Ông từng biết đến trong quân đội như là "con người vàng", một người được mọi người mến mộ và không hề có kẻ thù. Vào năm 1831, ông viết tiểu luận Hà Lan và Bỉ trong quan hệ chung của mình, từ khi chia rẽ dưới thời Felipe II đến khi tái thống nhất dưới thời Willem I. Năm sau, ông viết Một tư liệu về hoàn cảnh trong nước và tình hình xã hội Ba Lan, một công trình nghiên cứu dựa trên những điều ông đọc được kết hợp với những gì ông tai nghe mắt thấy về cuộc sống và tính cách của người Ba Lan. Nhờ sự chỉ huy khéo léo của Moltke, pháo binh Thổ gây được một số tổn thất cho địch và là binh chủng Thổ cuối cùng rút khỏi trận địa. Sau thảm bại của quân đội Thổ, Moltke phải qua nhiều khó khăn mới về đến biển Đen, rồi từ đây ông về Konstantiniyye. Sau khi được tin người bảo trợ của mình là Mahmud II đã chết,

Tiếp tục phục vụ quân đội Phổ

Vài tháng sau khi về nước, Moltke được bổ nhiệm vào bộ tham mưu của Quân đoàn IV, án ngữ tại Berlin, vào năm 1840. Năm sau, ông gặp một cô gái người Anh, Maria Bertha Helena Burt, con ghẻ của em gái Moltke – bà Auguste. Maria Burt là con gái của ông John Heyliger Burt, chồng bà Auguste, với người vợ đã quá cố của ông này. Maria đã mồ côi mẹ từ khi 5 tuổi và đã được Auguste nuôi nấng từ khi 8 tuổi. Khi ấy Moltke đã 41 tuổi trong khi Burt mới 16 tuổi, và hai người cưới nhau vào ngày 20 tháng 4 năm 1842. Đây cũng là ngày Moltke được lên cấp hàm Thiếu tá. Moltke và Burt chung sống hạnh phúc với nhau mặc dù họ không có một mụn con nào.

Quá trình trỗi dậy lâu dài và vững chãi của Moltke diễn ra song hành với sự suy tàn về thế lực của Phổ. Moltke quyết tâm hồi phục quá khứ vinh quang của nền quân sự nước nhà và dùng sức mạnh của nó để thống nhất nước Đức. Để thực hiện điều đó, ông cần phải xây dựng mối quan hệ cộng tác với giới lãnh đạo chính trị đồng thời tăng cường khả năng tác chiến của quân đội Phổ. Cùng với Otto von Bismarck – Thủ tướng Phổ từ năm 1862, và Albrecht von Roon – Bộ trưởng Chiến tranh Phổ từ năm 1859, Moltke đã thành lập một bộ Tam đầu chế chi phối nền quân sự-chính trị của Phổ. Bộ Tam đầu chế về sau đã hoàn thành và vượt qua các mục tiêu ban đầu của Moltke khi họ vẽ lại bản đồ châu Âu và xây dựng nước Đức thống nhất thành một cường quốc Âu lục.

Đường lối chiến thuật, chiến lược tác chiến

Moltke tiến hành tái cấu trúc quân đội Phổ dựa trên nhận định rằng các cuộc chiến tranh tương lai sẽ diễn ra với sự tham gia của các đội quân khổng lồ trên những địa bàn rộng lớn. Trong khi đó, cũng như các thế hệ trước thời Napoléon, học thuyết chiến tranh của Moltke nhấn mạnh việc tìm kiếm một thắng lợi quyết định để tiêu diệt quân đội chủ lực của địch. Ông đã ghi nhận: "Nói chung, yếu tố mang tính quyết định không phải là chiếm đóng một địa hình và cũng không phải là chiếm giữ một trận địa gia cố, mà là tiêu diệt lực lượng chiến đấu của đối phương".

Moltke đã xây dựng và phát triển học thuyết chiến thuật của mình qua các bài luận văn. Hai năm trước khi chiến tranh với Đan Mạch bùng nổ, ông đề xuất một khái niệm gọi là "tấn công-phòng ngự". Theo đó, phe chủ động tiến công về chiến lược sẽ tổ chức thế phòng ngự chiến thuật để giao chiến với địch. Nhờ vậy, phe chủ động sẽ dựa vào thế trận dễ thủ khó công để bẻ gãy các cuộc phản công và tiêu hao sinh lực địch, trước khi tung một đòn quyết định dứt điểm trận chiến. Mặt khác, việc áp dụng đúng đắn học thuyết "tấn công-phòng ngự" không phải là dễ. Nó đòi hỏi phe tấn công phải tìm kiếm một vị trí quan trọng mà quân địch không thể bỏ quên và tất yếu sẽ phản công. Ngoài ra, việc thực hiện học thuyết này đem lại một rủi ro: thay vì tấn công trực diện, quân địch có thể sẽ đánh bọc sườn và bức phe tấn công rút khỏi vị trí. Do vậy, Moltke chỉ áp dụng học thuyết này một lần duy nhất trong trận Sedan năm 1870: tại đây, 2 cánh quân Đức khép chặt đại quân Pháp, rồi đập tan mọi đợt phản công phá vây của địch. Dưới sức ép tấn công cuẩ pháo binh và bộ binh Đức, quân Pháp không còn lựa chọn nào khác ngoài việc phát động tấn công chiến thuật hoặc là bị xé làm trăm mảnh.

phải|thumb|Moltke đã nói: "Chỉ khi thành thạo và quen thuộc với hành động độc lập thì chỉ huy các cấp mới có thể dễ dàng điều động những quân số khổng lồ". Cơ cấu này, được biết đến với tên gọi "[[Sứ mệnh lệnh", trở thành một dấu ẩn của quân đội Phổ và Đức về sau này.

Bên cạnh đó, việc thực hiện cơ chế này cũng phụ thuộc vào tình huống và cá nhân liên quan. Trong chiến dịch tấn công Hannover và Hessen năm 1866, Moltke thường ban hành những chỉ thị chi tiết vì ông thấy tổng tư lệnh quân Phổ ở mặt trận này là Falckenstein không có năng lực.

Sự thiếu tiến triển của chiến dịch Đan Mạch đã khiến cho Bismarck ngày càng lo lắng và ông thúc dục Quốc vương phát lệnh tấn công Düppel. Vị Thủ tướng khẳng định Phổ cần phải đạt một chiến thắng nhanh gọn để nâng cao thanh thế các lực lượng vũ trang Phổ trong mắt các quốc gia châu Âu đồng thời đem lại tự tin cho ông ngồi vào vòng đàm phán. Moltke trì hoãn cuộc tấn công đủ lâu để các cỗ trọng pháo được điều đến từ Berlin. Pháo binh Phổ đã oanh kích dữ dội vào Düppel trong suốt 25 ngày đêm. Ngày 18 tháng 4, quân Phổ tiến công và nhanh chóng chiếm được pháo đài. Trong khi phía Phổ chịu tổn thất không đáng kể, số quân Đan Mạch bị giết và bị thương lên đến 1.800 người, cộng thêm 3.600 người bị bắt làm tù binh. Ít lâu sau, quân Đan Mạch cũng rời bỏ Fredericia và rút xuống các đảo Alsen và Fünen. Một cuộc đình chiến đã diễn ra từ ngày 25 tháng 4 đến ngày 25 tháng 6, khi mà người Anh kêu gọi đàm phán để chấm dứt cuộc chiến. Mặc dù Wilhelm I chủ trương không can thiệp trực tiếp vào các quyết sách của vị Tổng tham mưu trưởng, Moltke vẫn coi mình như một bề tôi của nhà vua. Do không muốn đả động đến quyền hành của quân vương, ông nhều lúc miễn cưỡng trong việc trực tiếp chỉ huy các đạo quân trên chiến trường.

Diễn biến chiến dịch

Khi cuộc Chiến tranh Áo-Phổ bùng nổ năm 1866, Moltke chủ trương tập trung đại bộ phận quân chủ lực Phổ phát động mũi tấn công quyết định. Trên toàn cục, người Phổ phải đương đầu hai cụm quân gồm liên quân Áo-Phổ với 27 vạn người và quân đội các nước đồng minh Đức với khoảng 12 vạn người. Trong khi đó, các lực lượng Phổ chỉ có khoảng 328.000 quân, nhưng Moltke quyết định huy động 278.000 quân tiến công Áo trên chiến trường quyết định và chỉ để lại 48.000 quân chống nhau với các đồng minh của Áo ở Đức. Dưới sự chỉ huy của tướng Falckenstein, 48.000 quân Phổ đã loại Hessen và Hannover ra khỏi vòng chiến sau chưa đầy hai tuần, trước khi tấn công và đánh bại quân đội Nam Đức.

Trong khi quân Áo bỏ chạy tán loạn, các đơn vị quân Phổ đã quá mệt mỏi để có thể tiến hành truy đuổi. Một số bình luận viên chỉ trích Moltke vì đã để chủ lực đối phương thoát khỏi vòng vây, nhưng theo Max Boot, không phải là một tổn thất lớn. Quân Áo-Sachsen đã bỏ lại toàn bộ các khẩu đại bác và hầu hết tiếp tế của mình trên chiến trường. Thêm vào đó, họ bị tổn thất gấp 5 lần quân Phổ.

Không "ngủ quên trên chiến thắng"

Sau khi ca khúc khải hoàn trở về kinh đô Berlin, Moltke nói: "Tôi ghét mọi lời tán tụng thái quá. Tôi chỉ làm bổn phận của mình".

phải|thumb|Bộ ba Bismarck, Roon và Moltke trên chiến trường Sedan ngày 1 tháng 9. Ngày 20 tháng 7 năm 1870, vua Wilhelm I phong ông chức "Tổng tham mưu trưởng Quân đội tại Đại bản doanh của Đức Vua", theo đó ông được quyền ban hành mệnh lệnh trên danh nghĩa nhà vua trong suốt cuộc chiến. Moltke đưa một "Bộ Tổng tham mưu cơ động" theo ông ra mặt trận. Bên cạnh các sĩ quan tùy tùng thông thường, bộ tham mưu cơ động này còn bao gồm một viên phó tổng tham mưu trưởng và các trưởng bộ phận về tác chiến, tình báo, liên lạc, tiếp tế và đường sắt. Mỗi bộ phận đều có sự tham gia của khoảng từ 60 đến 80 viên sĩ quan tham mưu. Trong khi cuộc tổng động viên của Pháp diễn ra trong tình trạng hỗn loạn, phía Phổ động viên lực lượng với tốc độ đáng kể. Trong ngày 30 tháng 7, Moltke đã triển khai 468.000 quân Đức ở biên giới Pháp, đồng thời giữ lại 95.000 quân (ngoại trừ dân binh) để trừ bị và đề phòng khả năng can thiệp của Áo.

Diễn tiến chiến dịch

Sau khi thành lập Tập đoàn quân Rhine gồm 8 quân đoàn do bản thân trực tiếp chỉ huy, Hoàng đế Pháp Napoléon III đã điều các Quân đoàn II (tướng Frossard), III (Thống chế Bazaine), IV (tướng Ladmirault) và V (tướng De Failly) tiến gần đến biên giới Đức-Pháp ở Lorraine vào ngày 31 tháng 7 năm 1870 sau khi cuộc Chiến tranh Pháp-Đức bùng nổ. Dù không có kế hoạch rõ ràng, vào ngày 2 tháng 8, Frossard kéo Quân đoàn II đánh vào bản thổ Đức và giành được thị trấn biên ải Saarbrücken từ tay 3 đại đội của Trung đoàn 40, Sư đoàn 16 (Phổ). Giữa lúc dư luận Pháp rộn rã ăn mừng thắng lợi mở màn của quân lực, Bộ Chỉ huy quân Pháp tại Metz lại trở nên dè đặt và không thể xác định một mục đích cụ thể nào cho các hoạt động tiếp theo.

phải|thumb|Bản đồ các cuộc tấn công của quân đội Phổ-Đức, 5–6 tháng 8 năm 1870. Tuy nhiên, lão tướng 74 tuổi Steinmetz do thèm khát vinh quang nên bất mãn với vai trò trừ bị và bảo vệ sườn mà ông và tập đoàn quân nhỏ bé của mình phải đảm nhận.

Trong khi đó, tin tức về sự xuất hiện của nhiều đạo quân Đức ngoài thị trấn biên ải Wissembourg (Alsace) ngày 3 tháng 8 và cuộc tấn công thắng lợi của Tập đoàn quân số 3 Đức vào Wissembourg ngày 4 tháng 8 đã buộc Napoléon phải chuyển sang thế trận phòng ngự trên mạn đông nước Pháp và Frossard rút Quân đoàn II về một tuyến phòng thủ rắn chắc quanh hai làng Spicheren và Forbach tại Lorraine, cách Saarbrücken 3,22 km. Vào ngày 6 tháng 8 năm 1870, trong khi quân chủ lực Tập đoàn quân số 3 đánh tan Quân đoàn I và một sư đoàn thuộc biên chế Quân đoàn VII Pháp ở trận Wœrth-Frœschwiller, các thành phần thuộc hai Tập đoàn quân số 1, 2 đánh bại Quân đoàn II Pháp tại trận Spicheren-Forbach. Hỏa lực ưu việt của bộ binh Pháp đã gây cho các lực lượng tấn công Phổ nhiều thiệt hại, nhưng không thể ngăn họ tiến về phía trước, tìm kiếm sườn quân Pháp và ép đối phương rút khỏi tuyến phòng ngự cứng rắn của mình. Trong khi hầu hết mọi đơn vị Pháp chờ lệnh cấp trên, mọi đơn vị Phổ đều hành quân theo tiếng đại bác và lâm chiến ngay sau khi tìm ra quân địch.

phải|thumb|Tổng hành dinh quân Phổ tại [[Versailles trong cuộc vây hãm Paris.]] Kế hoạch bao vây xóa sổ quân chủ lực Pháp ở biên giới đã không được như ý muốn của Moltke. Mặt khác, hai thất bại mở màn tại Wœrth-Frœschwiller và Spicheren-Forbach đã giáng một đòn đau vào tinh thần quân lính và tâm lý các tướng lĩnh Pháp. Trong thư gửi cho Trung tướng Blumenthal - Tham mưu trưởng Tập đoàn quân số 3 ngày 7 tháng 8, Moltke cho rằng cách tốt nhất để các tàn binh bại tướng Pháp xoay chuyển tình hình lúc này là lập một kế hoạch rành mạch nhằm tập trung toàn bộ lực lượng tại St. Avold (Lorraine) và tung một đòn hồi mã thương vào một bộ phận riêng lẻ của quân Phổ. Nhưng ông kết luận: "một quyết định mạnh mẽ như vậy là không hợp lý với thái độ mà họ bộc lộ cho đến giờ". Thật vậy, Napoléon đã nhượng lại quyền chủ động chiến lược cho các đạo quân của Moltke khi ông ta phát lệnh cho toàn bộ quân lực rút về Châlons-sur-Marne. Nhưng Quân đoàn II đã tự ý rút lui theo hướng Metz mà không báo với cấp trên sau khi được tin Quân đoàn I thảm bại ở Wœrth-Frœschwiller. Cuối ngày 7 tháng 8, Napoléon lệnh cho 3 quân đoàn bên phải triệt thoái về Châlons để thành lập Tập đoàn quân Châlons do MacMahon chỉ huy, trong khi Tập đoàn quân Rhine triệt thoái tới pháo đài Metz, trước khi rút tới Châlons theo đường Verdun để hội quân với tập đoàn quân mới của MacMahon. Ngày 12 tháng 8, Hoàng đế nhượng quyền chỉ huy Tập đoàn quân Rhine cho Bazaine.. Moltke đơn thuần phớt lờ Metz và điều quân vượt tuyến đường rút của địch. Ông huy động Tập đoàn quân số 1 và Tập đoàn quân số 2 khép kín quân Pháp từ hướng nam. Ngày 16 tháng 8, các quân đoàn III (tướng Alvensleben) và X (tướng Voigts-Rhetz) của Tập đoàn quân số 2, do tin là mình đang gặp phải hậu quân Pháp, đã tiến công toàn bộ Tập đoàn quân Rhine ở Vionville - Mars-la-Tour. Các đợt tấn công của bộ binh Phổ sớm bị chặn đứng, song lực lượng pháo binh thiện chiến của Phổ, vốn được cải tiến rất nhiều kể từ sau năm 1866, đã cứu vãn họ khỏi một thất bại nặng nề. Trận đánh kết thúc trong màn đêm với thiệt hại rất lớn cho cả hai bên tham chiến. Mặc dù không phe nào giành thắng lợi rõ rệt, quân của Moltke đã khóa được đường rút của Tập đoàn quân Rhine về Verdun, buộc Bazaine phải rút quân trở lại hướng Metz. Dù Moltke từng viết "cuộc vây hãm Metz không nằm trong kế hoạch ban đầu của chiến dịch", giờ đây ông quyết định tiến hành bao vây pháo đài., quân của MacMahon phải rút vào Sedan trong ngày hôm sau. Bằng một cuộc tấn công gọng kìm, Moltke đã bao vây tiêu diệt Tập đoàn quân Châlons trong trận Sedan ngày 1 tháng 9. Mọi nỗ lực thoát vây của các đơn vị quân Pháp đều bị hỏa lực pháo binh và bộ binh của Moltke đập tan với thiệt hại hết sức nặng nề. Theo lời kể của viên sĩ quan tham mưu Alfred von Waldersee - người kế nhiệm tương lai của Moltke, trong bữa ăn tối với Bismarck, Roon, Moltke và các tướng lĩnh cấp cao vào đêm chiến thắng, Wilhelm I khen ngợi "người đã mài sắc lưỡi gươm cho ta, người đã sử dụng nó, và người đã dẫn đường đúng đắn cho các chính sách của ta". Cuối tháng 12 năm 1870, Bismarck ra lệnh nã đại bác vào Paris. Moltke phản đối hành động này vì ông cho rằng việc pháo kích là không cần thiết và thành phố sẽ bị buộc phải khuất phục sau vài tháng bỏ đói. Bismarck vẫn tiếp tục tiến hành pháo kích, nhưng suy tính của Moltke đã đúng. Trước tình trạng thiếu lương thực trầm trọng, Paris đầu hàng vào ngày 28 tháng 1 năm 1871. Tháng 3 năm đó, hai nước ký kết hiệp định đình chiến. Hòa ước Frankfurt vào ngày 10 tháng 5 năm 1871 đã đặt dấu chấm hết cho cuộc chiến.

Moltke còn được phong danh hiệu Công dân Danh dự của các thành phố sau (xếp theo bảng chữ cái): Aachen (tháng 10 năm 1890), Berlin (16 tháng 3 năm 1871), Bremen (1871), Dresden (11 tháng 7 năm 1871), Görlitz (1871), Kolberg (1866), Köln (9 tháng 6 năm 1879), Lübeck (1871), Magdeburg (1870), München (1890) và Parchim (4 tháng 5 năm 1867).

thumb|right|Dinh Moltke tại Kreisau, nay là Krzyżowa, năm [[2005]] Trong thời bình, thống chế Moltke tiếp tục dốc sức củng cố thực lực của quân đội Đức. Đối mặt với khả năng xảy ra một cuộc chiến tranh hai mặt trận với Nga và Pháp trong tương lai, vị Tổng tham mưu trưởng luôn chủ trương thực hiện chiến lược tấn công Pháp và phòng ngự với Nga do ông hiểu rằng việc tìm kiếm một thắng lợi quyết định trên những dải đất rộng lớn của Nga là khó thể thực hiện. Nhưng từ năm 1879, trước những diễn tiến mới trong nền quân sự hai nước này, ông đổi sang chiến lược tấn công Nga và phòng ngự với Pháp bằng một lực lượng mỏng hơn. Năm 1880, ông từng xin rời nhiệm sở nhưng bị từ chối. Sinh nhật lần thứ 90 của Moltke vào tháng 10 năm 1890 đã đợc tuyên bố là ngày lễ quốc gia. Cháu trai của ông, Helmuth Johannes Ludwig von Moltke (Moltke Nhỏ), cũng là Tổng tham mưu trưởng từ năm 1906 cho đến khi bị sa thải vào năm 1914 khi chiến lược đánh nhanh thắng nhanh của Đức bị phá sản trong Chiến tranh thế giới thứ nhất.

Cuối đời, vị Thống chế lão thành trở nên bức xúc trước sự ảnh hưởng ngày càng gia tắc của nhóm cận thần hiếu chiến của tân Hoàng đế Wilhelm II. Năm 1890, tại thượng viện Quốc hội Đức, ông lên án phe cánh này bằng lời cảnh báo rằng khi cuộc chiến tranh mà họ trông mong bùng nổ, "độ dài của nó sẽ không thể được lường trước và kết cục của nó sẽ không thể được thấy trước ở bất kỳ nơi nào... và gây thống khổ kẻ đầu tiên châm lửa lên châu Âu...". Lễ quốc tang của ông đã được cử hành theo nghi thức quân đội, và được sự tham dự của hàng nghìn người, trong đó có Hoàng đế Wilhelm II. Mặc dù vậy, Bismarck không có mặt trong lễ tang này. Hàng nghìn binh sĩ, dưới sự chỉ đạo của Hoàng đế, đã hộ tống linh cữu của ông đến Trạm đường sắt Lehrter ở Berlin, và từ đây linh cữu được đưa về Schlesien.

Thi hài của Moltke đã được an táng trong lăng mộ của gia đình tại điền trang Kreisau. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, điền trang đã bị cướp phá khi Kreisau (nau là Krzyżowa, hạt Świdnica) bị sáp nhập vào Ba Lan. Đến giờ, không một mẩu di hào nào của ông được biết là còn tồn tại. Ông được giới sử học đánh giá là người đã định hình ra phương thức chiến tranh của nước Đức thời đế chế. Không những thế, cơ cấu tham mưu và tổ chức quân sự mà ông dày công xây dựng đã trở thành khuôn mẫu cho phần lớn các quân đội trên thế giới ngày nay.

Danh hiệu và giải thưởng

Đoạn này chứa đựng thông tin từ Wikipedia tiếng Đức ;Phổ

  • Huân chương Đại bàng Đen, kèm theo dây chuyền và kim cương
  • Huân chương Đại bàng Đỏ, Đại Thập tự đính kèm lá sồi và gươm
  • Huân chương Vương quyền (Phổ) hạng nhất, đính kèm gươm, dải bang phủ men của Huân chương Đại bàng Đỏ, và lá sồi
  • Huân chương Vương thất Hohenzollern, Thập tự Đại Tư lệnh đính kèm gươm, kim cương, và Ngôi sao đính kèm kim cương
  • Huân chương Thập tự Xanh, Đại Thập tự đính kèm Ngôi sao, lá sồi, và vương miện gắn kim cương
  • Huân chương Thập tự Xanh và Khoa học và Nghệ thuật
  • Đại Thập tự Huân chương Thập tự Sắt năm 1870
  • Tư lệnh Danh dự Huân chương Thánh Johann
  • Giải thưởng Phục vụ
  • Huân chương Cứu mạng trên dải ruy-băng

phải|thumb|Gia huy dòng họ Bá tước Moltke ;Các bang Đức

  • Đại Thập tự Huân chương Gia tộc Albrecht (Anhalt)
  • Huân chương Gia tộc Trung kiên (Baden)
  • Đại Thập tự Huân chương Quân công Karl Friedrich (Baden)
  • Đại Thập tự Huân chương Quân sự Max Joseph (Bayern)
  • Đại Thập tự Huân chương Heinrich Sư tử đính kèm gươm báu (Braunchsweig)
  • Đại Thập tự Huân chương Ludwig (Hessen)
  • Huân chương Quân công (Hessen)
  • Huy chương Quân công đính kèm gươm báu (Schaumburg-Lippe)
  • Đại Thập tự Huân chương Gia tộc Wenden, đính kèm vương miện vàng và gươm (Mecklenburg-Schwerin)
  • Thập tự Quân công (Mecklenburg-Schwerin)hập tự Quân công]] hạng I (Mecklenburg-Schwerin)
  • Thập tự vì thành tích trong chiến tranh (Mecklenburg-Strelitz)
  • Đại Thập tự Huân chương Gia tộc và Quân công Peter Friedrich Ludwig đính kèm gươm (Oldenburg)
  • Huân chương Vương miện Vân hương (Sachsen)
  • Đại Thập tự Huân chương Quân sự Thánh Heinrich (Sachsen)
  • Đại Thập tự Huân chương Ưng trắng đính kèm gươm (Sachsen-Weimar)
  • Đại Thập tự Huân chương Gia tộc Sachsen-Ernest (các công quốc Sachsen)
  • Đại Thập tự Huân chương Quân công (Württemberg)
  • Đại Thập tự Huân chương Vương quyền (Württemberg)

;Khác

  • Đại Thập tự Huân chương Leopold (Bỉ)
  • Đại Thập tự Bắc Đẩu bội tinh (Pháp)
  • Huân chương Santissima Annunziata (Ý)
  • Đại Thập tự Huân chương Quân sự Savoia (Ý)
  • Đại Thập tự Huân chương Thánh Stephan (Áo-Hung)
  • Đại Thập tự Huân chương Leopold (Áo-Hung)
  • Đại Thập tự Huân chương Tháp và Kiếm đính kèm dây chuyền (Bồ Đào Nha)
  • Huân chương Thánh Andrei (Nga)
  • Huân chương Thánh Aleksandr Nevsky đính kèm kim cương (Nga)
  • Huân chương Đại bàng Trắng (Nga)Huân chương Đại bàng Trắng (Nga)
  • Huân chương Thánh Anna hạng I (Nga)
  • Huân chương Thánh Georghy hạng II (Nga)
  • Huân chương Vương tộc Seraphim (Thụy Điển)
  • Đại Thập tự Huân chương Bạch tượng (Xiêm La)
  • Huy chương Imtiyaz đính kèm kim cương (Thổ Nhĩ Kỳ)
  • Huân chương Medjidie hạng I (Thổ Nhĩ Kỳ)
  • Thanh gươm Vinh danh (Thổ Nhĩ Kỳ)

Phụ chú

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
Bá tước **Helmuth Karl Bernhard _Graf_ von Moltke** (26 tháng 10 năm 1800 tại Parchim, Mecklenburg-Schwerin – 24 tháng 4 năm 1891 tại Berlin, Phổ) là một thống chế Phổ và đế quốc Đức. Ông
**Helmuth Johannes Ludwig von Moltke** (; 23 tháng 5 năm 1848, Biendorf – 18 tháng 6 năm 1916, Berlin), còn được gọi là **Moltke Nhỏ** để phân biệt với người bác của mình là Thống
Quân phục Thống chế Nga ([[1793)]] nhỏ|446x446px|Thống chế [[Aleksandr Vasilyevich Suvorov|A.B. Suvorov.]] **Thống chế** (, đôi khi được dịch là **Nguyên soái**) là cấp bậc quân sự cao nhất trong quân đội Nga từ đầu
**Quân đội Hoàng gia Phổ** () là lực lượng quân sự của Vương quốc Phổ (nguyên là lãnh địa Tuyển hầu tước Brandenburg trước năm 1701). Quân đội Phổ đóng vai trò quan trọng trong
**Chiến tranh Áo – Phổ** (hay còn gọi là **Chiến tranh bảy tuần**, **Nội chiến Đức** hoặc **Chiến tranh Phổ – Đức**; ) là cuộc chiến tranh diễn ra vào năm 1866 giữa 2 cường
thumb|right|Kiểu dáng tiêu chuẩn của Huân chương Chữ thập Sắt Huân chương **Thập tự Sắt** hay **Chữ thập Sắt** (tiếng Đức: _Eisernes Kreuz_, viết tắt **EK**) là một huân chương quân sự của Vương quốc
nhỏ|Lối vào nhà hàng, từ phía nam của [[tòa thị chính Wrocław (2010)]] nhỏ|Lối vào nhà hàng năm 1859 **Piwnica Świdnicka** là một nhà hàng, nằm ở tầng hầm của Tòa thị chính cổ Wroclaw,
phải|thumb|Quân X đang bị quân V bao vây trên một khu vực. **Bao vây** là một thuật ngữ quân sự, chỉ tình hình khi một lực lượng quân sự tại một vị trí bị cô
## Sự kiện * 1 tháng 1 – Đông Ấn Hà Lan được hình thành từ các trạm thương mại quốc hữu hóa của Công ty Đông Ấn Hà Lan. * 11 tháng 2 –
**Karl Herman Bernhard von Brandenstein** (27 tháng 12 năm 1831 tại Potsdam – 17 tháng 3 năm 1886 tại Berlin) là một tướng lĩnh trong quân đội Phổ, đã từng tham gia cuộc Chiến tranh
**Trận sông Marne lần thứ nhất** là trận đánh diễn ra giữa Đế quốc Đức và liên quân Anh - Pháp trong cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất từ ngày 5 tháng 9 cho
**Trận Beaumont**, và đánh bật quân đội Pháp về Mouzon. Quân Pháp chịu nhiều thiệt hại hơn quân Đức trong cuộc chiến này – vốn có tính quyết định hơn các trận thắng trước của
**Trận Mars-la-Tour**, còn được gọi là **Trận Vionville**, **Trận Vionville–Mars-la-Tour** hay **trận Rezonville** theo tên các ngôi làng nằm trên đường Metz-Verdun Sau những thất bại mở màn của quân đội Pháp đầu tháng 8