✨Friedrich Karl Nikolaus của Phổ
Friedrich Karl Nikolaus của Phổ (1828 – 1885) là cháu trai Wilhelm I – vị hoàng đế khai quốc của đế quốc Đức – và là một Thống chế quân đội Phổ-Đức. Ông thường được mệnh danh là "Vương tử Đỏ" (Roten Prinzen) vì hay mặc bộ quân phục khinh kỵ binh màu đỏ chứ không phải là vì tinh thần tấn công máu lửa
Cũng như các thân vương khác của vương triều Phổ, Friedrich Karl đã được định hướng đến sự nghiệp quân sự ngay từ khi thời thơ ấu. Ông cũng học tại Đại học Bonn từ năm 1846 cho đến năm 1848. Sau khi được phong cấp hàm Đại úy Kỵ binh năm 1848, ông đã thể hiện lòng dũng cảm của mình trong cuộc Chiến tranh Schleswig lần thứ nhất và trong chiến dịch trấn áp nổi dậy tại Baden, nơi ông bị trọng thương vào năm 1849. Sau khi bình phục, ông tiếp tục phục vụ lực lượng quân sự Phổ và lên dần đến cấp Trung tướng Kỵ binh. Vào năm 1859, ông được bổ nhiệm làm Tư lệnh Quân đoàn III Brandenburg và đã thực hiện suôn sẻ công việc của mình. Tiếp theo đó, ông được thăng cấp hàm Thượng tướng Kỵ binh năm 1861 và tham gia trong cuộc Chiến tranh Schleswig lần thứ hai năm 1864. Sau chiến thắng vang dội của mình tại Düppel ngày 18 tháng 4, ông được bổ nhiệm làm Tổng tư lệnh liên quân Áo-Phổ và trên cương vị này, ông đã dứt điểm cuộc chiến với thắng lợi quân sự quyết định của Áo và Phổ. Bên cạnh sự gắn bó của mình với truyền thống quân sự Phổ, Friedrich Karl học Đại học Bonn từ năm 1846 cho đến năm 1848 và trở thành một trong những thân vương đầu tiên của vương triều Phổ được học tại đây. Thiếu tá Albrecht von Roon, người đã dạy dỗ tận tình cho Friedrich Karl về các bộ môn khoa học và quân sự khi ông còn ấu thơ, đã được cha của Friedrich Karl cử đi tháp tùng vị thân vương trẻ tuổi trong suốt thời gian ông học ở Bonn. Ông đã tranh thủ thời gian đi nhiều chuyến sang Thụy Sĩ, Áo, Ý và Pháp trong các kỳ nghỉ hè năm 1846 và 1847. Ngoài ra, ông được tặng Huy chương Cứu mạng (Rettungsmedaille) vào ngày 12 tháng 7 năm 1847 vì đã cứu sống một đứa bé bị chìm ở sông Rhein.
Những năm tháng học tập của Friedrich Karl trong thời niên thiếu của mình đã hình thành mối quan hệ gắn bó giữa vị vương tử với Roon, người có nhiều ảnh hưởng không nhỏ đến tố chất của ông
Sự nghiệp ban đầu
Sau khi tốt nghiệp Đại học Bonn, ông trở thành một đại đội trưởng trong trung đoàn của mình và phục vụ bộ tham mưu của Thống chế Friedrich von Wrangel trong cuộc Chiến tranh Schleswig lần thứ nhất năm đó. Trên chiến trường, ông đã thể hiện lòng dũng cảm của mình trong các trận giao chiến gần Schleswig và Düppel. Theo sự đề xuất của Thống chế Wrangel, ông được vua bác Friedrich Wilhelm IV phong tặng Huân chương Thập tự Xanh cao quý của quân đội Phổ vì năng lực mà ông thể hiện trong trận Schleswig ngày 23 tháng 4 năm 1848. Cũng trong năm 1848, ông được thăng cấp Đại úy kỵ binh (Rittmeister) trong trung đoàn Cấm vệ quân (Gardes du Corps).
Sau khi bình phục, Friedrich Karl tiếp tục theo đuổi binh nghiệp của mình.
Vào ngày 1 tháng 7 năm 1860, ông được ủy nhiệm làm Tướng tư lệnh Quân đoàn III ở Berlin. Trong suốt 10 năm chỉ huy quân đoàn này (1860 – 1870, ngoại trừ các chiến dịch năm 1864 và 1866), ông đã áp dụng những ý tưởng cải cách của mình và biến Quân đoàn III (Brandenburg) thành nơi nuôi dưỡng tư tưởng quân sự của ông, qua đó đặt tiền đề cho những thắng lợi quân sự vang dội của Phổ về sau này. Friedrich Karl luôn chú trọng tăng cường sĩ khí của quân lực đến mức độ cao nhất có thể; và, qua 10 năm không ngừng rèn luyện Sau chiến thắng Düppel, Friedrich Karl được phong chức Tổng tư lệnh liên quân Áo-Phổ thay thế vị Thống chế lão thành von Wrangel. Trung tướng Helmuth von Moltke được cử làm Tham mưu trưởng của ông. Thực hiện kế hoạch đổ bộ táo bạo của Moltke, Friedrich Karl đã đánh chiếm đảo Alsen vào ngày 29 tháng 6. Đây là một thắng lợi quyết định đã đánh quỵ ý chí tiếp tục chiến đấu của người Đan Mạch và dẫn tới sự chấm dứt cuộc chiến với phần thắng thuộc về phe đồng minh Áo-Phổ. Những chiến công của Friedrich Karl năm 1864 đã góp phần khiến ông trở thành một tên tuổi lớn trong lịch sử quân sự Phổ.
Chiến tranh Áo-Phổ
Vào năm 1866, khi cuộc Chiến tranh Áo-Phổ bùng nổ, ông được vua bác Wilhelm I bổ nhiệm làm Tư lệnh Tập đoàn quân số 1, với 93.000 quân đến từ các quân đoàn II, III và IV. Trong thời điểm này, các chỉ huy quân Phổ không hề hay biết về vị trí cứ điểm phòng ngự của quân Áo do thiếu trinh sát, và Tổng tham mưu trưởng Helmuth von Moltke dự định cho phần lớn quân lực nghỉ ngơi từ một đến hai ngày. Nhưng rồi, trưa ngày 2 tháng 7, sau khi tổ chức một cuộc thám sát, Đại tá Zychlinski – viên chỉ huy tiền quân Sư đoàn số 7 (tướng Fransecky) thuộc Tập đoàn quân số 1 của Friedrich Karl – báo cáo rằng Quân đoàn III của Áo đang đóng quân trên các cao điểm Clum và Lipa. Được tin, Friedrich Karl quyết định phải tiến hành điều tra và truyền lệnh cho Thiếu tá Ernst von Unger tiến hành thám sát lực lượng địch ở thung lũng Bistritz. Unger đã thực hiện thành công nhiệm vụ của mình và phát hiện được một số lượng đáng kể quân Áo tập kết dọc theo vùng hạ lưu sông Elbe về hướng Bắc Königgrätz. Khoảng 6 hoặc 7 giờ đêm ngày 2 tháng 7, Unger trở về tổng hành dinh và báo cáo cho Friedrich Karl về những gì ông thấy được. Tin tức này đã làm thay đổi đổi hoàn toàn thái độ thận trọng mà Friedrich Karl thể hiện trong giai đoạn trước của cuộc chiến. Ông đề ra một quyết định mà được các nhà viết tiểu sử về sau này nhìn nhận là vĩ đại nhất và có ý nghĩa nhất trong sự nghiệp quân sự của ông: huy động toàn bộ lực lượng của mình để tấn công quân địch trong buổi sáng ngày hôm sau. trái|thumb|Friedrich Karl chỉ huy quân Phổ trong trận Königgrätz.
Sau khi tướng Voigts-Rhetz, Tham mưu trưởng của Friedrich Karl, trình diện kế hoạch tấn công của vị thân vương cho Moltke, Tổng tham mưu trưởng tức tốc ban lệnh cho Thái tử Friedrich Wilhelm – Tư lệnh Tập đoàn quân số 2 – đưa quân vào trận địa và hình thành cánh phải của quân Phổ, hỗ trợ cho Tập đoàn quân số 1 của Friedrich Karl án ngữ ở chính diện và Tập đoàn quân Elbe của Bittenfeld ở cánh trái. Vốn có nhiều tham vọng và ghen tỵ với anh họ mình là Friedrich Wilhelm, Friedrich Karl mong muốn đánh bại hoàn toàn quân Áo trước khi Thái tử có thể đến kịp và chia sẻ vinh quang chiến thắng với ông.; và vào lúc 16 giờ, Tập đoàn quân số 1 tiến vào hướng trung tâm, "với những tiếng reo vang và trống đánh" nhưc một phóng viên chiến trường mô tả. Quân tiền vệ của Friedrich Karl đã làm chủ được các cao điểm mà tại đó pháo binh Áo tra tấn họ trong suốt buổi sáng.
Thắng lợi quyết định ở Königgrätz đã xác định phần thắng thuộc về Phổ trong cuộc chiến. Mặc dù tướng Moltke là "kiến trúc sư" trưởng của chiến thắng, tài thao lược mà Friedrich Karl thể hiện trên cương vị chỉ huy một tập đoàn quân Phổ đã đem lại cho ông tiếng tăm như một trong những chiến sĩ hàng đầu châu Âu thời đó.
Sau chiến thắng Gravelotte-St. Privat, các lực lượng thuộc Tập đoàn quân số 1 và 2 tiến hành bao vây Tập đoàn quân Rhine ở Metz. Mâu thuẫn cá nhân giữa vị thân vương và tướng Karl Friedrich von Steinmetz, người chỉ huy Tập đoàn quân số 1, đã dẫn đến việc Steinmetz từ chức và Friedrich Karl trở thành Tổng chỉ huy các lực lượng vây hãm của Đức. Tại đây, Friedrich Karl với 12 vạn quân đã khóa chặt 18 vạn quân Pháp trong pháo đài Metz và đập tan các đợt phá vây ác liệt của Pháp, tiêu biểu nhất là trận Noisseville (31 tháng 8 – 1 tháng 9) và trận Bellevue (7 tháng 10). Sư đoàn của tướng Ferdinand von Kummer đã đóng vai trò then chốt trong việc bẻ gãy hai cuộc đột vây này. Cuối cùng, vào ngày 27 tháng 10 năm 1870, khoảng 173.000 quân Pháp – trong đó có ba thống chế và hơn 6.000 sĩ quan – phải đầu hàng quân của Friedrich Karl, khi ấy còn khoảng 11 vạn binh sĩ. Theo cổ tục của vương triều, một vương thân không được phong Thống chế – cấp bậc cao nhất của quân đội Phổ. Bản thân vua Wilhelm I trước đây chỉ là "Đại tướng Bộ binh quyền lãnh Thống chế", chứ không phải là Thống chế thực thụ. Tuy nhiên, ngày hôm sau khi Metz thất thủ, vua Wilhelm I phá lệ phong hàm Thống chế cho cả Friedrich Karl và Thái tử Friedrich Wilhelm.
phải|thumb|Lễ khánh thành Đài tưởng niệm Thống chế Vương thân Friedrich Karl của Phổ ở [[Friesack (1899).]] Sau khi được người Pháp thành lập vào cuối năm 1870, Tập đoàn quân Loire đã đánh đuổi quân Bayern dưới quyền tướng Ludwig von der Tann khỏi Orleans vào ngày 9 tháng 11 năm 1870. Mặc dù quân Pháp bị buộc phải ngừng truy kích khi các tướng Phổ là Ludwig von Wittich, Vương thân Albrecht và Đại Công tước xứ Mecklenburg-Schwerin tiếp viện cho quân Bayern, Tập đoàn quân Loire thực sự đã trở thành một mối đe dọa đến quân Đức. Trước tình hình đó, Friedrich Karl được lệnh chuyển gấp tổng hành dinh từ Metz đến sông Loire. Ông rời Corny, nơi ông đặt tổng hành dinh từ ngày 7 tháng 9, đến Pont-ii-Mousson ngày 2 tháng 11. Đến ngày 10 tháng 11 năm 1870, ông tới Troyes. Ông nhanh chóng hành quân qua Sens, Rambouillet, Nemours, và Pithiviers, cho đến khi chạm trán với Tập đoàn quân Loire trong trận Beaune-la-Rolande ngày 28 tháng 11. Tại đây, ông giành thắng lợi vang dội và loại được khoảng 7.000 quân Pháp ra khỏi vòng chiến.
Vào ngày 3 tháng 12 năm 1870, quân của Friedrich Karl, phối hợp với đội quân của Đại Công tước xứ Mecklenburg, đánh tan quân Pháp ở Chevilly và Chilliers-aux-Bois và buộc địch phải rút vào Orléans. Quân Đức giành lại thành phố này vào ngày 5 tháng 11. Chiến thắng này đem lại cho Đức hơn 1 vạn tù binh và gần 80 khẩu đại bác. Sau đó, vị thân vương tiếp tục kéo quân đến Tours. Vào ngày 12 tháng 12, ông dời tổng hành dinh đến Beaugency, nơi Đại Công tước xứ Mecklenburg đã đánh thắng một đạo quân lớn của Pháp trong mấy ngày trước đó. Quân ông chiếm giữ Blois vào ngày 13 tháng 12 và Vendôme ngày 16 tháng 12. Đến thời điểm này, Tập đoàn quân Loire đã bị giảm xuống còn nửa quân số. Ngày 4 tháng 1 năm 1871, sau khi đã chuẩn bị chu đáo, Friedrich Karl phát động tấn công. Vào ngày 6 tháng 1, ông đánh vào một đạo quân Pháp đang tiến đến Vendôme, buộc địch phải chạy về Azay và Montoire. Trong hàng loạt cuộc giao chiến ác liệt diễn ra vào hôm sau, quân ông lần lượt đánh chiếm Nogent-le-Rotrou, Sarg, Savigny vã La Chartre, rồi vào ngày 8 tháng 1, quân Pháp thua chạy khỏi St. Calais và Bouloirc. Cuối cùng, Friedrich Karl đại phá Tập đoàn quân Loire trong trận Le Mans, làm chủ Le Mans vào ngày 12 tháng 1, đồng thời chiếm được các cứ điểm St. Comeille phía đông nam Le Mans. Một tác giả khác, Philipp Elliot-Wright, đánh giá Friedrich Karl là một nhà cầm quân tài năng dù hơi có phần thận trọng. Là một sĩ quan thông minh nhưng sự do dự của ông trong một số thời khắc của chiến dịch năm 1866 đã khiến cho các thành phần thuộc Tập đoàn quân số 1 của ông bị sơ hở.
Những năm cuối đời
Sau khi cuộc chiến tranh chấm dứt, Friedrich Karl lãnh chức Tướng thanh tra (Generalinspekteur) Bộ phận Thanh tra Quân đội III và Thanh tra Kỵ binh Phổ. Nga hoàng Aleksandr II đã phong cấp Nguyên soái Nga cho ông. Ông còn được nhận danh hiệu Trưởng Đại tá (Chef) của một số trung đoàn Phổ, Nga và Áo. Không những thế, ông được phong tặng Knight Grand Cross (Đại Thập tự Hiệp sĩ) danh dự của Huân chương Bath của Anh Quốc năm 1878.
Friedrich Karl đã đi nhiều chuyến du ngoạn ở phương Đông, lần cuối cùng là vào năm 1883 khi ông đến Ai Cập, Syria (Palmyra), Hy Lạp và Ý. Chuyến đi cuối cùng này đã được mô tả qua một tư liệu được đánh giá cao "Prinz Friedrich Karl im Morgenlande" (Berlin, 1884).
Ông từ trần ngày 15 tháng 6 năm 1885, và được mai táng trong hầm mộ cẩm thạch ở Nhà thờ Thánh Phêrô và Phaolô (Berlin-Wannsee).
Gia đình
Ngày 29 tháng 11 năm 1854, ông kết hôn với Công nương Maria Anna xứ Anhalt-Dessau (1837 – 1906), con gái của Leopold IV, Công tước xứ Anhalt. Họ có năm người con, bao gồm: