✨Trận chiến nước Pháp
Trận chiến nước Pháp (), còn được gọi là Chiến dịch phía Tây ('), Chiến dịch nước Pháp (, ) và Nước Pháp thất thủ''', là cuộc xâm lược của Đức nhằm vào Pháp, Bỉ, Luxembourg và Hà Lan trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Ngày 3 tháng 9 năm 1939, Pháp tuyên chiến với Đức, sau khi Đức xâm chiếm Ba Lan. Đầu tháng 9 năm 1939, Pháp bắt đầu Chiến dịch tấn công Saar và đến giữa tháng 10 thì rút lui. Quân đội Đức xâm lược Bỉ, Luxembourg và Hà Lan vào ngày 10 tháng 5 năm 1940. Ý tham chiến vào ngày 10 tháng 6 và âm mưu xâm lược Pháp. Pháp và các nước thuộc Vùng đất thấp đã bị chinh phục, kết thúc những hoạt động quân sự trên bộ ở Mặt trận phía Tây cho đến khi cuộc đổ bộ Normandy diễn ra vào ngày 6 tháng 6 năm 1944.
Trong Fall Gelb ("Kế Hoạch Vàng"), các đơn vị thiết giáp Đức thực hiện một cuộc tấn công bất ngờ qua Ardennes và sau đó dọc theo thung lũng Somme, cắt đứt và bao vây các đơn vị quân Đồng Minh đang tiến vào Bỉ để hội ngộ quân Đức ở đó. Các lực lượng Anh, Bỉ và Pháp đã bị quân Đức đẩy lùi ra biển, hải quân Anh và Pháp đã phải sơ tán những đơn vị bị bao vây của Lực lượng viễn chinh Anh (BEF), quân đội Pháp và Bỉ khỏi Dunkirk trong Chiến dịch Dynamo.
Quân đội Đức bắt đầu Fall Rot ("Kế Hoạch Đỏ") vào ngày 5 tháng 6 năm 1940. Sáu mươi sư đoàn còn lại của Pháp và hai sư đoàn của Anh đóng tại Pháp đã kiên quyết kháng cự nhằm giữ Somme và Aisne nhưng đã bị quân Đức đánh bại nhờ sự kết hợp giữa ưu thế trên không và cơ động bọc thép. Quân Đức tràn qua Phòng tuyến Maginot và tiến sâu vào lãnh thổ nước Pháp, chiếm đóng Paris vào ngày 14 tháng 6. Sau khi chính phủ Pháp tháo chạy và sự sụp đổ của Quân đội Pháp, các chỉ huy Đức đã gặp mặt nhiều quan chức Pháp vào ngày 18 tháng 6 nhằm thương lượng về việc chấm dứt những hành động thù địch.
Vào ngày 22 tháng 6 năm 1940, Hiệp định đình chiến lần thứ hai tại Compiègne giữa Pháp và Đức được ký kết. Chính phủ Vichy trung lập do Thống chế Philippe Pétain cầm đầu đã thay thế nền Đệ Tam Cộng hòa và quân đội Đức bắt đầu chiếm đóng các khu vực dọc theo Biển Bắc và các vùng ven biển Đại Tây Dương của Pháp cũng như những vùng nội địa của quốc gia này. Cuộc xâm lược của Ý nhằm vào Pháp trên dãy Alps đã chiếm được một vùng đất nhỏ và sau hiệp định đình chiến, Ý đã hoàn toàn chiếm đóng một khu vực nhỏ ở phía đông nam. Chế độ Vichy giữ lại zone libre (vùng tự do) ở phía nam. Sau khi Đồng Minh xâm chiếm Châu Phi thuộc Pháp vào tháng 11 năm 1942, người Đức và Ý đã giành quyền kiểm soát khu vực này cho đến khi nó được Đồng Minh giải phóng năm 1944.
Bối cảnh trước trận đánh
thumb|Lính phòng không Pháp trong thời gian "chiến tranh kỳ quặc"
Sau cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất, Pháp và Đức giữ nguyên mối thù Pháp-Đức. Nhưng vào năm 1933, Adolf Hitler lên nắm quyền, cục diện bắt đầu thay đổi.
Ngày 1 tháng 9 năm 1939, Quân đội Đức Quốc xã tấn công Ba Lan. Hai ngày sau đó, ngày 3 tháng 9 năm 1939, Anh và Pháp tuyên chiến với Đức. Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ.
Phản ứng của Anh và Pháp nằm ngoài dự tính của Hitler, vì ông cho rằng các cường quốc này sẽ lại tiếp tục thụ động như trong các cuộc thôn tính trước đó của Đức. Ngày 6 tháng 10, trong bài phát biểu tại Tòa nhà Quốc hội Đức, Hitler gửi lời kêu gọi hoà bình đến Anh và Pháp trong đó tuyên bố "Đức không đòi hỏi gì thêm từ Pháp". Ngày 10 tháng 10 năm 1939, nước Anh từ chối đề nghị của Hitler; ngày 12 tháng 10 Pháp cũng tuyên bố tương tự.
Tuy nhiên, ngoài lời nói, không bên nào có hoạt động quân sự đáng kể chống lại nhau. Trong giai đoạn cuộc chiến tranh kỳ quặc đó, Đức Quốc xã hoàn thành cuộc chinh phục Ba Lan, gia tăng đáng kể tiềm lực quân sự và phát triển kế hoạch tấn công Pháp, Riêng ở Pháp, nền chính trị bị chia rẽ sâu sắc và sự mệt mỏi với viễn cảnh chiến tranh gia tăng. Bất chấp nỗ lực tuyên truyền chống lại "sự suy thoái đạo đức và thiếu nhiệt tình chiến tranh", chính phủ Pháp vẫn không ngăn được tâm lý chiến bại và tình trạng vô kỷ luật lan tràn, cũng như xu hướng thân thiện với kẻ thù trong nội bộ quốc gia.
Chiến lược của Đức
Nước Pháp trong chiến lược của Hitler
Ngay từ năm 1922, Hitler đã nhắm tới mục tiêu lâu dài của chiến tranh là bành trướng về phía Đông, chinh phục nước Nga để mở rộng không gian sinh tồn cho người Đức, cùng với "sự hủy diệt sức mạnh Do Thái" vốn được xem là nền tảng của nó, với hy vọng nhận được sự hỗ trợ từ phía nước Anh. Trong cuốn sách Mein Kampf, Hitler đã chỉ ra tiền đề cho cuộc chinh phục này là phải thôn tính xong nước Pháp nhằm tránh một cuộc chiến tranh cùng lúc trên hai mặt trận.
Từ những biểu hiện nhu nhược của các cường quốc phương Tây, Hitler cho rằng trừ khi bị tấn công, các nước này sẽ vẫn trốn tránh đối đầu quân sự với nước Đức. Phản ứng từ chối đề nghị hòa bình của Đồng Minh đã khiến Hitler quyết định tận dụng chiến thắng chớp nhoáng đối với Ba Lan để "đánh bại Pháp và [...] buộc nước Anh thừa nhận sự yếu thế và tìm cách thỏa hiệp". Một khi đã "buộc Phương Tây quỳ gối", Đức có thể quay lại chống "Chủ nghĩa Bolshevik Do Thái" và chinh phục nước Nga để đảm bảo tương lai lâu dài của Đế chế thứ ba, nhờ vào các nguồn tài nguyên phong phú tại những vùng lãnh thổ phía Đông. Dù Hitler luôn mơ tưởng về một chiến dịch quân sự lớn nhằm đánh bại hoàn toàn các quốc gia Tây Âu, thế nhưng ý tưởng này lại vắng bóng trong bản chỉ thị Führer số 6. Bản kế hoạch này dựa trên những biểu hiện thực tế rằng sức mạnh quân sự của Đức vẫn cần phải được tiếp tục xây dựng trong nhiều năm nữa và trong thời điểm hiện tại chỉ có thể nhắm đến những mục tiêu hạn chế, nhằm hỗ trợ tăng cường tiềm lực phục vụ cho một cuộc chiến tranh quy mô lớn và lâu dài ở phía Tây. Theo đó, Hitler ra lệnh Vùng Đất Thấp phải được chiếm trong thời hạn ngắn nhất có thể để ngăn Pháp chiếm đóng các quốc gia này và đe doạ vùng Ruhr – khu vực quan trọng sống còn của Đức, đồng thời đem lại cho Đức các căn cứ quân sự phục vụ cho một chiến dịch lâu dài ở trên biển và trên không chống lại nước Anh. Chỉ thị Führer số 6 không đề cập đến một cuộc tấn công kế tiếp ngay sau đó nhằm chinh phục toàn bộ nước Pháp, mặc dù rất có khả năng các vùng biên giới ở bắc Pháp sẽ bị chiếm đóng.
Ngày 27 tháng 9 năm 1939, Hitler công bố dự định ngay sau khi chiến dịch Ba Lan kết thúc sẽ bắt đầu tấn công các cường quốc phương Tây, cụ thể là vào ngày 25 tháng 10 (dù có chấp nhận rằng ngày tháng đó có thể là thiếu thực tế). Đến ngày 5 tháng 11, Hitler lại đề xuất sẽ tấn công vào 12 tháng 11 với Tổng Tư lệnh Lục quân Walther von Brauchitsch. Viên tướng này trả lời rằng quân đội vẫn chưa phục hồi sau chiến dịch Ba Lan, các đơn vị cơ giới cần phải được phục hồi sửa chữa trong vòng 3 tháng nhằm khắc phục những tổn thất trong chiến dịch Ba Lan; còn các kho đạn dược thì đang bị cạn kiệt trầm trọng. Von Brauchitsch xin được từ chức nếu Quốc Trưởng không thay đổi ý định, Hitler đã bác bỏ nhưng hai ngày sau cũng đã cho hoãn tấn công, với lý do chính thức được đưa ra là thời tiết xấu.
Các tướng lĩnh Đức khác cũng không đặt cuộc chiến ở phía Tây ngang hàng với chiến dịch tại Ba Lan, họ lo sợ sức mạnh phòng thủ của Pháp, với một đội quân khổng lồ và phòng tuyến Maginot cùng với khối liên minh với Anh và các thuộc địa của nó, họ tin rằng các lực lượng vũ trang Đức hiện không sẵn sàng cho một cuộc xung đột mà trong mắt họ, chỉ có thể thất bại. Hitler, lúc đầu tức giận trước sự do dự của các tướng lĩnh, nhưng cuối cùng đã phải nhượng bộ trước lý lẽ của họ về tình trạng thời tiết xấu (mùa thu 1939) và các vấn đề giao thông vận tải, Tổng cộng Hitler đã chấp nhận trì hoãn thời điểm bắt đầu của cuộc tấn công đến 29 lần. Kế hoạch này dự tính huy động 102 sư đoàn, trong đó có 9 sư đoàn thiết giáp và 6 sư đoàn cơ giới tấn công vỗ mặt trên chính diện rộng từ Hà Lan đến Bỉ.
Kế hoạch của Halder thường được so sánh với kế hoạch Schlieffen, được người Đức triển khai năm 1914 trong Chiến tranh thế giới thứ nhất. Điểm tương tự giữa hai kế hoạch này là đề xuất một cuộc tiến công qua trung tâm nước Bỉ, nhưng trong khi mục đích của kế hoạch Schlieffen là đạt đến một thắng lợi quyết định bằng cách phát triển vòng theo bờ Đại Tây Dương rồi bất ngờ ngoặt về phía Đông để tiến hành một cuộc bao vây khổng lồ toàn bộ quân chủ lực Pháp, thì Bản Chỉ dẫn Triển khai số 1 lại dựa trên cơ sở một cuộc tấn công vỗ mặt thiếu sáng tạo ở miền Trung nước Bỉ, dự kiến hi sinh nửa triệu lính Đức để đạt mục tiêu hạn chế là đẩy quân Đồng Minh lui về sông Somme và chiếm lấy bờ biển Flanders. Sau đó sức mạnh của quân Đức sẽ cạn kiệt trong năm 1940; chỉ đến năm 1942 mới có thể bắt đầu cuộc tấn công chính vào nước Pháp. Câu hỏi về những hoạt động sau đó của quân đội Đức để đến được bờ biển Manche vẫn chưa được giải quyết. Có ý kiến cho rằng Halder vào lúc này đang chống đối lại Hitler nên đã cố tình đề ra kế hoạch bi quan hết mức có thể nhằm làm Hitler tiêu tan hi vọng về một cuộc tấn công toàn diện.
Thời gian quá dài của bản kế hoạch làm Hitler rất thất vọng. Ông phản ứng lại bằng cách quyết định rằng quân Đức phải tấn công sớm hơn, bất kể đã sẵn sàng hay chưa, với hy vọng việc quân Đồng Minh không có chuẩn bị sẽ có thể đem lại chiến thắng dễ dàng. Mệnh lệnh này đã kéo theo một chuỗi những lần trì hoãn về thời gian, khi các tướng lĩnh thuyết phục Hitler gia hạn cuộc tấn công thêm vài ngày hay vài tuần nhằm khắc phục một số khuyết điểm nghiêm trọng trong khâu chuẩn bị, hay để đợi điều kiện thời tiết tốt hơn. Hitler còn cố gắng sửa đổi kế hoạch mà không có sự am hiểu tường tận về quân sự. Kết quả là dẫn đến một kế hoạch làm phân tán lực lượng Đức, khi mà ngoài hướng tấn công chính là ở trung tâm nước Bỉ, còn có cuộc tấn công phụ dự kiến sẽ diễn ra ở xa hơn về phía nam (Hitler đưa ra đề xuất đó vào ngày 11 tháng 11 năm 1939).
Ngày 29 tháng 10, Halder đưa ra một kế hoạch hành động thứ hai, "Bản Chỉ dẫn Triển khai số 2, Kế hoạch Vàng" (Aufmarschanweisung N°2, Fall Gelb) có khác biệt ở chỗ mũi chủ công trực diện được thay bằng 2 mũi thọc sâu thiết giáp đi qua Bắc và Nam Liége để bao vây một phần lớn chủ lực Đồng Minh ở trung tâm nước Bỉ, đồng thời cắt bỏ mũi tấn công phụ tại Hà Lan để tập trung quân cho hướng này. Theo kế hoạch mới này, mũi chủ công là Cụm Tập đoàn quân B của tướng von Bock đóng ở phía bắc mặt trận sẽ đi qua Bỉ rồi vòng lại thọc vào sườn trái các đơn vị Pháp-Bỉ-Anh, sau đó vòng lại đánh bại các lực lượng đối phương tại vùng Lorraine; rồi trong bước thứ hai, dự định bao vây lực lượng còn lại của Đồng Minh bằng cách cho Cụm Tập đoàn quân B từ phía tây đánh dồn họ về phía Cụm Tập đoàn quân A của tướng von Rundstedt - nằm giữa Cụm Tập đoàn quân B và Cụm Tập đoàn quân C ở phía nam mặt trận đối diện vùng Alsace - như một cái đe, tạo thành 2 gọng kềm bóp nát quân chủ lực Đồng Minh. Đây chính là phương án tấn công mà phe Đồng Minh đã dự đoán, và cũng là phương án tấn công rơi vào tay Đồng Minh sau khi một sĩ quan Đức bị hỏng máy bay phải hạ cánh ở Mechelen Bỉ vào ngày 10 tháng 1 năm 1940.
Ngày 10 tháng 1 năm 1940, một chiếc máy bay Messerschmitt Bf 108 của Đức đã gặp sự cố và bắt buộc phải hạ cánh tại Maasmechelen, phía bắc Maastricht thuộc Bỉ ("sự cố Mechelen"). Trong phi hành đoàn của chiếc máy bay có một thiếu tá không quân Đức, Hellmuth Reinberger, người có mang theo bản sao của Bản Chỉ dẫn Triển khai số 2. Reinberger đã không kịp huỷ các tài liệu, và chúng đã nhanh chóng rơi vào tay các nhân viên tình báo Bỉ. Sau này tướng Wilhelm Keitel đã xác nhận tại tòa án Nuremberg rằng ông ta chưa bao giờ thấy Hitler giận dữ đến thế sau khi nghe tin về việc để lộ tài liệu. Sự cố này thường được cho là nguyên nhân dẫn đến sự thay đổi toàn diện kế hoạch của Đức, nhưng thực ra không phải như vậy. Trên thực tế, bản chỉnh sửa kế hoạch sau đó vào ngày 30 tháng 1, "Bản Chỉ dẫn Triển khai số 3" (Aufmarschanweisung N°3, Fall Gelb) vẫn tương tự những phiên bản trước đó.
Kế hoạch Manstein
Tiến triển của Fall Gelb từ 9/1939 đến 2/1940.
Hitler không phải là người duy nhất phản đối kế hoạch Halder. Tướng Gerd von Rundstedt, tư lệnh Cụm Tập đoàn quân A, cũng không tán thành nó. Tuy nhiên không giống Hitler, một người lính lão luyện như von Rundstedt, hiểu được tường tận cách sửa đổi kế hoạch thế nào cho hợp lý. Ông nhận định rằng thiếu sót chủ yếu của nó là không thích hợp với những nguyên tắc của Bewegungskrieg ("chiến tranh cơ động") cũng như đi chệch chiến lược Trận đánh hủy diệt (Vernichtungsgedanke), vốn đã trở thành kim chỉ nam kinh điển của quân sự Đức từ thế kỷ 19. Cần phải tiến hành một cuộc đột phá tạo điều kiện bao vây và tiêu diệt quân chủ lực Đồng Minh. Địa điểm thích hợp nhất để thực hiện điều này là vùng Sedan, thuộc khu vực mà Cụm Tập đoàn quân A của von Rundstedt phụ trách. Ngày 21 tháng 10, von Rundstedt tán thành với tham mưu trưởng của mình, tướng Erich von Manstein là cần phải soạn thảo một kế hoạch thay thế phản ánh được những ý tưởng cơ bản đó, giúp cho Cụm Tập đoàn quân A có được sức mạnh lớn nhất có thể bằng cách điều bớt các lực lượng từ Cụm Tập đoàn quân B ở phía bắc tới.
Trong khi von Manstein đang xây dựng kế hoạch mới ở Koblenz, thì trung tướng Heinz Guderian, tư lệnh Quân đoàn 19, chuyên gia về lực lượng thiết giáp của Đức cũng đang ngụ tại khách sạn gần đó, và Manstein đã cho mời Guderian tham gia thảo luận kế hoạch (một cách không chính thức). Tại thời điểm này trọng tâm của kế hoạch Manstein là một cuộc hành quân từ Sedan lên phía bắc, tiến ra sau lưng chủ lực của quân Đồng Minh, rồi trực tiếp tấn công vào sau lưng đối phương tại Bỉ. Điểm đột phá được chọn là đoạn Sedan - Dinant, nơi có khả năng gây bất ngờ vì có 2 cản ngại tự nhiên cho hoạt động của xe tăng là rừng rậm Ardennes và sông Meuse, nơi mà Bộ tư lệnh Đồng Minh xem là hầu như không thể vượt qua được đối với lực lượng thiết giáp hiện đại. Guderian đã đề xuất một ý kiến có tính mới lạ và tiến bộ hơn: Những ý tưởng hoạt động của von Manstein đã ngay lập tức nhận được sự ủng hộ của Guderian, người rất thông thạo địa hình khu vực và có kinh nghiệm với lục quân Đức trong những năm 1914 và 1918.
Von Manstein viết bản đề xuất đại cương đầu tiên về kế hoạch của mình vào ngày 31 tháng 10. Trong đó ông đã cẩn thận tránh đề cập đến tên Guderian và giảm nhẹ vai trò chiến lược của các đơn vị thiết giáp nhằm tránh những ý kiến phản đối không cần thiết. Sáu bản đề xuất nữa sau đó, lần lượt vào các ngày 6, 21, 30 tháng 11; ngày 6, 18 tháng 12 năm 1939; và 12 tháng 1 năm 1940, từ từ được xây dựng hoàn thiện hơn về tổng thể. Thế nhưng tất cả đều bị OKH bác bỏ và không nội dung nào trong đó đến được với Hitler. do địa hình vùng Ardennes không phù hợp cho xe tăng. Ngày 27 tháng 1, nhằm thủ tiêu ảnh hưởng của Manstein, Halder đã gây tác động khiến ông bị thuyên chuyển từ chức vụ tham mưu trưởng Cụm Tập đoàn quân A sang làm chỉ huy một quân đoàn ở Phổ, bắt đầu nhiệm vụ mới ở Stettin ngày 9 tháng 2.
Bất bình trước việc thuyên chuyển này, Ban tham mưu của Manstein đã phản ánh và gây được sự chú ý của Hitler, ông bắt đầu biết được thông tin về kế hoạch Manstein vào ngày 2 tháng 2 năm 1940. Trước khi biết về bản kế hoạch này, Hitler cũng từng đề xuất một đòn tấn công tại Sedan, nhưng sau đó đã từ bỏ vì bị thuyết phục là nó quá mạo hiểm. Ngày 17 tháng 2, tại Berlin, Hitler triệu tập Manstein, Rudolf Schmundt (Tham mưu trưởng quân nhân sự Lục quân Đức) và Alfred Jodl (Tham mưu trưởng quân của Bộ Tư lệnh Tối cao Các Lực lượng Vũ trang Đức) đến để bàn bạc. Hitler chỉ ngồi và lắng nghe, không giống như thói quen của ông là hay ngắt lời và chuyển sang độc thoại. Hitler đã rất có ấn tượng, và cuối cùng hoàn toàn đồng ý với đề nghị của Manstein. Ngày hôm sau, ông ta đã ra lệnh sửa đổi kế hoạch cho phù hợp với ý kiến của Manstein. Hitler chỉ nhìn nhận cuộc đột phá ở Sedan về phương diện chiến thuật, trong khi Manstein xem nó như là một phương cách để đi đến kết thúc. Ông đã dự tính một cuộc tiến quân ra eo biển Manche và bao vây các lực lượng Đồng Minh tại Bỉ, mà nếu được tiến hành chính xác, có thể mang lại một kết quả chiến lược có lợi.
Kế hoạch sửa đổi
Người thực hiện việc sửa đổi kế hoạch lại là Franz Halder — von Manstein không còn đóng vai trò gì hơn nữa trong việc này. Halder tán thành việc chuyển mục tiêu trọng tâm xuống phía nam. Kế hoạch này, giữ lại các lại ý tưởng chính có ưu điểm nổi trội của tướng Manstein, là sẽ tiến hành đòn tấn công chính tại địa điểm bất ngờ nhất thumb|trái|[[Franz Halder]] Tuy nhiên, Halder không có ý định đi chệch ra khỏi học thuyết quân sự truyền thống nên đã không cho phép thực hiện cuộc đột nhập chiến lược độc lập với 7 sư đoàn thiết giáp của tập đoàn quân A. Yếu tố này đầu tiên bị bác bỏ hoàn toàn trong kế hoạch mới. Thế nhưng Halder đã có một "thay đổi quan niệm đáng kinh ngạc", và sự phản đối này đã bác bỏ. Phần lớn các sĩ quan Đức kinh ngạc trước sự thay đổi này và gọi ông ta là "kẻ đào huyệt cho lực lượng thiết giáp". Halder đã bị chỉ trích bằng đúng cái cách mà ông ta đã bác bỏ kế hoạch do von Manstein đề xuất đầu tiên.
Halder lập luận rằng, vì vị trí chiến lược của Đức quá vô vọng nên cơ may giành chiến thắng quyết định dù nhỏ bé vẫn tốt hơn ngồi yên chịu thất bại. Bản kế hoạch còn ngụ ý rằng rất có khả năng quân Đồng Minh sẽ rút về phía nam. Halder nhấn mạnh nếu điều đó xảy ra, chiến thắng của Đức sẽ càng ít tốn kém hơn, đồng thời là một đòn nặng giáng vào danh tiếng của phe Đồng Minh khi họ bỏ rơi các quốc gia Vùng Đất Thấp. Hơn nữa như vậy sức mạnh tấn công của Đức sẽ không bị sứt mẻ gì, dẫn đến khả năng thực tế có thể tiến hành Fall Rot, cuộc tấn công chính vào nước Pháp ngay sau đó. Tuy nhiên, hành động quyết định này cần phải đợi cho đến khi hoàn thành thắng lợi Fall Gelb. Trong thực tế Đức chỉ lên kế hoạch tỉ mỉ cho chiến dịch trong vòng 9 ngày đầu tiên; chứ hoàn toàn không có thời gian biểu cụ thể cho cuộc tiến quân ra eo biển. Phần còn lại sẽ được bàn bạc và quyết định bởi các tướng lĩnh trên chiến trường. Sự linh động này đã có hiệu quả rất lớn theo dòng diễn biến các sự kiện sau này, và là điểm để các tướng chỉ huy thiết giáp tận dụng triển khai phương án của Manstein trong thực tế.
Tháng 4 năm 1940, vì những lý do chiến lược, Đức đã ưu tiên thực hiện chiến dịch Weserübung tấn công các nước trung lập Đan Mạch và Na Uy tại Scandinavia. Khi chiến dịch Na Uy sắp đến hồi kết thúc, bộ phận chủ lực quân đội Đức đã tập trung ở phía Tây và sẵn sàng tiến hành chiến dịch tấn công Pháp.
Chiến lược của Đồng Minh
Vùng Đất Thấp đối với Đồng Minh
Các tướng lĩnh Đồng Minh cho rằng do Pháp được che chở bởi phòng tuyến Maginot từ phía đông, cho nên hướng tấn công chính của Đức hầu như chắc chắn sẽ đi qua lãnh thổ Bỉ và Hà Lan. Tháng 9 năm 1939, Bỉ và Hà Lan vẫn là những nước trung lập. Họ cố gắng đứng ngoài cuộc chiến càng lâu càng tốt bằng cách dựa vào chính sách trung lập tuyệt đối. Người Bỉ đã cho chấm dứt hiệp ước Pháp-Bỉ 1920 vào năm 1936. Quốc gia này không cho người Pháp thanh tra hệ thống phòng thủ của mình cho đến tháng 3 năm 1940, khi một lữ đoàn trưởng Pháp đơn lẻ mặc thường phục được phép đi ô tô xem xét và chứng kiến tình trạng yếu kém của họ. Tuy vẫn bí mật thương lượng với phe Đồng Minh cho một sự hợp tác trong tương lai phòng khi người Đức xâm chiếm lãnh thổ của mình, nhưng Hà Lan và Bỉ vẫn không công khai chuẩn bị cho cuộc chiến. Tổng tư lệnh tối cao quân đội Pháp, Maurice Gamelin, vào tháng 9 năm 1939 có đề nghị quân Đồng Minh nên tận dụng cơ hội Đức đang vướng chân ở Ba Lan mà tiến vào chiếm giữ Vùng Đất Thấp trước, nhằm dọn đường cho cuộc tấn công Đức sau này. Tuy nhiên đề nghị này không được chính phủ Pháp hưởng ứng.
Các lý do chiến lược đã dẫn đến quyết định của Đồng Minh là sẽ tiến quân và giao chiến trên lãnh thổ Bỉ khi cuộc tấn công của Đức nổ ra. Chính phủ Anh cần đảm bảo bãi biển Flanders phải nằm trong quyền kiểm soát của Đồng Minh để nó không trở thành căn cứ không quân-hải quân Đức, gây đe dọa cho uy thế về hải quân của Anh. Người Pháp thì xác định rõ rằng Bỉ là một vùng đệm chiến lược để ngăn chặn cuộc tấn công của Đức từ xa về phía đông, nhằm giữ cho giao tranh nằm bên ngoài lãnh thổ Pháp, và cũng là để tạo bàn đạp tấn công Đức về sau.
Những hoạt động ban đầu
thumb|[[Phòng tuyến Maginot của Pháp]]
Sau khi Đức tấn công Ba Lan, ngày 7 tháng 9 năm 1939, người Pháp đã bắt đầu cuộc tấn công Saar và cho binh lính vượt qua phòng tuyến Maginot tiến sâu 5 km vào vùng Saar. Cuộc tấn công chỉ được tiến hành một cách hình thức để thể hiện tinh thần của Liên Minh Pháp-Ba Lan (1921) theo những cam kết trước chiến tranh với Ba Lan về việc mở một cuộc tấn công cứu viện ở phía tây. Pháp đã huy động 40 sư đoàn và 2.500 xe tăng chống lại các lực lượng phòng giữ biên giới Tây Đức bao gồm 22 sư đoàn chất lượng kém, không có quân thiết giáp, đạn được chỉ đủ cho ba ngày giao tranh. Họ tiến quân cho đến khi gặp phòng tuyến Siegfried mỏng manh và được bố phòng yếu ớt. Theo đánh giá của Wilhelm Keitel, sau này là người đứng đầu Bộ tư lệnh tối cao các lực lượng vũ trang Đức (OKW), quân đội Pháp lúc đó hoàn toàn có khả năng dễ dàng chọc thủng phòng tuyến yếu kém này và thâm nhập sâu hơn nhiều vào trận tuyến của Đức, nhưng họ lại muốn một cuộc chiến phòng ngự nên ngày 17 tháng 9, Gamelin đã ra lệnh rút quân về các vị trí xuất phát, lực lượng quân Pháp cuối cùng rời khỏi Đức vào ngày 17 tháng 10.
Sau tháng 10, Đồng Minh đã quyết định sẽ không mở màn cuộc chiến trong năm 1940, cho dù nhiều bộ phận chủ chốt của quân đội Pháp từ những năm 1930 đã được huấn luyện chuẩn bị cho công tác tấn công. Đồng Minh tin tưởng rằng cho dù không có một mặt trận ở phía đông châu Âu, chính phủ Đức cũng sẽ bị mất ổn định bởi một cuộc phong toả như trong chiến tranh thế giới thứ nhất. Trong trường hợp chế độ Quốc xã không sụp đổ - khả năng này rất có thể xảy ra - trong năm 1940 một chương trình hiện đại hoá và mở rộng quy mô lớn cho các lực lượng Đồng Minh sẽ được thực hiện, tận dụng các ưu thế hiện tại vượt trội hơn hẳn Đức trong sản xuất quân sự để xây dựng lực lượng một cơ giới áp đảo, với khoảng 2 chục sư đoàn thiết giáp, rồi sẽ tiến hành một cuộc tấn công quyết định vào nước Đức trong mùa hè năm 1941.
Rõ ràng là Đức có thể tấn công trước, và một chiến lược phải được chuẩn bị cho tình huống đó. Cả Pháp lẫn Anh đều không lường trước được thất bại nhanh chóng của Ba Lan, và chiến thắng chóng vánh của Đức đã làm họ hoang mang. Hầu hết tướng lĩnh Pháp đều tán thành đường lối thận trọng. Họ tính toán rằng có ba khả năng lựa chọn cho cuộc tấn công của Đức: một là qua Thụy Sĩ, hai là qua đường biên giới với Pháp và ba là qua lãnh thổ Bỉ và Hà Lan, trong đó khả năng thứ ba là cao nhất. Một số tướng lĩnh cho rằng hướng tấn công chính của Đức có thể đi qua chính diện Meuse - Moselle, nên đề xuất giữ một lực lượng lớn làm dự bị tại khu vực trung tâm, phía bắc Paris để sẵn sàng điều chuyển đối phó với mọi tình huống. Nếu thực sự người Đức tiến hành một cuộc hành quân qua vùng Flanders, họ sẽ bị sa lầy ở miền bắc nước Pháp, khi mà bộ binh của họ bị kiệt sức và cạn kiệt nguồn tiếp tế. Nếu họ cố gắng tấn công mặt trận trung tâm của Đồng Minh, những lực lượng dự bị này sẽ được bố trí hợp lý để ngăn chặn. Nếu Đức tiến quân qua Thuỵ Sĩ, lực lượng dự bị lớn này sẽ sẵn sàng để giáng cho họ một đòn bất ngờ.
Kế hoạch Dyle - Breda
nhỏ|phải|Bản đồ kế hoạch Dyle-Breda. Tổng tư lệnh tối cao quân đội Pháp, Maurice Gamelin, đã bác bỏ lối suy nghĩ này với nhiều lý do khác nhau. Trước tiên là về mặt chính trị, không thể có việc bỏ mặc các nước Vùng Đất Thấp với số phận của họ, cho dù đó có thể là một quan điểm hành động khôn ngoan, và chắc chắn là chính phủ Anh nhất quyết đòi bờ biển Flanders phải nằm dưới sự kiểm soát của Đồng Minh. Thứ hai là cuộc tấn công năm 1941 sẽ không thể kết thúc cuộc chiến nếu bắt đầu bằng việc tấn công các lực lượng Đức cố thủ ở trung tâm nước Bỉ từ miền bắc Pháp. Cuộc tấn công của Đức cần phải bị chặn lại càng xa về phía đông càng tốt. Cuối cùng và cũng là lý do thuyết phục nhất đối với Gamelin là ông ta không cho rằng quân đội Pháp có thể chiến thắng bằng vận động chiến với quân đội Đức trên chiến trường tác chiến rộng lớn của nước Pháp. Nước Bỉ sẽ đem lại một mặt trận hẹp hơn nhiều để có thể ngăn chặn quân Đức. Các sư đoàn bộ binh Pháp vẫn chưa được cơ giới hoá cẩn thận. Những sự kiện ở Ba Lan đã củng cố quan điểm của ông. Cần phải tránh đương đầu bằng mọi giá, và Gamelin đi đến kết luận rằng việc tiến quân đến sông Dyle và chuẩn bị tại đó một trận tuyến hầm hào sẽ cứu được phần lớn những vùng công nghiệp của Bỉ khỏi rơi vào tay người Đức. Những đơn vị tinh nhuệ nhất của Pháp sẽ theo Lực lượng Viễn chinh Anh lên phía bắc chặn quân Đức tại tuyến KW (Koningshooikt-Wavre), được các nước Đồng Minh gọi là tuyến Dyle-Breda, là tuyến phòng ngự dọc theo sông Dyle, phía đông nước Bỉ, trên một mặt trận liên kết chặt chẽ sít sao quân đội 3 nước Anh, Bỉ và Pháp.
Gamelin không quyết đoán trong việc xác định ý đồ của mình. Lúc đầu, vào tháng 10 năm 1939, ông ta đề xuất phiên bản kế hoạch E (viết tắt của từ "Escaut" - tên tiếng Pháp của sông Scheldt ở Flanders) với chủ định chỉ bảo vệ bờ biển Flanders. Nó sẽ bao gồm một cuộc tiến quân của người Pháp vào lãnh thổ Hà Lan. Các Tập đoàn quân số 9 và số 1 hùng mạnh của Pháp sẽ phòng giữ trận tuyến tại Bỉ, từ Wavre đến Givet. Tập đoàn quân số 7 Pháp sẽ phòng thủ trên sông Scheldt và liên kết với các lực lượng Hà Lan. Còn quân đội Bỉ trấn giữ tuyến Ghent-Antwerp. Họ sẽ được tăng viện bằng lực lượng quân đội Anh tại khu vực gần Brussels.
Kế hoạch này bị chỉ trích vì nó bỏ mặc Hà Lan và phần bắc nước Bỉ cho quân Đức, đồng thời không liên kết được các lực lượng Bỉ tập trung ở phía bắc theo thỏa thuận riêng giữa Bỉ với Đồng Minh, hơn nữa phòng tuyến vừa dài lại có một khúc lồi rất lớn quay về phía đối phương, gây khó khăn cho việc phòng thủ. Và Gamelin đã phải trình bày đề xuất tiếp theo của mình, kế hoạch D (mật danh của Kế hoạch Dyle) vào tháng 11 năm 1939, theo quan điểm có ý nghĩa hơn kế hoạch E là cho dời phòng tuyến đến dọc theo sông Dyle ngắn hơn, đồng thời đưa 1 Tập đoàn quân qua Antwerp tới Breda, Hà Lan - và nhận được sự đồng ý của Anh. Chỉ còn lại khu trung tâm, nhưng hầu hết khu vực này đã được che chở bởi sông Meuse uốn khúc trên địa hình gập ghềnh của vùng Ardennes. Xe tăng sẽ không thể đánh bại được các vị trí kiên cố bên bờ sông. Tuy nhiên, tại Namur, sông Meuse đột ngột rẽ về phía Đông tạo thành một khoảng trống nằm giữa nó với sông Dyle. Đó là "khe hở Gembloux", một địa điểm lý tưởng cho chiến tranh cơ giới, một ví trí xung yếu hết sức nguy hiểm. Gamelin quyết định tập trung một nửa lực lượng thiết giáp dự bị tại đây, vì ông ta tin chắc rằng mũi tấn công chính của Đức sẽ đi vùng đồng bằng Bỉ-Hà Lan. Gamelin đã không nghiên cứu đến trường hợp quân Đức đột phá ở phía nam, và thế là đã không hề có sự chuẩn bị nào cho việc triệt thoái các lực lượng Đồng Minh ra khỏi nước Bỉ.
Gamelin vẫn tiếp tục kế hoạch của mình bất chấp những lời chỉ trích lặp đi lặp lại từ phía cấp dưới. Trong đó, Gaston Billotte (tổng tư lệnh Cụm Tập đoàn quân số 1) và Alphonse Joseph Georges (tổng tư lệnh mặt trận Đông Bắc Pháp, bao gồm cả Cụm Tập đoàn quân số 1 và số 2) là phản đối kịch liệt nhất. Georges đã chỉ ra một vấn đề quyết định. Ông cho rằng Gamelin đã quá chắc chắn về kế hoạch mà Đức sẽ áp dụng, cũng như về diễn biến chính của cuộc chiến sẽ diễn ra ở Hà Lan và Bỉ. Ông chỉ ra rằng dường như Gamelin đang tự để mình bị lôi kéo vào Vùng Đất Thấp. Georges thậm chí còn giả thiết rằng cuộc tấn công ở Bỉ có thể chỉ là nghi binh. Trong trường hợp đó, nếu các lực lượng chủ lực đã bị điều đến Bỉ và "đòn tấn công chính của đối phương đánh vào trung tâm của chúng ta, trên mặt trận nằm giữa Meuse và Moselle, chúng ta có thể bị tước đoạt những phương tiện cần thiết để đẩy lùi nó".
Trong những tháng đầu năm 1940 quy mô và tính sẵn sàng của quân đội Pháp tiến triển đều đặn, và Gamelin bắt đầu cảm thấy đủ tự tin để đề xuất một chiến lược nhiều tham vọng hơn. Ông ta không có ý định tấn công trực diện vào khu vực được củng cố vững chắc của Đức, phòng tuyến Bức tường Tây (tuyến Siegfried) trong năm 1941, thay vào đó là kế hoạch đánh bọc sườn từ phía bắc, mà 4 năm sau đó Bernard Montgomery đã dự định tiến hành trong chiến dịch Market Garden. Để đạt được mục đích này, lý tưởng nhất là có một bàn đạp trên bờ bắc sông Rhine. Lúc này người Hà Lan đã thiết lập 3 tuyến phòng thủ: tuyến đầu tiên dọc theo các con sông IJssel và Meuse, thứ hai là tuyến Grebbe và vùng đầm lầy Peel ở phía nam và cuối cùng là chiến khu quốc gia "pháo đài Holland" - với những vùng ngập nước bao quanh khu vực các thành phố chính là Rotterdam, Amsterdam, Utrecht, Den Haag. Vậy nên Gamelin đã thay đổi mục tiêu của kế hoạch là quân đội Pháp cần phải duy trì mối liên hệ từ phía bắc Antwerp với khu "pháo đài Holland" này. Ông giao nhiệm vụ này cho lực lượng dự bị chiến lược duy nhất của mình, Tập đoàn quân số 7, sẽ tiến vào trung tâm Hà Lan để hỗ trợ quân đội nước này đồng thời đe dọa vùng Ruhr, một khu công nghiệp lớn của Đức. Lực lượng dự bị duy nhất này bao gồm toàn các sư đoàn riêng lẻ. Lại có thêm nhiều phản đối về "kế hoạch Dyle-Breda" này trong nội bộ quân đội Pháp, nhưng Gamelin lại nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ từ phía chính phủ Anh, vì Hà Lan rất thích hợp làm một căn cứ lý tưởng để người Đức mở một chiến dịch bằng không quân vào Anh quốc.
Việc phát triển chiến lược của phe Đồng Minh đã hoàn toàn do người Pháp đảm nhiệm. Người Anh, chấp nhận là đối tác yếu hơn trong liên minh, đã tán thành đề xuất của Pháp.
Tình báo Đồng Minh
Trong mùa đông 1939-1940, tổng lãnh sự Bỉ tại Cologne đã bắt đầu đoán biết được tiến triển kế hoạch mà Von Manstein đang xây dựng. Họ suy ra, dựa vào các tin tình báo, rằng quân đội Đức đang tập trung dọc theo biên giới Bỉ và Luxembourg. Người Bỉ tin chắc rằng quân Đức sẽ đột phá qua dãy Ardennes và hướng đến eo biển Manche không ngoài mục đích cắt đôi chiến tuyến quân Đồng Minh tại Bỉ và đông bắc Pháp. Họ còn dự đoán rằng người Đức sẽ cố gắng đổ bộ các lực lượng không vận và tàu lượn xuống phía sau chiến tuyến Đồng Minh để phá vỡ hệ thống công sự của Bỉ. Nhưng những lời cảnh báo đã không được người Pháp hay người Anh lưu tâm để ý tới.
Tháng 3 năm 1940, tình báo Thụy Sĩ đã phát hiện được 6 đến 7 sư đoàn Panzer trên biên giới Đức-Luxembourg-Bỉ. Thêm nhiều sư đoàn cơ giới khác cũng bị phát hiện ở khu vực này. Nhờ trinh sát hàng không, tình báo Pháp cũng đã nhận thấy rằng quân Đức đang cho làm nhiều phà trên sông Our tại biến giới Đức-Luxembourg. Tùy viên quân sự Pháp tại Berne cảnh báo rằng mũi tấn công chính của Đức sẽ là ở trên sông Meuse tại Sedan, vào khoảng ngày 8 đến 10 tháng 5 năm 1940. Bản báo cáo này được đề ngày 30 tháng 4 năm 1940. Nhưng những báo cáo đó đều hầu như không gây được tác động gì đến Gamelin, cũng giống như những báo cáo tương tự từ các nguồn trung lập như Vatican, và việc một phi công Pháp trông thấy đoàn xe thiết giáp Đức dài cả trăm cây số bên trong lãnh thổ Đức đang hướng tới biên giới Luxembourg.
Lực lượng và bố trí
Quân đội Đức Quốc xã
Bố trí lực lượng và ý đồ tiến quân của hai bên.
Lực lượng
Đức đã động viên được 4.200.000 người cho lục quân (Heer), 1.000.000 cho không quân (Luftwaffe), 180.000 cho hải quân (Kriegsmarine), và 100.000 cho lực lượng Waffen-SS. Do từ năm 1919 chế độ cưỡng bức tòng quân không được thực hiện theo điều khoản của hòa ước Versailles (bị chính phủ Đức bác bỏ từ năm 1935) nên trong các năm 1939–1940, Đức có 45% quân số đã 40 tuổi trở lên, 50% binh lính mới chỉ qua vài tuần lễ huấn luyện và thường được trang bị nghèo nàn hơn nhiều so với Pháp và Anh, thậm chí là chỉ ngang bằng mức trang bị của quân Đức năm 1914. Vào mùa xuân năm 1940, quân đội Đức vẫn đang trong tình trạng bán hiện đại. Lực lượng này được tổ chức thành 157 sư đoàn. Trong đó, 135 sư đoàn được dùng cho việc tấn công, 42 sư đoàn làm dự bị. Hitler cảm thấy đủ tự tin vào cuộc liên minh với Stalin nên chỉ để lại 7 sư đoàn tại biên giới phía đông của đế chế Đức Quốc xã.
Trong tháng 5 và tháng 6, quân Đức đã triển khai ở phía tây 2.439 xe tăng (bao gồm 523 Panzer I, 955 Panzer II, 349 Panzer III, 278 Panzer IV, 106 Panzer 35(t) và 228 Panzer 38(t)) và 7.378 khẩu pháo cùng đạn dược dự trữ đủ cung cấp cho 6 tuần lễ tấn công. Chỉ có 10% lục quân Đức được cơ giới hóa trong năm 1940 và chỉ có thể tập hợp được 120.000 xe cộ so với con số 300.000 của Pháp. Người Anh cũng có một lực lượng cơ giới "đáng ganh tỵ" so với Đức.
Bố trí
Quân đội Đức chia làm 3 cụm quân:
- Cụm Tập đoàn quân A do Gerd von Rundstedt chỉ huy, có 45½ sư đoàn, trong đó có 7 sư đoàn thiết giáp và 3 sư đoàn bộ binh cơ giới,
- Cụm Tập đoàn quân B do Fedor von Bock chỉ huy, có 29½ sư đoàn, gồm Tập đoàn quân số 6 (có 2 sư đoàn thiết giáp) và số 18 (có 1 sư đoàn thiết giáp), với nhiệm vụ tiến qua Vùng Đất Thấp và dụ chủ lực Đồng Minh tiến lên nghênh chiến.
Thông tin liên lạc
Lá chủ bài thực sự của người Đức chính là hệ thống radio. Tất cả các xe tăng Panzer đều có trang bị radio, cho phép họ liên lạc truyền thông với các đơn vị khác. Điều này giúp quân thiết giáp Đức phản ứng rất nhanh với những biến đổi liên tục của tình hình chiến trường. Nó cho phép có những thay đổi vào phút cuối về chiến thuật và giúp ứng biến nhanh hơn nhiều so với đối phương. Một số chỉ huy đã xem khả năng liên lạc là phương thức chiến đấu căn bản.
Chiến thuật lục quân
Vũ khí chính của các lực lượng trên bộ của Đức là kiểu chiến đấu hiệp đồng binh chủng. Trái ngược với phe Đồng Minh, họ dựa vào các đơn vị tấn công có tính cơ động cao, với số lượng cân bằng giữa các đội hình pháo binh, bộ binh, công binh và xe tăng đã qua huấn luyện bài bản, tất cả kết hợp trong những sư đoàn Panzer. Họ cũng dựa vào hệ thống liên lạc tuyệt vời cho phép đột nhập vào một vị trí và khai thác nó trước khi đối phương kịp phản ứng. Các sư đoàn Panzer có thể tiến hành nhiệm vụ trinh sát, hành quân bắt liên lạc, phòng thủ và tấn công các vị trí quan trọng hay các điểm yếu. Các vị trí này sau đó sẽ được bộ binh và pháo binh nắm giữ để làm bàn đạp cho các cuộc tấn công tiếp theo. Mặc dù xe tăng của Đức không được thiết kế để phục vụ cho các trận chiến tăng đấu tăng, chúng có thể chiếm giữ trận địa và đẩy quân thiết giáp đối phương vào các phòng tuyến chống tăng của các sư đoàn. Điều này giúp bảo toàn lực lượng xe tăng để có thể tiến hành các bước tấn công tiếp theo. Hậu cần của các đơn vị này là tự túc, đủ cho 3 đến 4 ngày chiến đấu. Các sư đoàn Panzer sẽ được hỗ trợ bằng các sư đoàn bộ binh và cơ giới.
Lục quân Đức không có được loại xe tăng chiến đấu hạng nặng ghê gớm như Char B1 của Pháp. Xét theo trang bị vũ khí và lớp giáp, các xe tăng của Pháp đều trội hơn cả về thiết kế lẫn số lượng (mặc dù các xe cộ của Đức nhanh hơn và đáng tin cậy hơn về mặt máy móc). Nhưng dù bị áp đảo về số lượng pháo binh và xe tăng, lục quân Đức lại có được một số lợi thế quan trọng so với đối thủ. Mỗi tổ lái xe tăng Panzer có năm người; gồm 1 chỉ huy, 1 xạ thủ, 1 người nạp đạn, 1 lái xe và 1 thợ máy. Cách kiểm soát tập trung này giúp người Anh có lợi thế trong các hoạt động dàn quân chính thức, nhưng lại gây bất lợi trong những tình huống chiến thuật thay đổi nhanh chóng đòi hỏi tính ứng biến.
Không quân
Không quân Đức (Luftwaffe) chia lực lượng 2 cụm: 1.815 máy bay chiến đấu, 487 máy bay vận tải và 50 tàu lượn phối hợp với Cụm Tập đoàn quân B, 3.286 máy bay chiến đấu khác hỗ trợ Cụm Tập đoàn quân A và C.
Nhiệm vụ chính của không quân Đức là tiến hành yểm trợ bám sát mặt đất bằng các máy bay ném bom bổ nhào và máy bay ném bom hạng trung. Vào năm 1940, ngoại trừ một bộ phận nguồn lực vẫn phải sử dụng rộng rãi để phục vụ cho chiến lược quốc gia, thì Luftwaffe là một lực lượng đại thể căn bản không có học thuyết chủ đạo chặt chẽ. Nó rất linh hoạt và có thể thực hiện hiệu quả cả hoạt động ném bom tác chiến, chiến thuật lẫn chiến lược. Linh hoạt chính là sức mạnh của Luftwaffe trong năm 1940. Trong khi không lực Đồng Minh trong năm đó bị trói buộc vào nhiệm vụ yểm trợ cho lục quân, thì Luftwaffe triển khai nguồn lực của mình theo nhiều hướng hoạt động hơn, từ các nhiệm vụ chiếm ưu thế trên không sang việc đánh phá ngăn chặn địch ở tầm trung, từ các đòn đánh chiến lược cho đến nhiệm vụ yểm trợ trực tiếp tùy thuộc vào yêu cầu của các lực lượng trên chiến trường. Trong thực tế, Luftwaffe chưa phải là một vũ khí xung kích chuyên dụng cho quân thiết giáp, và chỉ có không đến 15% lực lượng của nó được bố trí để chi viện trực tiếp lục quân trong năm 1939, vì đó không phải nhiệm vụ chính của nó.
Phòng không
Người ta thường cho rằng Đức còn có lợi thế lớn so với Đồng Minh về hỏa lực phòng không. Nhưng trên thực tế, số liệu trích dẫn thường thấy về 2.600 khẩu pháo phòng không 88 ly hạng nặng cùng 6.700 khẩu 37 ly và 20 ly hạng nhẹ có vẻ như đề cập đến tổng số thống kê của toàn bộ lực lượng vũ trang Đức, tức là bao gồm cả hệ thống phòng không tại các thành phố và cảng biển của Đức, cũng như trang bị trong các đơn vị huấn luyện. Một bộ phận 9.300 khẩu pháo trên chiến trường sẽ đòi hỏi quân số tương ứng còn đông hơn cả toàn bộ Lực lượng Viễn chinh Anh. Số pháo phòng không thực tế dành cho các lực lượng tấn công là 85 khẩu đội pháo hạng nặng và 18 khẩu đội pháo hạng nhẹ trực thuộc Luftwaffe, 48 "đại đội" pháo hạng nhẹ không thể thiếu đối với các sư đoàn lục quân, và 20 "đại đội" pháo hạng nhẹ được phân phối cho các đội quân làm lực lượng dự bị sẵn có dưới quyền các tổng hành dinh trên cấp quân đoàn: tất cả khoảng 700 pháo 88 ly và 180 pháo 37 ly được cung cấp bởi các đơn vị mặt đất của Luftwaffe và 816 pháo 20 ly được cung cấp bởi lục quân. Nhưng trong đó chỉ có 2.240.000 phục vụ trong các đơn vị quân đội ở phía bắc. Người Anh đóng góp tổng cộng 897.000 quân trong năm 1939, và tăng lên 1.650.000 vào tháng 6 năm 1940, nhưng trong tháng 5 chỉ có 500.000 người, kể cả dự bị. Nguồn nhân lực của Hà Lan và Bỉ ước tính lần lượt là 400.000 và 650.000 người. Ngoài ra còn có thêm 1.200 chiếc nữa lấy ra từ kho hoặc biên chế trong các đơn vị mới thành lập, chưa kể 1.500 xe tăng FT-17 đời cũ. Ưu thế lực lượng cả về số lượng và chất lượng so với Đức đã được thể hiện ở thắng lợi chiến thuật trong trận Hannut, trận tăng chiến lớn nhất của toàn chiến dịch. Ngoài ưu thế xe tăng, Đồng Minh còn vượt trội về hỏa lực pháo với khoảng 14.000 khẩu, nhiều hơn 45% so với Đức. Trong đó lực lượng pháo binh Pháp ước tính có 10.700 khẩu pháo, Anh có 1.280 khẩu, Bỉ 1.338 khẩu và Hà Lan 656 khẩu. Trong Trận chiến nước Pháp ông ta đã sử dụng điện thoại và người tùy tùng để liên lạc với chiến trường; chỉ có 0,15% chi tiêu quân sự trong các năm 1923-1939 dùng cho radio và những thiết bị liên lạc khác.
Sự triển khai chiến thuật và sử dụng các đơn vị tác chiến cơ động của Pháp cũng kém hơn so với Đức. Có rất ít công tác đào tạo về tác chiến cơ động được tiến hành trong khoảng từ tháng 9 năm 1939 đến tháng 5 năm 1940.
Bố trí
thumb|Quân lính Anh tại gần Etaples, tháng 2 năm 1940 Quân đội Pháp ở phía bắc có 3 Cụm Tập đoàn quân: Cụm Tập đoàn quân số 1 của tướng Gaston-Henri Billotte, gồm 40 sư đoàn tinh nhuệ (trong đó có Lực lượng Viễn chinh Anh do Gort chỉ huy) có nhiệm vụ tiến thẳng sang Vùng Đất Thấp. Cụm Tập đoàn quân số 2 của tướng André-Gaston Prételat bao gồm 26 sư đoàn và Cụm Tập đoàn quân số 3 (đóng ở cánh nam Cụm Tập đoàn quân số 2) của tướng Antoine-Marie-Benoit Besson bao gồm 36 sư đoàn cùng phòng giữ phòng tuyến Maginot ở phía đông.
Tập đoàn quân số 7, ban đầu đóng tại sườn trái gần bờ biển, được tăng cường bởi 1 sư đoàn cơ giới hạng nhẹ (Division Légère Mécanisée - DLM), dự định sẽ hành quân đến Breda - Hà Lan qua Antwerp. Cạnh đó về phía nam là 9 sư đoàn Lực lượng Viễn chinh Anh (BEF), sẽ tới phòng tuyến Dyle và đóng quân cạnh sườn phải của quân Bỉ, từ Louvain đến Wavre. Tập đoàn quân số 1, được tăng viện 2 sư đoàn cơ giới hạng nhẹ và 1 sư đoàn Thiết giáp Dự bị (DCR) trong lực lượng dự bị, đến phòng thủ khe hở Gembloux nằm giữa Wavre và Namur. Đội quân xa nhất về phía nam tham gia tiến vào Bỉ là Tập đoàn quân số 9, kiểm soát toàn bộ quân khu Meuse nằm giữa Namur và Sedan. Lord Gort, tư lệnh BEF, đã hy vọng rằng mình sẽ có từ 2 đến 3 tuần lễ chuẩn bị trong thời gian quân Đức di chuyển 100 cây số để tới sông Dyle (nhưng thực tế quân Đức đã đến nơi chỉ sau 4 ngày).
Tại Sedan, Tập đoàn quân số 2 trở thành "bản lề" của lực lượng di chuyển và lực lượng ở lại phòng thủ và đã phải đối mặt với đòn tấn công tập trung các sư đoàn thiết giáp tinh nhuệ của Đức tại Sedan. Chỉ có 5 sư đoàn, 2 trong số đó là các đơn vị dự bị đã quá tuổi, hay gọi là các sư đoàn "hạng B", và 1 đơn vị Tây Phi đến từ Senegal, họ bị yếu thế cả về nhân lực, vũ khí phòng không, chống tăng cũng như yểm trợ trên không. Phải phụ trách một mặt trận lớn hơn nhiều so với thực lực, cùng với thực trạng huấn luyện và trang bị, họ trở thành yếu điểm trong hệ thống phòng ngự của Pháp. Điều này xuất phát từ niềm tin của Bộ Tư lệnh Tối cao Pháp rằng xe tăng không thể vượt qua rừng Ardennes, mặc dù tình báo của quân đội Bỉ và của chính họ đã cảnh báo họ về những đội hình thiếp giáp và vận tải kéo dài đang băng qua Ardennes và bị tắc nghẽn giao thông nghiêm trọng trong một thời gian. André Corap, tư lệnh Tập đoàn quân số 9 đã gọi ý nghĩ rằng quân địch không thể vượt qua Ardennes là "ngu xuẩn". Thế nhưng Gamelin vẫn phớt lờ những bằng chứng này, bởi nó không phù hợp với kế hoạch chiến lược của ông ta.
Không quân
Ở trên không, phe Đồng Minh bị thua kém về số lượng: Không quân Pháp (Armee de l'Air) có 1.562 máy bay, và Bộ tư lệnh Tiêm kích RAF huy động 680 chiếc, còn Bộ tư lệnh Ném bom RAF đóng góp được khoảng 392 chiếc trong các chiến dịch. Nhiều loại máy bay của Đồng Minh là loại lỗi thời như Fairey Battle. Xét riêng về tiêm kích thì chỉ có loại Hawker Hurricane của Anh và Dewoitine D.520 của Pháp là có thể so sánh với Messerschmitt Bf 109 của Đức trong cùng điều kiện chiến đấu. D.520 cơ động hơn nhưng tốc độ lại hơi kém. Thế nhưng cho đến ngày 10 tháng 5 năm 1940, mới chỉ có 36 chiếc D.520 là được điều động cho 1 phi đội duy nhất.
Xét riêng lực lượng máy bay tiêm kích, Đồng Minh có ưu thế về số lượng: 836 chiếc Bf 109 Đức phải chống lại 81 tiêm kích của Bỉ, 261 chiếc của Anh và 764 của Pháp thuộc nhiều chủng loại khác nhau; nguồn máy bay dự bị cũng lớn hơn, nhưng các lực lượng này không bao giờ được sử dụng phối hợp để chống lại Không quân Đức. Ngay cả khi được tập hợp lại để tấn công, thì thường chỉ có tối đa 20-24 máy bay chiến đấu Đồng minh chọi với khoảng 40 máy bay Messerschmitt Bf 109, một đội tiêm kích điển hình của Đức. Vì bất đồng ngôn ngữ dẫn đến việc thiếu hụt sự phối hợp chặt chẽ, các máy bay Đồng minh thường xuyên phải chiến đấu riêng biệt.
Vào đầu tháng 6 năm 1940, nền công nghiệp hàng không Pháp đạt được mức sản xuất đáng kể, và ước tính số máy bay dự bị vào khoảng 2.000 chiếc. Tuy nhiên, sự thiếu hụt thường xuyên các bộ phận dự phòng đã làm tê liệt lực lượng không quân dự trữ này. Chỉ 29% số máy bay (599 chiếc) là sẵn sàng phục vụ, trong đó có 170 máy bay ném bom. Khả năng bảo trì thấp đã khiến cho người Đức có ưu thế rõ rệt về số lượng máy bay ném bom hạng trung,
Phòng không
Quân đội Pháp, ngoài 580 khẩu súng máy 13 ly được phân phát cho lực lượng quốc phòng dân sự, còn có 1.152 súng phòng không 25 ly, với 200 pháo tự động 20 ly đang trong quá trình phân phối, 688 khẩu 75 ly và 24 khẩu 90 ly - mà sau này gặp phải vấn đề về hao mòn nòng súng. Còn có 40 khẩu pháo phòng không 105 ly lỗi thời từ hồi chiến tranh thế giới thứ nhất. Lực lượng Viễn chinh Anh có 10 trung đoàn pháo phòng không 94 ly, đây là loại vũ khí phòng không hạng nặng tân tiến nhất thế giới lúc đó, và 7 trung đoàn rưỡi pháo Bofors 40 ly, với 3 đến 4 khẩu đội trên mỗi trung đoàn, tương ứng với khoảng 300 khẩu pháo phòng không hạng nặng và 350 khẩu hạng nhẹ. Người Bỉ cũng có 2 trung đoàn phòng không hạng nặng và đang trong quá trình làm quen với pháo Bofors 40 ly để trang bị cho các đội quân phòng không cấp sư đoàn. Hà Lan có 84 khẩu pháo phòng không 75 ly, 39 khẩu 60 ly cũ kỹ, 7 khẩu 100 ly và 232 khẩu 20 với 40 ly, cùng vài trăm súng máy phòng không Spandau M.25 lỗi thời từ hồi chiến tranh thế giới thứ nhất.
Tháng 5: Kế Hoạch Vàng, Vùng Đất Thấp và Bắc Pháp
Ngày 9 tháng 5 năm 1940, Bộ Ngoại giao Đức đã chuẩn bị một công hàm để giao cho đại sứ Bỉ và Hà Lan vào lúc 5h45 ngày hôm sau. Với lý do Bỉ và Hà Lan đã "đơn phương ủng hộ kẻ thù của nước Đức và có ý định hỗ trợ chúng",
Mũi tấn công mồi phía bắc
Quân đội Đức Quốc xã mở màn Kế Hoạch Vàng vào buổi tối trước đêm 10 tháng 5. Trong đêm 9 tháng 5, quân Đức đã chiếm Luxembourg mà hầu như không gặp kháng cự, và Cụm Tập đoàn quân B bắt đầu cuộc tấn công mồi nhử vào Hà Lan và Bỉ. 5h30 sáng ngày 10 tháng 5, quân nhảy dù Đức (Fallschirmjäger) thuộc Sư đoàn Không quân số 7 và Sư đoàn Bộ binh Không quân số 22 dưới sự chỉ huy của tướng Kurt Student đã bất ngờ đổ bộ vào Den Haag trên con đường tới Rotterdam, và pháo đài Eben-Emael của Bỉ nhằm mở đường cho cuộc tiến quân của Cụm Tập đoàn quân B.
Bộ tư lệnh Pháp lập tức phản ứng lại, điều Cụm Tập đoàn quân số 1 lên phía bắc theo đúng kế hoạch D. Sự di chuyển này đã lấy đi lực lượng mạnh nhất của họ, làm yếu sức tấn công do sự đảo lộn cục bộ mà nó gây ra, đồng thời giảm sự cơ động do tiêu tốn nhiên liệu. Đồng thời Tập đoàn quân số 7 cũng vượt biên giới Hà Lan, nhưng nhận thấy quân đội Hà Lan lúc này đang rút lui toàn diện, liền rút về Bỉ phòng thủ Brussels.
Không quân Pháp và Anh đã bị hạn chế trong các phi vụ "trinh sát", và tránh không tấn công các đội hình thiết giáp của Đức, vì bộ chỉ huy Pháp đã bày tỏ mối lo ngại rằng cuộc chiến sẽ trở thành một "trận chiến bom" mà có thể sẽ làm tổn thương đến dân thường, và không quân Đức đã nhanh chóng chiếm được ưu thế trên không, giành lấy khả năng trinh sát và phá vỡ sự liên lạc phối hợp của Đồng Minh.
Chiến sự ở Hà Lan
nhỏ|Một máy bay vận tải [[Junkers Ju 52 của Đức bị bắn rơi.]] Không quân Đức hoàn toàn làm chủ bầu trời Hà Lan nhờ lấn át tuyệt đối về số lượng. Luftwaffe đã điều động 247 máy bay ném bom hạng trung, 147 máy bay tiêm kích, 424 máy bay vận tải Junkers Ju 52 và 12 thủy phi cơ Heinkel He 59 vào vùng trời Hà Lan. Lực lượng không quân Hà Lan, Cục Hàng không Quân đội (Militaire Luchtvaartafdeling - ML) có 144 máy bay chiến đấu thì một nửa trong số đó đã bị tiêu diệt ngay trong ngày đầu tiên của chiến dịch.
Tập đoàn quân 18 Đức đã chiếm được tất cả các cây cầu có tính quan trọng chiến lược sống còn ở trong và lân cận Rotterdam, chia cắt khu pháo đài Holland - vùng lãnh thổ duy nhất người Hà Lan dự định bảo vệ - và vòng qua Tuyến đường thủy Hà Lan từ phía nam. Tuy nhiên, một cuộc hành quân khác được tiến hành độc lập bởi Luftwaffe vào Den Haag nhằm đánh chiếm nơi đặt trụ sở của chính phủ Hà Lan, được gọi là trận Hague, đã bị thất bại hoàn toàn. Quân Đức phải chịu những tổn thất nặng nề về người và lực lượng không quân vận tải mới chiếm được các phi trường xung quanh thành phố (Ypenburg, Ockenburg, và Valkenburg). Có khoảng 96 máy bay đã bị hỏa lực của quân Hà Lan bắn hạ. Ngoài ra, chiến dịch không vận cũng làm quân dù Đức mất 4.000 người, trong đó có 1.200 người bị bắt làm tù binh, trong tổng lực lượng 8.000 người. Người Hà Lan sau đó đã sơ tán sang Anh. Tổng thiệt hại của Đức trong thất bại này là 20% số hạ sĩ quan và binh lính, 42% sĩ quan chỉ huy thiệt mạng.
Tuy nhiên, quân dù Đức đã thành công ở phía nam khi bất ngờ đổ bộ chiếm các cây cầu dọc tuyến đường nổi Moerdijk qua khu vực ngập nước ở cửa sông Meuse, cô lập Pháo đài Holland với quân chủ lực Đồng Minh và chia cắt Hà Lan ra làm 2 phần. Hành động nhanh chóng này buộc Quân đội Hà Lan rút về Amsterdam và Rotterdam ở phía bắc, không còn khả năng kết hợp với Pháp được nữa. Tập đoàn quân số 7 của Pháp tới Breda nhưng không liên kết được với Quân đội Hà Lan, họ tiếp tục tiến về phía đông và thất bại trong cuọc đụng độ lực lượng thiết giáp tăng viện Đức là Sư đoàn Panzer số 9 - sư đoàn thiết giáp Đức duy nhất điều động cho cuộc chinh phục Hà Lan - và phải rút về phòng thủ Antwerp, Bỉ. 2 ngày sau, Sư đoàn Panzer số 9 đã tiến tới Rotterdam nhưng không thể vượt qua cầu tiến vào thành phố vì người Hà Lan đã chặn đường phía bắc đoạn cuối của cây cầu. Cùng ngày hôm ấy ở phía đông, tiếp sau trận Grebbeberg với một cuộc phản công nhằm ngăn cản mũi đột phá của Đức bị thất bại, quân Hà Lan rút lui từ tuyến Grebbe về Tuyến đường thủy Mới.
Quân đội Hà Lan hầu như còn nguyên vẹn đã đầu hàng tối ngày 14 tháng 5 sau trận ném bom Rotterdam do Không đoàn Ném bom 54 (Kampfgeschwader 54) của Đức thực hiện. Các máy bay ném bom tầm trung Heinkel He 111 đã hủy diệt khu trung tâm thành phố, đốt cháy các khu phố cổ khiến 814 dân thường thiệt mạng. Đây là một quyết định gây tranh cãi. Quân đội Hà Lan đã nhận định tình thế chiến lược đã trở nên tuyệt vọng và lo ngại về khả năng huỷ diệt các thành phố chính của Hà Lan. Văn kiện đầu hàng được ký ngày 15 tháng 5. Mặc dù thế, các đạo quân Hà Lan tại Zeeland (nơi quân Pháp đã tiến vào) và các thuộc địa vẫn tiếp tục chiến đấu trong khi Nữ hoàng Wilhelmina đã thành lập một chính phủ lưu vong tại Anh. Con số thương vong của Hà Lan ước tính là 2.157 người của lục quân, 75 của không quân, và 125 của hải quân. Ngoài ra còn có 2.559 dân thường thiệt mạng. Tuyến đường hành quân chính bị án ngữ bởi pháo đài Eben-Emael, một pháo đài lớn được đánh giá là có trang bị hiện đại nhất châu Âu, Người Bỉ tin rằng cuộc tấn công của Đức tại đây có thể bị chặn lại trong 2 đến 4 ngày. Sự trì hoãn đó có thể gây nguy hiểm tới kết cục của toàn bộ chiến dịch, bởi như vậy có nghĩa là những cánh quân chủ lực của Đồng minh sẽ đến được tuyến Dyle-Meuse và tham chiến trước khi Cụm Tập đoàn quân A kịp thiết lập các đầu cầu cần thiết.
Để vượt qua khó khăn này, người Đức đã sử dụng một biện pháp độc đáo trong trận pháo đài Eben-Emael. Trong những giờ đầu tiên của ngày 10 tháng 5, những chiếc tàu lượn DFS 230 đã cho đổ bộ lên nóc pháo đài Eben-Emael những đội quân tấn công tiền trạm nhằm vô hiệu hoá các khẩu pháo lớn trên mái vòm bằng lượng nổ lõm trên tháp pháo. Vụ nổ đã phá hủy tháp và làm lửa loang xuống các hành lang bên dưới. Tiếp đó quân Đức dùng súng phun l