✨Trận Hà Lan
Trận Hà Lan () là một phần trong "Kế hoạch Vàng" () - cuộc xâm lăng của Đức Quốc xã vào Vùng đất thấp (Bỉ, Luxembourg, Hà Lan) và Pháp trong chiến tranh thế giới thứ hai. Trận chiến bắt đầu từ ngày 10 và kết thúc vào ngày 14 tháng 5 năm 1940 khi quân đội chính quy của Hà Lan ra đầu hàng Đức, và Hà Lan trở thành quốc gia Tây Âu đầu tiên bị quân đội Đức Quốc xã chiếm đóng. Đây là chiến dịch quân sự ngắn và ít thiệt hại nhất đối với Đức nằm trong khuôn khổ trận chiến nước Pháp. Riêng lực lượng của Hà Lan tại tỉnh Zeeland còn tiếp tục kháng cự với quân đội Đức Quốc xã cho đến ngày 17 tháng 5, khi Đức hoàn tất việc chiếm đóng toàn bộ lãnh thổ Hà Lan.
Trận Hà Lan là một trong những trận đánh đầu tiên quân nhảy dù được sử dụng để đánh chiếm các mục tiêu quan trọng trước khi bộ binh tiếp cận mục tiêu. Không quân Đức Quốc xã đã huy động lực lượng lính dù đánh chiếm nhiều sân bay lớn của Hà Lan ở trong và lân cận các thành phố chính như Rotterdam và Den Haag để nhanh chóng kiểm soát toàn bộ quốc gia này và vô hiệu hóa các lực lượng của Hà Lan.
Trận chiến kết thúc ngay sau cuộc oanh tạc Rotterdam của không quân Đức Quốc xã cùng với mối đe doạ sau đó của Đức về việc hủy diệt các thành phố lớn của Hà Lan bằng các đòn ném bom khủng bố huỷ diệt nếu quốc gia này không chịu khuất phục. Bộ Tư lệnh tối cao Hà Lan biết rằng không thể ngăn chặn được các máy bay ném bom của đối phương, đã quyết định đầu hàng để tránh cho các thành phố khác của mình phải chịu số phận tương tự. Đức Quốc xã sau đó đã chiếm đóng Hà Lan, cùng với nước Pháp và các quốc gia Vùng Đất Thấp khác; cho đến khi lãnh thổ Hà Lan được hoàn toàn giải phóng vào tháng 5 năm 1945.
Bối cảnh
Anh và Pháp đã cùng nhau tuyên chiến với Đức từ sau cuộc xâm lược Ba Lan năm 1939, nhưng suốt thời gian của Cuộc chiến tranh kỳ quặc mùa đông 1939–1940 đã không có hoạt động trên bộ đáng kể nào được triển khai tại Tây Âu, trong lúc này phe Đồng minh tiến hành xây dựng tích lũy lực lượng và chờ đợi một cuộc chiến tranh lâu dài, và nhờ vậy Đức đã có thể hoàn thành cuộc chinh phục tại Ba Lan. Ngày 9 tháng 10 năm 1939 Hitler đã ra lệnh xây dựng một kế hoạch xâm lăng Vùng Đất Thấp, như một phần trong chiến dịch tấn công nước Pháp.
Người Hà Lan không có sự chuẩn bị để đối phó với một cuộc xâm lược như vậy. Các chính phủ nối tiếp nhau của Hà Lan có xu hướng lảng tránh việc công khai xác nhận rằng Đức Quốc xã là một mối đe doạ quân sự nguy hiểm. Điều này một mặt là vì mong muốn không phải đối đầu với một đối tác thương mại quan trọng, ngay cả với vấn đề chỉ trích hạn chế đối với các chính sách Quốc xã; mặt khác là do chủ trương tiết kiệm ngân sách một cách nghiêm ngặt không thể không tiến hành mà các chính phủ bảo thủ của Hà Lan áp dụng trong cố gắng vô vọng nhằm đối phó với cuộc Đại suy thoái mà đang đẩy xã hội Hà Lan vào tình cảnh vô cùng khó khăn. Bản thân Hendrikus Colijn, thủ tướng Hà Lan từ năm 1933 đến năm 1939, đã tin chắc rằng Đức sẽ không vi phạm sự trung lập của Hà Lan; và các viên chức chủ chốt trong chính quyền cũng chưa bao giờ thử làm gì để vận động dư luận quần chúng ủng hộ cho việc tăng cường công tác quốc phòng. Quân Hà Lan đóng rào chắn cây cầu Nijmegen Waal trong thời gian cuộc khủng hoảng Albania Tình hình căng thẳng leo thang trong quan hệ quốc tế vào cuối những năm 1930, với những cuộc khủng hoảng chính trị diễn ra khi Đức chiếm đóng Rhineland năm 1936, việc sáp nhập Áo và vùng Sudetenland - vấn đề của năm 1938, cũng như khi Đức chiếm Bohemia, Moravia và Ý chiếm đóng Albania mùa xuân năm 1939, đã buộc chính phủ Hà Lan phải cảnh giác hơn.
Sau khi Đức xâm lược Ba Lan tháng 9 năm 1939 và tiếp theo là sự bùng nổ của Chiến tranh thế giới thứ hai, Hà Lan vẫn hy vọng sẽ giữ được sự trung lập mà họ đã từng có được trong chiến tranh thế giới thứ nhất 25 năm về trước. Để đảm bảo cho điều đó, quân đội Hà Lan đã được động viên ngày 24 tháng 8 năm 1939 và bắt đầu cho triển khai công tác phòng thủ. Một khoản ngân sách lớn (khoảng 900 triệu guilder) rốt cục đã được chi cho công tác quốc phòng, nhưng thật khó mà có được trang thiết bị mới trong thời chiến, nhất là khi nguồn hàng này của Hà Lan - chủ yếu nhập từ Đức - hiện tại đang bị cố tình trì hoãn cung cấp. Ngoài ra, một phần đáng kể ngân sách quốc phòng lại được dự định dành cho vùng Đông Ấn thuộc Hà Lan, chủ yếu liên quan đến kế hoạch cho đóng 3 tàu tuần dương thiết giáp mới.
Anh, Pháp đã cố gắng thuyết phục các quốc gia này không nên ngồi yên chờ đợi cuộc tấn công tất yếu sẽ xảy đến của Đức mà hãy liên kết với phe Đồng minh từ trước; như đề xuất của Winston Churchill trong bài diễn văn trên radio ngày 20 tháng 1 năm 1940. Thế nhưng cả Bỉ và Hà Lan đều cự tuyệt, ngay cả khi bản kế hoạch tấn công của Đức rơi vào tay người Bỉ sau vụ một chiếc máy bay Đức gặp tai nạn trong sự cố Mechelen tháng 1 năm 1940.
Người Pháp đã cân nhắc đến việc xâm phạm sự trung lập của các quốc gia Vùng đất thấp nếu như họ không gia nhập phe Đồng minh trước cuộc đại tấn công dự kiến sẽ tiến hành vào mùa hè năm 1941. Sự vi phạm này đã được chỉ rõ: nếu Đức chỉ tấn công Hà Lan - lúc này sẽ đòi hỏi phải có một cuộc tiến quân của phe Đồng minh qua Bỉ - hay ngược lại, nếu Hà Lan cho phép Đức tiến quân vào Bỉ qua phần lãnh thổ phía nam của họ, cả hai khả năng là một phần trong giả thuyết Hà Lan. Chính phủ Hà Lan chưa bao giờ chính thức xây dựng một chính sách nào để đối phó trong trường hợp bất ngờ như vậy; đa số các bộ trưởng đều có xu hướng việc chống lại cuộc tấn công đó, số ít khác cùng với Nữ hoàng Wilhelmina thì từ chối việc trở thành đồng minh với Đức cho dù hoàn cảnh có thế nào đi nữa. Hà Lan đã nhiều lần cố gắng làm trung gian hoà giải giữa Đức và Đồng minh, nhằm đạt tới một thỏa thuận hoà bình bằng thương lượng.
Sau khi Đức xâm lược Đan Mạch và Na Uy mà không tuyên chiến, cùng với cảnh báo của Tùy viên Hải quân Nhật Bản mới là Đại tá Tadashi Meada rằng cuộc tấn công của Đức là tất yếu, giới quân sự Hà Lan thấy rõ rằng đứng ngoài cuộc xung đột là điều không tưởng và họ bắt đầu chuẩn bị nghiêm túc cho chiến tranh, cả về tinh thần và vật chất. Quân đội biên phòng Hà Lan được đặt trong tình trạng báo động cao. Những tin tức về hoạt động của bọn phản quốc tại Scandinavia đã làm lây lan mối lo ngại rằng cả Hà Lan cũng sẽ bị bọn tay chân Đức xâm nhập nhờ sự giúp đỡ của những kẻ phản bội. Nhiều biện pháp đối phó được tiến hành nhằm đề phòng khả năng bị tấn công tại các sân bay và bến cảng. Ngày 19 tháng 4 tình trạng khẩn cấp được ban hành. Thế nhưng, những hoạt động gián điệp của Đức vẫn phát triển mạnh mẽ và có hiệu quả tại Hà Lan. Có thể chỉ ra ví dụ, viên chỉ huy sư đoàn bộ binh số 207 của Đức đã nắm trong tay một bản đồ chi tiết về các bãi mìn, sở chỉ huy, các công sự và những khu ngập nước thuộc vùng đồi Grebbeberg, một bộ phận quan trọng trong tuyến phòng thủ Grebbe của Hà Lan, hay viên tư lệnh Đức trong trận Hague cũng có những tấm bản đồ hoàn hảo về thành phố này, kể cả vị trí của hoàng gia và các chốt phòng thủ trọng yếu. Nhiều tên gián điệp, trong đó có đại uý Kriebel, ngày 23 tháng 2 năm 1940 đã đến Den Haag bằng đường xe lửa, ô tô, và từ đây bắt đầu nghiên cứu vùng đồi Grebbeberg. Thiếu tá Mantey và thiếu tướng Zickwolf, tư lệnh sư đoàn bộ binh số 227 của Đức, cũng là những 'vị khách' đầu tiên tới Hà Lan. Người Đức đã khảo sát tỉ mỉ đồi Grebbeberg từ những pháo đài có tầm nhìn lý tưởng trong vườn thú Ouwehands tại Rhenen. Điều này một phần là do quyết định của thủ tướng Dirk Jan de Geer, khi ông ta thấy rằng ý nghĩa kinh tế của việc mở cửa các pháo đài này quan trọng hơn nguy cơ đối với an ninh quốc gia. Tại các nơi khác cũng để cho yếu tố kinh tế quyết định, và kết quả là đề án triệt hạ cây cối nhằm phục vụ cho công tác phòng thủ tại đồi Grebbeberg và nhiều vị trí khác đã bị bác bỏ do tầm quan trọng của chúng đối với tầng lớp nông dân.
Thế nhưng hầu hết dân chúng vẫn nuôi ảo tưởng rằng đất nước mình sẽ được an toàn, quan điểm này sau chiến tranh đã bị mô tả như một sự phủ nhận mù quáng. Người Hà Lan hy vọng rằng chính sách kìm chế của phe Hiệp ước và Liên minh Trung tâm trong chiến tranh thế giới thứ nhất sẽ được lặp lại và đã cố gắng để tránh thu hút sự chú ý của các cường quốc cũng như né tránh một cuộc chiến tranh mà họ lo ngại rằng sẽ đem đến tổn thất về nhân mạng không kém gì lần xung đột thế giới trước đó. Ngày 10 tháng 4, Anh và Pháp đã lặp lại lời đề nghị Hà Lan tham gia cuộc chiến về phe Đồng minh và một lần nữa gặp phải sự cự tuyệt.
Lý do chiến lược của cuộc tấn công
Vị trí chiến lược của Vùng đất thấp, nằm giữa Pháp và Đức và tiếp giáp với cánh sườn trống trải không được bao bọc thuộc tuyến phòng thủ của họ, đã khiến nơi này trở thành tuyến đường tiến công lý tưởng từ cả hai phía. Trong Chiến tranh thế giới thứ nhất người Đức đã cho triển khai kế hoạch Schlieffen, bao gồm một mũi tấn công xuyên qua nước Bỉ để tràn vào Pháp. Kế hoạch này đã bị phá sản do nhiều nguyên nhân. Các nhà sử học quân sự có nhiều quan điểm khác nhau về vấn đề này. Người Đức đã bỏ qua những tác động sẽ gây ra bên ngoài châu Âu: vùng Đông Ấn thuộc Hà Lan vẫn đang là một nguồn cung cấp dầu chính cho Nhật Bản trong cuộc chiến chống lại Trung Quốc. (Mà sau đó đã cùng với Anh và Mỹ tiến hành phong tỏa dầu mỏ đối với Nhật và góp phần dẫn đến cuộc tấn công Trân Châu Cảng cũng như việc người Nhật chinh phục Đông Ấn thuộc Hà Lan)
Trong bức tranh tổng thể của cuộc tấn công vào nước Pháp, chiến dịch tại Hà Lan chỉ là một hoạt động mang tính phụ trợ. Lý do duy nhất để Đức nghiêm túc huy động một đội quân khá lớn chống lại Hà Lan trong chiến dịch này là nó sẽ giúp ngăn ngừa khả năng đe dọa của Đồng minh đối với vùng Ruhr, khu công nghiệp quan trọng sống còn của nước Đức. Ngoài ra, Không quân Đức sẽ có thể sử dụng các sân bay trên lãnh thổ Hà Lan làm căn cứ để ném bom lãnh thổ Anh quốc.
Thực trạng quân sự của Hà Lan trước chiến tranh
Lực lượng và trang thiết bị
Hà Lan có đủ mọi điều kiện khách quan đáp ứng khả năng kháng chiến thắng lợi: dân số đông, giàu có, trẻ, có kỷ luật và được giáo dục tốt; địa hình thuận lợi cho phòng thủ cùng với một nền kỹ thuật công nghiệp mạnh, bao gồm cả công nghiệp quân sự. Thế nhưng, những thuận lợi đó đã không được tận dụng tốt: trước Quân đội Đức Quốc xã lúc này vẫn chưa hoàn thành trang bị và huấn luyện, Quân đội Hà Lan vẫn như chàng tí hon David trước gã khổng lồ Goliath. Giai thoại về ưu thế trang bị nói chung của Đức so với quân đội đối phương trong trận chiến nước Pháp chỉ đúng với trường hợp Trận Hà Lan. Trong khi Quân đội Đức trang bị hiện đại với số lớn xe tăng và máy bay ném bom bổ nhào (như loại Junkers Ju 87 - Stuka) thì lực lượng thiết giáp của Quân đội Hà Lan chỉ vỏn vẹn có 39 xe thiết giáp và 5 xe tankette, còn Không quân Hà Lan được trang bị đa số bằng máy bay hai tầng cánh. Thái độ sợ chiến tranh của chính phủ Hà Lan khiến cho các lực lượng vũ trang của đất nước ở tình trạng lạc hậu về trang bị, y như ở thời kỳ chiến tranh thế giới thứ nhất, thậm chí không thích đáng so với tiêu chuẩn của năm 1918. Trong thập niên 20, cuộc suy thoái kinh tế 1920 - 1927 và tình hình quan hệ quốc tế ổn định khiến ngân sách quốc phòng co nhỏ lại Trong các năm 1931 và 1933 chính sách thắt chặt ngân sách rốt cuộc thất bại đơn giản vì không còn gì để thắt nữa, mà ngược lại cần gấp rút nới rộng chi tiêu Nhưng cũng phải chờ đến tài khóa 1936 thì khoản chi đặc biệt 53.4 triệu guilder cho công tác quốc phòng mới được thông qua. Số pháo lớn chỉ có vừa đủ để trang bị cho các đơn vị lớn: 8 sư đoàn bộ binh (tổ chức thành 4 quân đoàn), 1 sư đoàn khinh binh (cơ giới) và 2 lữ đoàn độc lập A và B, mỗi lữ đoàn có quy mô bằng nửa sư đoàn hoặc 5 tiểu đoàn. Tất cả các đơn vị bộ binh chiến đấu khác được biên chế thành các tiểu đoàn bộ binh nhẹ phân tán trên toàn lãnh thổ để làm nhiệm vụ trì hoãn đối phương tiến quân. Hệ thống phòng ngự kiên cố có khoảng hai nghìn công sự ngầm bằng bê tông, nhưng chỉ bố trí đơn tuyến, thiếu chiều sâu. Không có những pháo đài hiện đại lớn giống như pháo đài Eben-Emael của Bỉ; hệ thống công sự hiện đại duy nhất nằm tại khu Kornwerderzand bảo vệ tuyến đường Afsluitdijk. Tổng cộng quân lực Hà Lan tương đương 48 trung đoàn và 22 tiểu đoàn bộ binh, chỉ đủ để phòng thủ những đoạn biên giới quan yếu. Trong khi đó, nước Bỉ tuy có dân số ít hơn và độ tuổi nam giới già hơn nhưng đã xây dựng được 22 sư đoàn đầy đủ và khoảng 30 đơn vị nhỏ khác.
Từ tháng 9 năm 1939 Hà Lan cố gắng một cách tuyệt vọng để cải thiện tình hình, nhưng đạt được rất ít kết quả. Người Đức, với những lý do quá rõ ràng, đã cố tình trì hoãn việc cung cấp hàng hóa; người Pháp thì lưỡng lự với việc trang bị cho một đội quân không tỏ rõ lập trường, còn một nguồn vũ khí phong phú sẵn có khác là Liên Xô thì lại không thể tiếp cận vì Hà Lan, không như hầu hết các quốc gia khác, đã không chịu công nhận chế độ cộng sản. Một nỗ lực trong năm 1940 nhằm thu mua nguồn thiết giáp của Liên Xô mà Phần Lan chiếm được cũng đã bị thất bại.
Cho đến ngày 10 tháng 5 năm 1940 sự yếu kém rõ rệt của quân đội Hà Lan đã được phản ánh trong sự thiếu hụt lực lượng thiết giáp. Trái với các nước tham chiến khác đều đã có một lực lượng thiết giáp đáng kể, Hà Lan đã không thể đạt đến con số tối thiểu 146 xe tăng hiện đại (110 chiếc hạng nhẹ, 36 chiếc hạng trung) mà họ đã xác định là cần thiết từ năm 1937. Một chiếc xe tăng Renault FT 17 duy nhất, với một người lái đã qua huấn luyện nhưng cũng chỉ mới tham gia một công tác duy nhất trong bài kiểm tra chống tăng-chướng ngại vật, là chiếc duy nhất còn lại thuộc loại này và không còn được sử dụng trong năm 1940. Có 2 đội xe thiết giáp, mỗi đội có một tá xe Landsverk M36 hoặc M38; một tá xe DAF M39 khác đang trong quá trình đưa vào hoạt động, một số vẫn chưa được trang bị những vũ khí chủ yếu. Cộng thêm một trung đội 5 xe tankette loại Carden-Loyd Mark VI được lực lượng pháo binh sử dụng, đó là tất cả lực lượng thiết giáp của quân đội Hà Lan.
Lực lượng pháo binh hiện có của Hà Lan gồm tổng cộng 676 pháo lựu và pháo dã chiến: 310 khẩu pháo dã chiến Krupp 75 li; 52 khẩu lựu pháo Bofors 105 li, đây là bộ phận pháo binh hiện đại duy nhất; 144 đại bác Krupp 125 li đã lỗi thời; 40 pháo lựu hạng nặng (sFH13) 150 li; 72 khẩu pháo lựu Krupp 150 li L/24 và 28 pháo lựu Vickers 152 li L/15. Có 386 đại bác chống tăng Böhler 47 li L/39 được sử dụng, đó là loại vũ khí có hiệu quả nhưng quá ít về số lượng, chỉ đạt được 1/3 dự kiến; 300 khẩu pháo dã chiến kiểu cũ loại 6 Veld (57 li) và 8 Staal (84 li) cũng tham gia lực lượng phòng thủ. Chỉ có 8 trong số 120 khẩu pháo hiện đại 105 li đặt hàng tại Đức được chuyển giao vào thời gian cuộc xâm lăng. Hầu hết pháo binh phải dùng sức ngựa kéo.
Bộ binh Hà Lan có trong tay khoảng 2.200 súng máy Schwarzlose M.08 7.92 li và 800 súng máy loại Vickers. Nhiều khẩu trong số này bố trí tại các công sự; mỗi tiểu đoàn được trang bị một bộ súng máy hạng nặng 12 khẩu. Các đội bộ binh Hà Lan được trang bị cùng một súng máy hạng nhẹ, loại súng M20 Lewis với khoảng 8.000 khẩu được sử dụng. Loại vũ khí này cồng kềnh và không thuận lợi cho việc tấn công. Hầu hết lính bộ binh Hà Lan đều trang bị loại súng trường Dutch Mannlicher, một biến thể của loại súng Steyr-Mannlicher M1895, vũ khí này đã được quân đội Hà Lan sử dụng hơn 40 năm và rõ ràng đã lỗi thời, nhưng họ không có đủ tiền để thay thế nó. Ngoài ra còn có 6 súng cối 80 li cho mỗi trung đoàn. Sự thiếu hụt hỏa lực trong các đơn vị cấp thấp đã làm suy yếu năng lực chiến đấu của bộ binh Hà Lan.
Không lực Hà Lan không được biên chế thành một binh chủng độc lập mà là bộ phận của Lục quân, cùng 17 máy bay trinh sát Koolhoven FK-51 — vậy là có 74 trong tổng số 155 máy bay là loại hai tầng cánh. Trong số này có 125 chiếc còn đang hoạt động. Trong số còn lại thì trường không quân có sử dụng 3 chiếc Fokker D.XXI, 6 chiếc Fokker D.XVII, 1 chiếc Fokker G.I, 1 chiếc Fokker T-V và 7 chiếc Fokker C.V, cùng nhiều máy bay huấn luyện. Thêm 40 máy bay khác còn đang hoạt động phục vụ trong Bộ phận Không lực Thủy quân Lục chiến, và một số lượng tương đương máy bay huấn luyện và dự bị. Tiềm năng sản xuất của nền công nghiệp máy bay quân sự Hà Lan, với các hãng sản xuất Fokker và Koolhoven, đã không được tận dụng tối đa do những giới hạn về ngân sách.
Mặc dù Hà Lan là trụ sở của công ty Philips, một trong những nhà sản xuất thiết bị vô tuyến lớn nhất châu Âu, nhưng hầu hết quân đội Hà Lan lại chỉ sử dụng đường liên lạc điện thoại, chỉ có pháo binh được trang bị với con số khiêm tốn 225 bộ máy radio. Trước chiến tranh chỉ một số ít thanh niên đủ tiêu chuẩn bị gọi đi lính. Cho đến năm 1938 những người đi nghĩa vụ chỉ phục vụ trong 24 tuần lễ, thời gian vừa đủ để tiếp nhận khoá huấn luyện bộ binh cơ bản; từ năm đó trở đi thời gian phục vụ mới được tăng lên 11 tháng. năm 1939 có 4.469 sĩ quan chuyên nghiệp không được phong cấp. Sau đợt động viên ngày 28 tháng 8 năm 1939, dù quân lực được tăng lên khoảng 280.000 người, nhưng tính sẵn sàng chiến đấu lại được cải tiến rất chậm: phần lớn thời gian được huy động để làm công tác xây dựng hệ thống phòng ngự. Sự thiếu hụt đạn dược đã làm hạn chế công tác huấn luyện bắn đạn thật. Sự liên kết phối hợp giữa các đơn vị cũng còn kém. Trình độ của quân đội Hà Lan vào tháng 5 năm 1940 vẫn chưa đủ để tiến hành chiến tranh. Đơn giản là họ không thể tổ chức được một cuộc tấn công quy mô lớn, để đơn độc tiến hành cuộc chiến diễn tập trước đó.
Các tướng lĩnh và chiến thuật gia của Đức (cũng như bản thân Hitler) đều đánh giá thấp lực lượng của Hà Lan và tin rằng kể cả khu vực trung tâm Holland cũng có thể bị chiếm đóng chỉ trong vòng từ 3 đến 5 ngày.
Chiến lược các bên tham chiến
Chiến lược phòng thủ của Hà Lan
Phòng tuyến Grebbe với vùng ngập nước màu xanh đen Vào thế kỷ thứ 17, nước Cộng hoà Hà Lan đã nghĩ ra một hệ thống phòng thủ hiệu quả gọi là Tuyến Đường thủy Holland, có thể bảo vệ tất cả các thành phố chính ở phía tây bằng vùng đất ngập nước trong khu vực. Đầu thế kỷ 19 phòng tuyến này đã được dịch chuyển một chút về phía đông, qua thành phố Utrecht và sau đó được hiện đại hoá với các pháo đài. Vị trí mới này được gọi là Tuyến Đường thủy Holland Mới. Do các công sự đã trở nên lỗi thời vào năm 1940, nó đã được tăng cường thêm các lô cốt bê tông ngầm. Phòng tuyến nằm trên rìa xa nhất về phía đông của khu vực nằm dưới mực nước biển. Điều đó khiến cho các khu đất phía trước các công sự dễ dàng bị ngập sâu khoảng một mét nước, quá nông đối với tàu thuyền, nhưng vẫn đủ sâu để biến vùng đất thành một bãi lầy không thể vượt qua được. Khu vực phía tây của Tuyến Đường thủy Holland Mới được gọi là Pháo đài Holland, sườn phía đông của nó có hồ IJssel bao bọc còn sườn phía nam được bảo vệ bởi vùng hạ lưu của ba con sông lớn chảy song song: hai nhánh của sông Rhine, và sông Meuse (còn gọi là sông Maas). Vùng này như một chiến khu quốc gia, tại đây người ta hy vọng sẽ có thể cầm cự được một thời gian dài, theo suy đoán lạc quan nhất là trong 3 tháng mà không cần sự giúp đỡ của Đồng minh, cho dù lực lượng mà Đức huy động để tiến đánh Hà Lan được đánh giá rất cao. Trước chiến tranh đã có dự định cho quân đội rút lui về vùng này gần như ngay lập tức, sau giai đoạn tập trung (cũng được gọi là Kế hoạch xanh - Case Blue) tại Thung lũng Gelderse, kế hoạch này dựa trên hy vọng về việc Đức sẽ chỉ xâm phạm các tỉnh phía nam trên đường tiến vào Bỉ và không động tới vùng Holland. Nhưng năm 1939 nó được hiểu như một động thái mời đối phương đến xâm chiếm và sẽ khiến cho việc thương lượng với Đồng minh về một hệ thống phòng thủ chung trở nên bất khả thi. Đề xuất của giới ngoại giao Đức về việc chính phủ Hà Lan sẽ bí mật đồng thuận với một cuộc tiến quân như thế đã bị bác bỏ.
Từ tháng 9 năm 1939 đã có thêm một Phòng Tuyến Chính (Main Defence Line) được xây dựng về phía đông. Vị trí phòng thủ quan trọng thứ hai này có một phần phía bắc được tạo nên từ tuyến Grebbelinie (tuyến Grebbe), dưới chân đỉnh đồi Utrecht, một khối băng tích từ thời kỷ băng hà nằm giữa hồ IJssel và hạ lưu sông Rhine. Đây là do sự vận động của tư lệnh tập đoàn quân, trung tướng Jan Joseph Godfried van Voorst tot Voorst. Phòng tuyến này đã được kéo dài nối đến phần phía nam: Peel-Raamstelling (vị trí Peel-Raam), nằm giữa sông Maas và biên giới Bỉ dọc theo đầm lầy Peel và rạch Raam, theo lệnh của Tổng tư lệnh quân đội Hà Lan, đại tướng Izaak H. Reijnders, vì ông ta muốn ngăn chặn người Đức ở phía nam càng lâu càng tốt để yểm trợ cho cuộc tiến quân của Pháp. Quân đoàn số 4 và số 2 được bố trí tại tuyến Grebbe; quân đoàn số 3 tại cứ điểm Peel-Raam có sư đoàn Khinh binh ở phía sau bao bọc sườn phía nam; lữ đoàn A và B phối hợp tại giữa hạ lưu sông Rhine và sông Maas còn quân đoàn số 1 là lực lượng dự trữ chiến lược tại khu Pháo đài Holland, được 10 tiểu đoàn khác tăng cường ở ngoại vi phía nam và 6 tiểu đoàn ở phía đông. Tất cả các tuyến phòng ngự này đều đã được tăng cường bởi các công sự bê tông ngầm. và một lần nữa đề xuất việc tận dụng điều kiện phòng thủ lý tưởng do các con sông này tạo ra để điều chỉnh một chiến lược linh động hơn với đòn tấn công phủ đầu trước của một quân đoàn tại điểm giao lộ gần Arnhem và Gennep để buộc các sư đoàn Đức phải tổn hao nhiều sức mạnh tấn công của mình trước khi tới được Phòng Tuyến Chính và thậm chí có thể đánh bại chúng. Điều này cũng bị chính phủ coi là quá nguy hiểm, đặc biệt là trong điều kiện Đức chiếm ưu thế về không quân, và do những bất lợi trong việc chuẩn bị đầy đủ cho cả hai phòng tuyến. Những mâu thuẫn về chiến lược đã dần dần làm suy sụp sự nghiệp chính trị của Reijnders: ông ta đã bị tước bỏ mọi quyền hạn quân sự đối với hệ thống phòng ngự. Ngày 5 tháng 2 năm 1940 ông bị buộc phải từ chức và được thay thế bằng Đại tướng Henry G. Winkelman. Viên tư lệnh mới sau đó đã quyết định rằng tại phía bắc, tuyến Grebbe sẽ là phòng tuyến chủ yếu, tại đó trận đánh quyết định sẽ được diễn ra, phần nào bởi ở đây sẽ dễ dàng tạo ra đột phá với một đòn phản tấn công nếu có điều kiện thuận lợi. Tuy nhiên, ông ta lại không đưa ra được quyết định nào tương tự đối với vị trí Peel-Raam.
Trong suốt thời gian chiến tranh kỳ quặc, Hà Lan đã cố gắng bám chặt lấy chính sách trung lập triệt để. Tuy nhiên Bộ tư lệnh quân đội Hà Lan, một phần tự hành động theo ý mình, đã đàm phán bí mật với Bỉ và Pháp về việc phối hợp trong một hệ thống phòng thủ chung trong trường hợp có cuộc xâm lăng của Đức, thông qua tuỳ viên quân sự Hà Lan tại Paris, trung tá David van Voorst Evekink. Cuộc đàm phán đã thất bại do những sai khác không thể vượt qua về quan điểm chiến lược.
Bỉ, dù về cơ bản là một nước trung lập, nhưng do tầm quan trọng chiến lược rõ rệt của nó, đã lặng lẽ tiến hành những cuộc dàn xếp chi tiết về việc phối hợp hành động với quân Đồng minh. Điều này khiến Hà Lan khó khăn hơn trong việc thích ứng được với những mong muốn của họ. Họ muốn người Bỉ liên kết với tuyến phòng thủ của mình tại vị trí Peel-Raam, là nơi mà Reijnders đã không chịu rút đi mà không chiến đấu. Ông ta đã không tán thành kế hoạch của Van Voorst tot Voorst là chiếm cứ cái gọi là "vị trí Orange" trên tuyến 's-Hertogenbosch – Tilburg ngắn hơn nhiều, nhằm tạo ra một mặt trận liên hoàn với phòng tuyến Bỉ gần Turnhout như đề xuất của Đại tướng Bỉ Raoul van Overstraeten.
Khi Winkelman tiếp quản bộ tư lệnh, ông ta đã thúc đẩy cuộc đàm phán, và ngày 21 tháng 2 đã đề xuất rằng người Bỉ sẽ trấn giữ một phòng tuyến liên kết với vị trí Peel Raam dọc theo lãnh thổ Bỉ bên kênh đào Zuid-Willemsvaart. Tuy nhiên người Bỉ đã từ chối đề nghị này nếu đổi lại Hà Lan không tăng cường lực lượng tại Limburg, nhưng Hà Lan không có lực lượng nào khác để đáp ứng yêu cầu này. Đề nghị của Bỉ về vị trí Orange lại được đưa ra nhưng cũng bị Winkelman khước từ. Thế là người Bỉ quyết định là khi có cuộc xâm lăng sẽ rút toàn bộ quân đội về tuyến phòng thủ chính yếu của họ, kênh đào Albert. Điều này sẽ tạo nên một khoảng hở rất nguy hiểm rộng đến 40 kilomet, và quân Pháp đã được đề nghị đến bít kín khe hở này. Lúc này Đại tướng Tổng tư lệnh quân đội Pháp Maurice Gamelin rất có hứng thú với việc ghép thêm Hà Lan vào mặt trận liên hoàn của mình, vì giống như Bernard Montgomery 4 năm sau đó, ông ta hy vọng vào khả năng có thể đi vòng qua Westwall khi Đồng minh tiến hành cuộc tấn công dự kiến trong năm 1941. Nhưng ông ta không dám đối mặt với việc tuyến đường tiếp tế bị kéo quá dài nếu như Bỉ và Hà Lan không gia nhập phe Đồng minh trước khi Đức tấn công. Khi cả hai nước này đều từ chối, Gamelin xác định rằng ông ta sẽ cho chiếm cứ một vị trí đầu mối ở gần Breda. là bỏ vị trí Peel-Raam ngay khi bắt đầu cuộc tấn công của Đức và rút quân đoàn số 3 về Linge để bảo vệ sườn phía nam tuyến Grebbe, chỉ để lại một lực lượng bao bọc phía sau. Vị trí Waal-Linge này cũng đã được tăng cường bằng các công sự bê tông; và khoản ngân sách chi cho các công trình này đã được tăng thêm một trăm triệu guilder.
Sau khi Đức xâm chiếm Đan Mạch và Na Uy tháng 4 năm 1940, với việc Đức cho sử dụng một số lượng lớn quân không vận, bộ tư lệnh Hà Lan đã lo lắng về khả năng họ cũng có thể trở thành nạn nhân của một cuộc tấn công chiến lược tương tự. Nhằm đẩy lùi nguy cơ đó, 5 tiểu đoàn bộ binh đã được bố trí tại các cảng biển và căn cứ không quân chính, như sân bay Ypenburg tại Den Haag và sân bay Waalhaven thuộc Rotterdam. Chúng đã được tăng cường thêm pháo phòng không, 2 xe tankette và 12 trong số 24 xe thiết giáp đang hoạt động.
Mặc dù quân Pháp có tỉ lệ các đơn vị cơ giới cao hơn so với đối phương, nhưng xét theo khoảng cách phải di chuyển tương ứng thì họ không có hy vọng tiến được đến khu vực dự kiến để triển khai thế trận trước quân Đức. Hy vọng duy nhất của họ để đánh bại Đức trong lĩnh vực này nằm ở việc sử dụng các tuyến vận tải đường sắt. Trong phiên bản kế hoạch ngày 29 tháng 10, còn đề xuất việc giới hạn cuộc xâm chiếm dọc theo một giới tuyến ở phía nam Venlo, trong khi phiên bản đầu tiên ngày 19 tháng 10 vẫn còn đề cập đến khả năng về một sự chiếm đóng hoàn toàn lãnh thổ Hà Lan nếu có điều kiện thuận lợi. Ngày 15 tháng 11 năm 1939, phiên bản mới mang tên bản hướng dẫn Holland (Holland-Weisung) đã quyết định tiến hành chiếm đóng toàn bộ vùng phía nam Hà Lan, còn ở phía bắc sẽ chỉ tiến quân không quá phòng tuyến Grebbe và đánh chiếm quần đảo Wadden. Tuy nhiên, Hermann Goering nhất quyết yêu cầu một cuộc xâm chiếm hoàn toàn do ông ta cần đến những sân bay tại Hà Lan trong cuộc chiến chống lại nước Anh; ngoài ra ông ta còn lo ngại phe Đồng minh sau những thất bại cục bộ ban đầu có thể sẽ tăng cường cho khu Pháo đài Holland và sử dụng các sân bay tại đó để ném bom các thành phố và quân đội của Đức.
Ngày 17 tháng 1 năm 1940 quyết định cuối cùng được thông qua là sẽ cho xâm chiếm toàn bộ lãnh thổ Hà Lan, nhưng lúc đó có rất ít đơn vị Đức sẵn sàng cho nhiệm vụ này. Trọng tâm của Kế hoạch Vàng là nằm ở khu trung tâm, giữa Namur và Sedan. Cuộc tấn công tại miền trung nước Bỉ chỉ là một ngón đòn mồi nhử; và cuộc tấn công tại Pháo đài Holland chỉ là một bộ phận của đòn mồi nhử này. Mặc dù Cụm tập đoàn quân B đã được triển khai tại biên giới Hà Lan, nhưng lực lượng quan trọng nhất, mạnh nhất của nó là tập đoàn quân số 6 lại sẽ hành quân qua phía nam Venlo tiến vào Bỉ, chỉ còn lại tập đoàn quân số 18 dưới quyền tướng Georg von Küchler chiến đấu với quân chủ lực Hà Lan. Trong toàn bộ đội quân Đức tham gia chiến dịch, đây là lực lượng yếu kém nhất. Nó chỉ bao gồm 4 sư đoàn bộ binh chính quy (sư đoàn bộ binh số 207, 227, 254 và 256), được hỗ trợ bởi 3 sư đoàn dự bị (sư đoàn bộ binh số 208, 225 và 526) mà sẽ không tham gia vào cuộc tấn công. 6 trong số các sư đoàn này là các đơn vị "đợt ba", mới chỉ được xây dựng tháng 8 năm 1939 từ các đơn vị Landwehr (dân vệ) địa phương. Họ rất thiếu sĩ quan chỉ huy có chuyên nghiệp và có ít kinh nghiệm chiến đấu, ngoài ra 42% quân số đã ngoài 40 tuổi là cựu binh trong chiến tranh thế giới thứ nhất (tương tự như quân đội Hà Lan, 88% binh lính không được huấn luyện bài bản). Cuối cùng là sư đoàn bộ binh số 526, một đơn vị chuyên làm công tác an ninh chưa từng được đào tạo chiến đấu nghiêm chỉnh. Khi tính toán thực lực của các sư đoàn này, với lực lượng trên giấy tờ là 17.807 người, bằng một nửa bên phía Hà Lan và có gấp đôi hoả lực, ưu thế cần thiết về số lượng cho một cuộc tấn công thắng lợi là không có.
Để khắc phục vấn đề này, một vài lực lượng nhỏ lẻ và hạn chế đã được dùng để tăng cường cho tập đoàn quân số 18. Đầu tiên chỉ có duy nhất sư đoàn kỵ binh (Kavalleriedivision) số 1. Quân kỵ binh của đơn vị này, có kèm theo một số bộ binh, sẽ chiếm đóng các tỉnh có hệ thống phòng ngự yếu kém ở phía đông sông IJssel, rồi sau đó cố gắng băng qua tuyến đường Afsluitdijk và đồng thời thử đổ bộ lên Holland tại vị trí gần Enkhuizen, bằng các xà lan chiếm được ở cảng nhỏ Stavoren. Nhưng ngay cả sự bổ sung này cũng chỉ tăng cường thêm 1 và 1/3 sư đoàn trong tương quan lực lượng. Để bảo đảm thắng lợi, người Đức đã áp dụng thêm nhiều biện pháp khác.
Lúc này Đức đã huấn luyện được 2 sư đoàn không vận tấn công: sư đoàn không quân (Fliegerdivision) số 7 và sư đoàn bộ binh không vận (Luftlande-Infanteriedivision) số 22. Trước đó, khi mà mục tiêu chính của Đức vẫn còn là vùng Flanders, đã có dự định huy động các sư đoàn này vào việc vượt sông Scheldt ở đoạn gần Ghent. Kế hoạch đó nay đã bị huỷ bỏ và người Đức liền quyết định dùng 2 sư đoàn này để giành lấy một chiến thắng nhanh chóng tại Hà Lan. Ngay trong ngày đầu tiên đội quân không vận này sẽ đánh chiếm các sân bay quanh Den Haag, nơi đặt trụ sở nghị viện Hà Lan, rồi sau đó bắt sống chính phủ cùng với Bộ Tư lệnh Tối cao và Nữ hoàng Hà Lan Wilhelmina. Các sĩ quan Đức đã được huấn luyện cách xác định vị trí của các gia đình hoàng gia trong những trường hợp như vậy. Theo kế hoạch "Pháo đài" (Fall Festung) do đích thân Hitler phát triển, đầu tiên Đức sẽ cho công sứ đề nghị về một sự "bảo vệ bằng vũ trang đối với sự trung lập của Hà Lan", nói cách khác là để Hà Lan trở thành một xứ bảo hộ của Đức. Trong trường hợp không đạt tới sự quy phục ngay lập tức như mong đợi, những cây cầu tại Rotterdam, Dordrecht và Moerdijk sẽ đồng loạt bị chiếm, cho phép một lực lượng cơ giới có thể từ phía nam đánh lên, hỗ trợ cho đội quân không vận. Lực lượng này là Sư đoàn Thiết giáp số 9 với 141 xe tăng chiến đấu, đây là sư đoàn thiết giáp duy nhất của Đức chỉ có đúng 2 tiểu đoàn xe tăng - trong đó 1 tiểu đoàn không đầy đủ - trong lữ đoàn tăng duy nhất của nó. Sư đoàn này sẽ phải khoét sâu lỗ hổng trên Phòng Tuyến Chính của quân Hà Lan do sư đoàn bộ binh số 254 và 256 tạo ra (3 sư đoàn này hợp thành quân đoàn (Armeekorps) số 26) trên tuyến Gennep – 's-Hertogenbosch. buộc tập đoàn này phải lui về phía đông hoặc rút hẳn qua Pháo đài Holland. Tập đoàn quân số 18 sẽ đợi sẵn, nếu quân Hà Lan không đầu hàng ngay ngày đầu tiên, thì sẽ tràn vào Pháo đài Holland trong ngày thứ ba từ hướng nam và giành chiến thắng quyết định. Không hề có một thời gian biểu cụ thể nào cho việc tiêu diệt quân đội Hà Lan. Một số sĩ quan Đức có ác cảm đối với chế độ Quốc xã đã cùng chia sẻ sự lo lắng về cuộc xâm lược này. Trong số họ có Đại tá Hans Oster, sĩ quan của cơ quan tình báo quân sự Đức (Abwehr), một trong những nhân vật đứng đầu kháng chiến quân Đức từ năm 1938 đến 1943 (bị treo cổ sau khi âm mưu ám sát Hitler ngày 20 tháng 7 năm 1944 bị thất bại), từ tháng 3 năm 1939 đã báo cho bạn mình, Thiếu tướng Gijsbertus J. Sas, tuỳ viên quân sự Hà Lan tại Berlin về nhiều kế hoạch của Đức, trong đó có cả ngày giờ bắt đầu của Kế hoạch Vàng. Qua các tuỳ viên quân sự khác, Sas đã báo cáo lại thông tin này cho Đồng Minh. Tuy nhiên, do ngày giờ của kế hoạch bị chỉnh sửa nhiều lần do phải trì hoãn để chờ điều kiện thời tiết thuận lợi, chính phủ Hà Lan và các quốc gia khác đâm ra mất cảm giác trước những chuỗi cảnh báo sai lệch; và dự báo chính xác của Sas về thời điểm cuộc tấn công vào Đan Mạch và Na Uy đã không được để ý đến. Mặc dù ông ta đã cho biết là một sư đoàn thiết giáp Đức sẽ cố gắng tấn công Pháo đài Holland từ tỉnh Bắc Brabant và rằng đã có một số kế hoạch nhằm nhanh chóng bắt sống Nữ hoàng, chiến lược phòng thủ của Hà Lan vẫn không được chỉnh sửa cho phù hợp, họ không hiểu rằng đó là những biểu hiện của một kế hoạch lớn hơn. Ngày 4 tháng 5, Sas lại cảnh báo rằng một cuộc tấn công đã cận kề; lần này nó trùng khớp với một cảnh báo khác từ Giáo hoàng Piô XII. Tối ngày 9 tháng 5, Oster đã gọi điện cho bạn và nói "Ngày mai, lúc bình minh", thế nhưng chỉ có quân đội Hà Lan là được đặt vào tình trạng báo động.
Trận chiến
Ngày 10 tháng 5
phải|Địa lý khu vực đổ bộ: tại bờ biển là Den Haag; Rotterdam ở vị trí n, Waalhaven được đánh dấu 9 và Dordrecht đánh dấu 7; h là vùng Hollands Diep Sáng sớm ngày 10 tháng 5 năm 1940, vào lúc 5h35 theo giờ Đức (3h55 theo giờ Hà Lan), người dân Hà Lan bị đánh thức bởi tiếng động cơ máy bay gầm rú trên bầu trời. Đức Quốc xã đã mở màn Kế hoạch Vàng và đồng loạt tấn công Hà Lan, Bỉ, Pháp và Luxembourg. 6 đoàn tàu bọc thép đã vượt biên giới Hà Lan. Trong buổi sáng ngày hôm đó, bộ trưởng ngoại giao Đức Joachim von Ribbentrop đã thông báo cho Đại sứ Bỉ và công sứ Hà Lan rằng quân Đức đang tiến vào lãnh thổ của họ nhằm bảo vệ nền trung lập của họ chống lại cuộc tấn công sắp đến của quân đội Anh và Pháp. Một tối hậu thư chính thức của Đức cũng kêu gọi hai chính phủ ngăn chặn việc kháng cự. Nếu không Đức sẽ nghiền nát sự kháng cự bằng mọi cách và trách nhiệm đối việc với việc gây đổ máu "sẽ do Vương quốc Bỉ và chính phủ Hoàng gia Hà Lan gánh chịu".
Ngay từ ban đêm Không quân Đức đã xâm phạm không phận Hà Lan. Không đoàn Ném bom 4 (Kampfgeschwader 4) đã vượt qua biên giới rồi sau đó biến mất về phía tây, khiến người Hà Lan tưởng rằng đó là cuộc tiến công nhằm vào nước Anh. Nhưng tại biển Bắc chúng đã quay đầu trở lại về phía đông và tiến hành một cuộc tấn công bất ngờ vào các sân bay của Hà Lan cùng các phi đội khác. Rất nhiều máy bay Hà Lan đã bị phá hủy ngay trên mặt đất. Một số máy bay khác kịp cất cánh đã chiến đấu và bắn hạ được 13 máy bay Đức, nhưng rồi hầu hết sau đó cũng bị tiêu diệt.
phải|nhỏ|Máy bay Ju 52 của Đức bị bắn cháy ở Rotterdam
Cuộc tấn công Den Haag đã kết thúc bằng một thất bại. Lính dù đã không thể chiếm được sân bay chính Ypenburg kịp cho quân bộ binh không vận trên những chiếc máy bay Junkers có thể hạ cánh an toàn. Mặc dù có 1 chiếc xe thiết giáp đã bị thương vì trúng bom, 5 chiếc Landsverk khác, được yểm trợ bởi các ụ súng máy, đã tiêu diệt 18 chiếc Junkers trong 2 đợt tấn công đầu tiên, giết chết nhiều phi hành đoàn Đức. Sau khi các bãi đáp bị phá hủy, trong những đợt tấn công còn lại quân Đức đã cố gắng tìm kiếm một phương thức đổ bộ khác như cho đổ quân xuống các đồng cỏ hoặc trên bãi biển, và như vậy đã làm phân tán lực lượng lính dù. Sân bay phụ Ockenburg chỉ được phòng thủ sơ sài đã thất thủ trước cuộc tấn công của Đức. Sân bay Valkenburg cũng nhanh chóng bị chiếm đóng, bởi tinh thần của quân đồn trú bị suy sụp sau cuộc oanh tạc, nhưng do còn đang xây dựng dở và chưa được rải nhựa nên những chiếc máy bay hạ cánh tại sân bay này bị sa lầy trong đất mềm. Vậy là Đức không có một sân bay nào khả dĩ có thể phục vụ cho hoạt động tăng viện một cách hiệu quả. Cuối cùng quân lính dù cũng chiếm được Ypenburg nhưng không thể tiến vào Den Haag, vì bị quân Hà Lan, đã được nhanh chóng tập hợp, chặn lại. Đến chiều hôm ấy họ bị hỏa lực từ 3 khẩu đội pháo binh Hà Lan đánh tan tác. Các khẩu đội pháo Hà Lan cũng lần lượt đẩy lui được quân Đức ra khỏi 2 sân bay kia, và lực lượng tàn quân Đức còn sót lại đã phải trốn tránh tại các làng mạc và khu nhà lớn xung quanh gần đó.
phải|nhỏ|Thiệt hại của Đức tại sân bay Waalhaven
Cuộc tấn công Rotterdam đã thu được nhiều thành công hơn. 12 chiếc thủy phi cơ Heinkel He 59, chở theo 90 binh lính, đã hạ cánh tại trung tâm thành phố và đổ quân chiếm cầu Willemsbrug, cây cầu bắc qua sông Nieuwe Maas, và thiết lập một đầu cầu tại đây. Cùng lúc đó sân bay quân sự Waalhaven, nằm ở phía nam thành phố trên đảo IJsselmonde, cũng bị lực lượng không vận Đức tấn công. Tại đó, có một tiểu đoàn bộ binh Hà Lan đồn trú tại rất gần sân bay và lính dù Đức đã đổ bộ ngay gần vị trí của họ. Một cuộc hỗn chiến xảy ra. 4 chiếc máy bay Junkers trong đợt tấn công thứ nhất đã bị bắn hạ nhưng lực lượng vận tải vẫn tiếp tục cho quân đổ bộ. Cuối cùng quân phòng thủ Hà Lan và những chiếc tiểu xe tăng đã bị áp đảo. Quân Đức, được tăng viện đều đặn, bắt đầu tiến về phía đông chiếm IJsselmonde và cuối cùng bắt liên lạc được với đội quân dù có nhiệm vụ phải chiếm cây cầu trọng yếu tại Dordrecht. Mặc dù Hải quân Hoàng gia Hà Lan đã can thiệp, đầu tiên là bằng các tàu phóng thủy lôi Z5 và TM 51 tấn công Willemsbrug và sau đó là cho khu trục hạm HNLMS Van Galen tiến lên kênh đào Nieuwe Waterweg bắn phá các sân bay, nhưng chỉ đem lại kết quả là tàu Van Galen bị đánh chìm vì trúng bom. Kế hoạch điều động thêm các pháo hạm HNLMS Flores và HNLMS Johan Maurits van Nassau vào trận sau đó đã bị bác bỏ. Trên đảo Dordrecht cây cầu Dordrecht bị chiếm nhưng quân đồn trú trong thành phố quyết không đầu hàng. Các cây cầu dài Moerdijk bắc qua cửa sông Hollands Diep rộng lớn nối hòn đảo với tỉnh Noord-Brabant cũng đã thất thủ và các đầu cầu đã được thiết lập vững chắc ở cả hai bên cửa sông.
Trong lúc này, người Đức cũng đang tiến hành một kế hoạch do đích thân Hitler phê duyệt (nhưng không phải do ông ta soạn thảo) nhằm cố gắng chiếm giữ nguyên vẹn các cây cầu bắc qua sông IJssel và sông Maas, bằng cách sử dụng các đội biệt kích Brandenburgers, vốn đã thâm nhập lãnh thổ Hà Lan từ tối ngày 9 tháng 5, trước khi cuộc tấn công nổ ra. Đêm ngày 10 tháng 5 họ đã tiếp cận các cây cầu này: một số biệt kích ăn mặc đóng giả cảnh sát quân sự Hà Lan và giả vờ như đang áp giải tù binh Đức, nhằm đánh lừa các đội công binh Hà Lan. Vài người trong số "cảnh sát quân sự" này là người Hà Lan gốc, thành viên của Nationaal-Socialistische Beweging, Đảng Quốc xã Hà Lan. Thế nhưng phần lớn những cố gắng này đều thất bại và các cây cầu đều bị phá sập, ngoại trừ cây cầu đường sắt tại Gennep. Ngay sau khi chiếm được cầu, 2 đoàn tàu thiết giáp Đức đã vượt sông và băng qua vị trí Peel-Raam tại làng Mill, rồi bố trí một tiểu đoàn bộ binh tại sau lưng chốt phòng ngự này.
Người Hà Lan đã cho phát thông tin về những đội lính Đức ngụy trang trên các cơ quan thông tin quốc tế. Điều này đã làm dấy lên mối lo sợ về nguy cơ gián điệp, đặc biệt là tại Bỉ và Pháp Một cuộc oanh tạc sau đó đã phá huỷ được hầu hết các công sự này, và các sư đoàn bộ binh liền bắc cầu phao vượt sông; riêng ở một số nơi, như tại Venlo, các nỗ lực tiến công đã không có tiến triển gì. Tại Arnhem, trung đoàn Leibstandarte Der Führer trong ngày hôm đó đã dẫn đầu đoàn quân tiến được đến tuyến Grebbe, theo sau là sư đoàn bộ binh (Infanteriedivision) số 207.
Trước cả khi đoàn tàu thiết giáp Đức đến, quân đoàn số 3 đã được lên kế hoạch rút bỏ vị trí Peel-Raam mang theo toàn bộ pháo binh, ngoại trừ 36 khẩu pháo dã chiến 8 Staal, nhưng cả sáu trung đoàn đều để lại mỗi trung đoàn một tiểu đoàn để cùng với 14 tiểu đoàn biên phòng bọc hậu phía sau lưng, tạo thành "sư đoàn Peel". Việc này được dự định sẽ tiến hành trong đêm đầu tiên của cuộc xâm lăng, dưới sự che chở của màn đêm, nhưng do cuộc tiến quân của Đức quá nhanh nên đã có lệnh phái rút lui ngay lúc 6h45 sáng, để quân đoàn số 3 tránh phải đụng độ với địch. Quân đoàn này đã về hội quân với 6 tiểu đoàn đang đóng giữ tuyến Waal-Linge, gọi là "Lữ đoàn D" — và qua đó đã tăng cường lực lượng tại đây. Thế nhưng họ lại không còn một trận giao chiến trận nào nữa.
Sư đoàn Khinh binh đóng tại Vught là lực lượng dự bị cơ động duy nhất của quân đội Hà Lan. Người ta quyết định là sẽ sử dụng nó để mở cuộc phản công vào lực lượng không vận của Đức tại IJsselmonde. Vì vậy, các trung đoàn thuộc sư đoàn này đã băng qua sông Maas và sông Waal rồi rẽ trái qua vùng Alblasserwaard, để tiến đến sông Noord, con sông chia cắt vùng đất lấn biển này với đảo IJsselmonde, vào tối ngày 10 tháng 5. Tại đó họ nhận ra rằng khu vực bao quanh cây cầu độc nhất, được xây từ năm 1939, đã không bị quân không vận đánh chiếm, đơn giản vì người Đức do trang bị bản đồ đã lỗi thời nên không biết đến sự tồn tại của nó. Thế nhưng lại có quyết định cho hoãn việc vượt sông đến hôm sau để chờ pháo binh đến yểm trợ. Không có hoạt động nào nhằm thiết lập một đầu cầu được tiến hành trong ngày hôm đó.
phải|nhỏ|Cầu St. Servaasbrug tại Maastricht bị phá sập
Cũng trong tối ngày mùng 10, khoảng 22h, các đơn vị trinh sát đầu tiên thuộc Sư đoàn Cơ giới Hạng nhẹ số 1 của Pháp đã bắt đầu tiến vào lãnh thổ Hà Lan bằng xe thiết giáp Panhard 178. Sư đoàn này là bộ phận đi xa nhất về phía bắc thuộc Tập đoàn quân số 7 của Pháp; nhiệm vụ của nó là phải bảo đảm một mối liên hệ vững chắc giữa Pháo đài Holland và Antwerp. Thế nhưng các nỗ lực nhằm phối hợp cuộc tiến quân này với viên tư lệnh quân đội Hà Lan tại Noord-Brabant, Đại tá Leonard Johannes Schmidt, phần lớn đều không thành công, không chỉ vì mất liên lạc với ông ta ngày hôm ấy mà còn vì lúc này các tuyến phòng thủ của Hà Lan đã bắt đầu sụp đổ. Tại Mill, mặc dù đã có một tiểu đoàn Đức xuất hiện phía sau lưng quân phòng thủ Hà Lan, nhưng sư đoàn bộ binh 256 Đức đã bỏ lỡ cơ hội phối hợp tấn công do không xác định được vị trí của tiểu đoàn này. Cuộc tấn công vào Phòng Tuyến Chính ban đầu được dời đến ngày hôm sau vì hầu hết pháo binh vẫn chưa qua được cây cầu phao độc nhất bắc qua sông Meuse, vốn đang bị tắc nghẽn giao thông, nhưng chiều muộn hôm ấy kế hoạch đã bất ngờ thay đổi và có quyết định cho tấn công mà không có pháo binh yểm trợ ngoại trừ duy nhất một khẩu đội pháo 105 li. Không quân Đức đã cho tiến hành một cuộc oanh tạc bằng máy bay Stuka tại quân khu Mill, ngay trước cuộc tiến công và đã đánh tan tác nhiều quân phòng thủ Hà Lan, tạo nên một điểm yếu trên cả phòng tuyến, tại những nơi mà quân Hà Lan bị đánh bật ra. Quân Đức đã chưa kịp tận dụng cơ hội này nhưng đại tá Schmidt vào lúc 20h30 cũng ra lệnh bỏ vị trí Peel-Raam và lui quân về phía tây đến kênh đào Zuid-Willemsvaart.
Cuối ngày hôm ấy, ở phía bắc, sư đoàn kỵ binh số 1 Đức đã tới được tuyến Meppel – Groningen. Sự chậm trễ này chủ yếu là do các vấn để hậu cần và bởi vì các đội công binh Hà Lan đã phá sập 236 cây cầu chứ không phải tại sự chống cự yếu ớt của các đội quân biên phòng Hà Lan.
Xa nhất về phía nam, 6 tiểu đoàn biên phòng tại tỉnh Limburg không ngăn nổi cuộc tiến quân của Tập đoàn quân số 6 Đức; cho đến cuối ngày hôm đó khu vực này đã bị tràn ngập và thành phố Maastricht bị bao vây, mở đường cho Đức mở cuộc tấn công mồi nhử tiến vào miền trung nước Bỉ; tuy nhiên Đức đã thất bại trong việc chiếm giữ nguyên vẹn các cây cầu bắc qua sông sông Meuse tại đây, điều này khiến họ phải hoãn cuộc tiến quân của Sư đoàn Thiết giáp số 4 cho đến ngày hôm sau.
Ngày 11 tháng 5
Ngày 11 tháng 5 Đại tướng tư lệnh quân đội Hà Lan Winkelman có hai vấn đề cấp bách trước mắt cần giải quyết. Thứ nhất ông ta phải loại trừ các đội quân không vận của Đức. Cho dù cuộc tấn công chiến lược đã thất bại, ông vẫn lo ngại đối phương sẽ tập trung thêm quân dọc theo đường Waalhaven và biết rằng việc lực lượng không vận Đức chiếm giữ các cây cầu tại Moerdijk là một trở ngại lớn đối với việc tiếp tế của quân Đồng minh cho Pháo đài Holland. Vấn đề thứ hai liên quan mật thiết với vấn đề thứ nhất: đó là để cho quân đội Pháp thiết lập một tuyến phòng thủ mạnh tại Bắc Brabant, nhằm liên kết pháo đài Holland với quân chủ lực Đồng minh tại Bỉ.
Thế nhưng, cả hai vấn đề này đều không được giải quyết gì nhiều trong ngày hôm đó. Cuộc phản công theo kế hoạch của Sư đoàn Khinh binh vào các đội quân không vận Đức tại IJsselmonde đã bị thất bại. Lúc này Đức cho lính dù đóng giữ cây cầu bắc qua sông Noord, và khiến cho người Hà Lan không thể chiếm được nó. Nhiều cố gắng vượt sông bằng thuyền cũng chỉ thiết lập được một số đầu cầu bị cô lập, và lúc 10h15 sáng, Sư đoàn Khinh binh đã được lệnh ngừng tấn công để đi tiếp viện cho đội quân Hà Lan trên đảo Dordrecht, và họ đã tới nơi vào đêm hôm đó.
Trước đó, cùng ngày, các tiểu đoàn Hà Lan đã hai lần tiến hành công kích vào sườn phía tây của quân Đức. Tiểu đoàn thứ nhất, được rút từ biên giới Bỉ về, một phần đã vượt sông Oude Maas ở hai vị trí Oud-Beijerland và Puttershoek, phần còn lại đã cố gắng băng qua cây cầu tại Barendrecht để tiến vào IJsselmonde; tiểu đoàn thứ hai, lấy từ lực lượng của Pháo đài Holland đóng tại Hoekse Waard, đã băng qua sông Dordtse Kil để lên đảo Dordrecht bằng phà tại Wieldrecht từ hôm trước và giờ cố gắng để mở rộng đầu cầu của mình. Mặc dù cuộc vượt sông về cơ bản thành công, nhưng tiểu đoàn thứ nhất do bị thiếu pháo binh yểm trợ nên không tiến hành được trọn vẹn; bị phục kích và đánh tan tác, nhiều người bị bắt làm tù binh. Một đơn vị do thám của Pháp, nhóm trinh sát trực thuộc sư đoàn bộ binh số 12 (GRDI-Groupe de reconnaissance de division d'infanterie), vào chiều hôm đó với sự giúp đỡ của các tiểu đoàn biên phòng khác của Hà Lan đã thử tấn công vào đầu cầu phía nam Moerdijk, nhưng các xe thiết giáp thuộc đội giáp số 6 (Cuirassiers) cùng với lực lượng tiếp viện của nó đã bị các máy bay Stuka Đức oanh tạc dữ dội và phải rút lui. nhỏ|trái|Kurt Student, chỉ huy lực lượng lính dù Đức
Tại Rotterdam, dù đã được tăng cường thêm 1 trung đoàn bộ binh, nhưng những cố gắng của người Hà Lan nhằm đánh bật hoàn toàn lính dù Đức ra khỏi đầu cầu tại bờ bắc sông Maas đều thất bại. Sự rút lui của sư đoàn Peel khỏi vị trí Peel-Raam về Zuid-Willemsvaart, một con kênh đào cách đó từ 10 đến 30 km về phía tây, có nghĩa là để lại sau lưng những vị trí kiên cố, cũng như toàn bộ pháo binh và súng máy hạng nặng, để đổi lấy một phòng tuyến hoàn toàn chưa được chuẩn bị gì cả. Thêm nữa, bờ đông của con kênh đào này cao hơn phía bờ tây, tạo nên một vỏ bọc che chở tuyệt vời các đội quân tấn công. Và cuối cùng, mệnh lệnh rút lui đã không tới được với các đội quân tại Mill; khiến cho khu vực trên kênh đào ở gần Heeswijk bị hở sườn trái; do khu vực này vẫn còn một cây cầu chưa bị phá huỷ, nên quân Đức đã dễ dàng băng qua con kênh vào lúc 13h00. Cuộc vượt kênh thứ hai của Đức tại Erp đã dẫn đến sự sụp đổ của toàn bộ chiến tuyến. Đến cuối ngày 11, quân Đức đã qua được kênh Zuid-Willemsvaart tại nhiều điểm và sư đoàn Peel phần lớn đã tan rã.
Mọi hoạt động của Hà Lan ở miền nam đều được tiến hành dựa trên quan điểm cho rằng tuyến Grebbe có thể độc lập đánh bại được các cuộc tấn công; thậm chí một phần lực lượng dự bị của nó còn bị điều đi để tổ chức cuộc phản công vào các lực lượng không vận của Đức. Thế nhưng, phòng tuyến này vẫn còn tồn tại một vấn đề lớn. Các bộ phận cơ giới thuộc sư đoàn SS Standarte "Der Führer", đi trước sư đoàn bộ binh số 207, đã tới phần cực nam của tuyến Grebbe, phía trước đồi Grebbeberg, vào tối ngày mùng 10. Đoạn phòng tuyến này được chọn là tuyến tấn công chính của sư đoàn "Der Führer" do nó không có vùng nước ngập chắn phía trước. Thay vào đó người Hà Lan đã xây dựng tại đây một tuyến tiền đồn (voorpostenlinie) do 2 đại đội bộ binh trấn giữ. Vào khoảng 3 giờ rưỡi sáng ngày 11, pháo binh Đức bắt đầu bắn phá các đồn bốt này, tiếp đó vào lúc bình minh 2 tiểu đoàn thuộc sư đoàn Der Führer liền tấn công. Do cuộc pháo kích đã làm đứt các đường dây điện thoại, quân Hà Lan đã không thể kêu gọi thêm pháo binh tiếp cứu. Cuộc phòng thủ còn bị cản trở bởi thực tế địa hình khu vực vẫn chưa được dẹp hết cây cối, tạo thành những nơi ẩn nấp hiệu quả cho quân tấn công. Đến trưa Đức hoàn thành được một cuộc đột phá tại cực bắc tuyến tiến đồn và các vị trí của Hà Lan lần lượt bị đánh bọc từ phía sau. Các đại đội Hà Lan bị yếu thế về số lượng và trang bị vũ khí đã kháng cự hết mức có thể, nhưng đến tối, tất cả các đồn bốt này đã nằm trong tay quân Đức. Tư lệnh quân đoàn số 2, thiếu tướng Jacob Harberts, đã không có được hành động sáng suốt trước tình hình này. Do không biết rằng các đội quân cơ giới SS đã được tung vào trận chiến, và tin chắc rằng các đồn bốt chỉ vì sự hèn nhát của quân phòng thủ nên mới bị bao vây bởi một lực lượng thăm dò nhỏ của Đức, ông ta đã ra lệnh tiến hành một cuộc phản công ban đêm với tiểu đoàn dự bị duy nhất thuộc sư đoàn số 4. Cuộc phản công cuối cùng đã phải từ bỏ, vì khi tiếp cận, tiểu đoàn này đã bị bắn bởi hoả lực từ quân đồn trú phòng tuyến, những người không được biết về cuộc tấn công. Thế nhưng, hoả lực pháo binh dự bị ác liệt của Hà Lan cũng đã đem lại hiệu quả ngoài dự kiến là khiến cho quân Đức phải từ bỏ một cuộc tấn công dự định tiến hành trong đêm đó.
Trong khi ấy tại phía bắc, sư đoàn kỵ binh số 1 của Đức đã hành quân qua tỉnh Friesland, tiến về phòng tuyến dự bị cuối cùng của Hà Lan, tuyến Wonsstelling, và đến được Sneek vào tối hôm đó. Hầu hết quân Hà Lan đều đã được rút khỏi miền bắc qua con đường Afsluitdijk.
Ngày 12 tháng 5
Sáng ngày 12 tháng 5 Đại tướng Winkelman vẫn đang khá lạc quan. Ông ta cho rằng còn có thể thiết lập một phòng tuyến vững chắc tại Bắc Brabant với sự giúp đỡ của Pháp đồng thời tin rằng có thể loại trừ lực lượng không vận Đức, và không nhận thấy mối nguy hiểm đặc biệt nào đối với tuyến Grebbe. Và cũng trong ngày hôm đó những hy vọng này của ông ta đã hoàn toàn bị sụp đổ.
Trong 2 ngày đầu tiên, Sư đoàn Thiết giáp số 9 không có hoạt động gì đáng kể. Nó chỉ vượt qua sông Meuse vào sáng sớm ngày 11 tháng 5 và trong ngày hôm đó đã không thể tiến nhanh trên những tuyến đường đang bị tắc nghẽn do các đoàn tàu tiếp tế của những sư đoàn bộ binh. Do trận tuyến của Hà Lan đang tan rã, sư đoàn thiết giáp này giờ quyết định hành quân đi bắt liên lạc với các đội quân không vận. Quân Pháp đã không làm gì để cản trở hoạt động này. Do thiếu thời gian chuẩn bị thích hợp và do tập đoàn quân số 6 của Đức đang đe dọa bên sườn phải, Gamelin đã ra lệnh cho tập đoàn quân số 7 Pháp rút về phía nam Lữ đoàn Cơ giới Hạng nhẹ (Brigade Légère Mecanique) số 2, một phần của sư đoàn cơ giới hạng nhẹ số 1 - lúc này đã tới Tilburg, và cho ngừng cuộc tiến quân của sư đoàn bộ binh cơ g