✨Trận Orléans lần thứ hai

Trận Orléans lần thứ hai

Trận Orléans lần thứ hai là một hoạt động quân sự trong Chiến dịch tấn công Pháp của quân đội Phổ – Đức vào các năm 1870 – 1871,

Trong khi đó, đối với người Pháp, cuộc bại trận tại Orléans đã khiến cho tinh thần của binh lính bị suy nhược nghiêm trọng, đến mức nhiều binh sĩ tự nguyện làm tù binh cho người Đức. Trong nhà thờ chính tòa của Orléans, người ta đã thấy được sự phấn khởi của một số lượng lớn tù binh Pháp không bị thương (trong số đó có lính ZouavesTurcos đến từ Bắc Phi).

Vào ngày 2 tháng 12 năm 1870, trong một nỗ lực nhằm giải vây Paris, Quân đoàn XVI thuộc Binh đoàn Loire đã tấn công Phân bộ quân Đức của Mecklenburg ở Loigny-Poupry, nhưng đại bại. Ngay từ ngày 2 tháng 12, Hoàng thân Friedrich Karl của Phổ đã cử Sư đoàn Kỵ binh số 6 và Quân đoàn số 9 đến hỗ trợ cho phân bộ quân của Mecklenburg. Tổng tham mưu trưởng quân đội Phổ Helmuth Von Moltke Lớn đã ra chỉ thị trực tiếp cho Friedrich Karl phát động một cuộc tấn công vào Orléans, và mặc dù vị hoàng tử ban đầu đắn đo, sự cứng rắn của Moltke đã buộc ông phải hạ lệnh tiến công Orléans vào ngày 3 tháng 12 năm 1870. Để thực hiện kế hoạch này, Mecklenburg phải tiến đánh từ mặt trận Terminiers - Poupry tới Chevilly, và về hướng tây bắc Orléans. Trước đó, các quân đoàn IX, III và X (theo thứ tự từ phải sang trái) thuộc Binh đoàn thứ hai cũng xuất quân. Và, trong ngày 3 tháng 12, Quân đoàn IX của Liên bang Bắc Đức – dưới sự chỉ huy trực tiếp của Hoàng thân Friedrich Karl – đã tiến về hướng tây đường sắt theo Artenay, Quân đoàn III tiến theo con đường Fontainebleau, trong khi Quân đoàn X tiến theo đường Nibelle về phía con kênh Orléans. Việc thực thi nhanh chóng các vận động tinh xảo của Friedrich Karl và Mecklenburg đã đẩy vị trí phòng ngự của Paladines vào tình hình bất ổn.

Diễn biến của trận chiến

Trong cuộc tiến quân của mình, pháo binh của Quân đoàn IX của Friedrich Karl đã đánh bật quân Pháp ra khỏi làng Assas, và sau đó quân của Friedrich Karl cũng đánh bại cuộc kháng cự của quân Pháp tại Artenay và chiếm đóng ngôi làng này. Khi đánh tràn qua Artenay, họ vấp phải sự kháng cự quyết liệt của Quân đoàn XV của Pháp. Trong khi Sư đoàn số 22 của Đức đánh thọc vào sườn trái của quân Pháp, quân đội Đức cũng áp dụng các chiến thuật mà họ đã sử dụng thành công trong cuộc đại thắng ở Sedan hồi tháng 9: trước hết, họ cho lực lượng pháo binh tập trung hỏa lực bắn vào các công sự dày đặc của quân đội Pháp dọc theo lề rừng, và chỉ tấn công bằng bộ binh khi pháo lực của quân phòng ngự đã bị dập tắt. Cơn mưa đạn pháo của quân Đức đã làm cho quân Pháp choáng ngợp và hoảng loạn. Hàng ngũ quân Pháp bắt đầu tan rã, và cuộc phòng ngự của Quân đoàn XV – đội hình được huấn luyện và trang bị tốt nhất của d'Aurelle – đã bị đánh tan tành. Sau khi đánh bại Quân đoàn XV của Pháp, lực lượng tiền vệ của Quân đoàn IX của Đức đã hối hả kéo tới Chevilly, chỉ để phát hiện ra rằng nơi đây đã bị các lực lượng của Đại Công tước xứ Mecklenburg chiếm giữ.

Tướng Ludwig von Wittich – tư lệnh Sư đoàn số 22 của Đức thuộc Phân bộ quân Mecklenburg – vốn đã ra lệnh chiếm đóng Chevilly. Trong thời gian này, Quân đoàn III của Liên bang Bắc Đức, hành binh qua Chilleurs aux Bois, đến được Loury, và Quân đoàn X cũng kéo tới tận Nibelle. Trước tình hình Quân đoàn XV phải chống chọi với sự công kích của 3 quân đoàn Phổ, các đội quân được tuyển mộ của Pháp đã không có động thái gì để cứu viện cho Quân đoàn XV trong suốt bước tiến của quân Phổ. Chỉ có mỗi tướng Antoine Chanzy, khi nghe tiếng súng từ Artenay vào lúc 2 giờ chiều, đã hạ lệnh cho Sư đoàn số 2 của Quân đoàn XVI tiến bước. Tuy nhiên, Sư đoàn số 17 của Phổ phối hợp với Quân đoàn Bayern bằng hỏa lực pháo binh mạnh mẽ đã bẻ gãy cuộc tiến công của Sư đoàn số 2 của Pháp, và đánh chiếm được một số vị trí. Như đã nêu, phân bộ quân của Mecklenburg cũng đã tới Chevilly, vì thế cho đến đêm ngày 3 tháng 12, quân chủ lực của Hoàng thân Friedrich Karl – với 10.000 binh lính – đã được tập trung trên một mặt trận chỉ kéo dài từ Chevilly đến Loury. Trước sự bại trận của các lực lượng Pháp tại Orléans, tướng D'Aurelle des Paladines nhận thấy rằng một cuộc tiến công quy mô lớn vào Paris cần phải bị loại bỏ. Mặc dù những người lính trẻ tuổi dưới quyền ông ta đã chiến đấu dũng cảm trong những ngày gần đây, binh đoàn của ông ta được tổ chức một cách tệ hại (thực ra đây là lực lượng mạnh nhất mà nền Cộng hòa Pháp đã tuyển mộ). D'Aurelle cho rằng nên triệt binh về Sologne – một vùng rừng ở phía nam sông Loire, và ý định của ông đã gây chp Chính phủ Pháp tại Tours nổi giận. Mặt khác, ông quyết định trụ lại ở gần Orléans, và ngoài Quân đoàn XV, ông cũng triển khai các Quân đoàn XX và XVIII từ cánh phải, cùng với các Quân đoàn XVI và XVII. Trong khi đó, Friedrich Karl tiếp tục chiến dịch của mình vào đầu ngày 4 tháng 12.

Ở cánh cực tả, phân bộ quân của Mecklenburg tiến đánh Orléans qua giữa các con đường từ Châteaudun và Chartres. Trong khi đó, ở cánh trái của ông, Quân đoàn IX của Bắc Đức hành quân qua Chevilly, với một chi đội bảo vệ sườn ở bên trái tiến qua St. Lyé. Quân đoàn III của Bắc Đức cũng xuất quân từ Loury xuống St. Loup, bao vây Orléans từ phía đông, trong khi Quân đoàn X của Đức hành binh dọc theo con kênh Orléans xuống Vitry aux Loges. Sư đoàn kỵ binh của tướng Hartmann cũng tiến quân giữa Quân đoàn III và Quân đoàn X. Cho tới lúc chạng vạng, quân chủ lực của Đức đã hội tụ xung quanh Orléans. Sau khi bị hỏa lực của pháo binh Đức đánh bật, Quân đoàn XV của Pháp đã chống cự ác liệt trên đoạn đường sắt từ Paris đến Orléans. Nhưng, đây chỉ là một ngoại lệ: cả bốn quân đoàn khác của Pháp ở bên phải và trái đều đang triệt thoái về phía sau theo lệnh d'Aurelle. Trong khi các Quân đoàn XX và XVIII đều rút lui theo đường Jargeau và Sully, các Quân đoàn XVI và XVII của Pháp đều rút lui theo đường Meung và Beaugency. Họ chỉ đối chọi với người Đức bằng các đội hậu quân đủ mạnh để yểm trợ cuộc triệt binh. Trong suốt cuộc hành quân xuống Orléans vào ngày hôm ấy, quân lực của Đại Công tước xứ Mecklenburg hầu như chưa hề giao chiến, do đường rút lui của quân cánh trái của Pháp thực sự đã rút quân của Mecklenburg ra khỏi tuyến hành quân của Đức. Các Quân đoàn III và X của Đức, cùng với Sư đoàn kỵ binh Hartmann, chỉ đụng độ với các chi đội yếu ớt của Pháp, nhưng, cuộc hành binh của họ khó khăn ở chỗ là họ phải tiến qua khu rừng Orléans, và khi ấy họ không thể nào nắm bắt được thực lực của đối phương.

Trận chiến tại Orléans cũng làm tiêu tan hy vọng của người Pháp về kỵ binh thuộc địa Pháp đến từ châu Phi như là một đối thủ của lực lượng kỵ binh Phổ. Ngoài Orléans, đội kỵ binh Phổ dưới quyền chỉ huy của Hoàng thân Albrecht đã đánh bật và hầu như là tiêu diệt hoàn toàn một toán kỵ binh người gốc Bắc Phi (Spahis) của Pháp. Vào buổi tối ngày 4 tháng 12, Hoàng thân Friedrich Karl của Phổ đã thiết lập tổng hành dinh tại Cercottes.

Quân Pháp rút chạy khỏi Orléans

Sau khi tiến sát đến Orléans, quân đội Phổ đã dựng nên các khẩu đội pháo nhằm vào thành phố. Hoàng thân Friedrich Karl đã yêu cầu tướng Martin de Pallières – người chỉ huy quân đội Pháp bên trong Orléans – phải đầu hàng, nếu không thì lực lượng pháo binh Phổ sẽ oanh tạc thành phố.

Trước sự hợp vây của quân đội Đức, sự chống cự của quân Pháp là vô vọng. Pallières biết rằng cả cánh trái và cánh phải của quân Pháp đều không thể kết hợp với tàn binh của Quân đoàn XV để phòng ngự kịp thời trước một cuộc tổng tấn công của người Đức, do đó, viên tướng này đã triệt thoái ra khỏi Orléans trong đêm ngày 4 – 5 tháng 12 năm 1870, sau khi đã bịt miệng các khẩu pháo hạng nặng của hải quân ở các công sự phía trước thành phố. Pallières đã rút quân về hữu ngạn sông Loire, như vậy Orléans một lần nữa rơi vào tay quân Đức.

Vào đầu ngày 5 tháng 12, các chi đội thuộc phân bộ quân của Đại Công tước xứ Mecklenburg, sau đó là Quân đoàn IX, và cuối cùng là Quân đoàn III, đã tiến vào Orléans. Về phần mình, Hoàng thân Friedrich Karl cũng dời tổng hành dinh vào lúc trưa. Nhưng trước đó, sau khi hay tin quân Pháp sẽ rút chạy khỏi Orléans, vị hoàng thân của Phổ đã xuống lệnh cho các chi đội truy đuổi đối phương theo mọi hướng quan trọng: tiến theo con sông về phía Gien, tiến theo con suối về phía Blois và Tours, hoặc là theo một con đường ở giữa hai đường này, qua Sologne xuống Vierzon và Bourges. Sự bố trí của đội hình này đã chia rẽ Binh đoàn Loire của Pháp ra làm hai cánh – một cánh trên sông Loire ngược lên trên Orléans, bao gồm không chỉ Quân đoàn XVIII và XX, mà cả Quân đoàn XX vốn không còn có khả năng rút chạy về hướng tây, còn một cánh ở phía dưới Orléans, bao gồm các Quân đoàn XVI và XVII, vốn đang đối diện với Đại Công tước xứ Mecklenburg, và cả Quân đoàn XXI – một quân đoàn được đưa đến để tăng viện cho các quân đoàn nêu trên nhưng chưa hề tham gia trận chiến. Đêm hôm đó, Léon Gambetta – Bộ trưởng Nội vụ Pháp – đã nhận được thông điệp của Pallières về việc quân đội Pháp từ bỏ Orléans.

Như vậy, Binh đoàn Loire của Pháp, vốn mang trọng trách giải vây cho Paris, không những bị đẩy bật về phía sau sông Loire mà còn bị cắt đôi. Sự hội tụ của hai đạo quân của Binh đoàn Loire chỉ có thể được thực hiện thông qua việc hành binh gấp rút về một địa điểm nào đó ở phía sau. Trong khi chiến thắng Orléans đã mang lại hy vọng cho người Đức về tương lai của cuộc chiến, d'Aurelle đã trở nên mất lòng người sau khi Orléans thất thủ, nhất là đối với giới tăng lữ.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Trận Orléans lần thứ hai** là một hoạt động quân sự trong Chiến dịch tấn công Pháp của quân đội Phổ – Đức vào các năm 1870 – 1871, Trong khi đó, đối với người
**Trận Le Mans** diễn ra từ ngày 10 cho đến ngày 12 tháng 1 năm 1871 trong cuộc Chiến tranh Pháp-Đức (1870 – 71), khi Tập đoàn quân số 2 (Đức) do Thân vương Friedrich
Quân Đức diễn hành tại Paris **Mặt trận phía tây** của chiến trường châu Âu trong Chiến tranh thế giới thứ hai bao gồm các trận chiến trên lãnh thổ của Đan Mạch, Na Uy,
**Danh sách các trận chiến** này được liệt kê mang **tính địa lý, theo từng quốc gia với lãnh thổ hiện tại**. ## Áo * Trận đồng Marchfeld (**Trận Dürnkrut và Jedenspeigen**) - 1278 *
phải|Quân [[Liên bang miền Bắc Hoa Kỳ|Liên bang miền Bắc xung phong]]Trong 4 năm của cuộc Nội chiến Hoa Kỳ quân Liên bang miền Bắc và quân Liên minh miền Nam đánh nhau trong nhiều
**Friedrich Karl Nikolaus của Phổ** (1828 – 1885) là cháu trai Wilhelm I – vị hoàng đế khai quốc của đế quốc Đức – và là một Thống chế quân đội Phổ-Đức. Ông thường được
**Trận Agincourt** (; ) là một trận đánh tiêu biểu trong chiến tranh Trăm Năm giữa Anh với Pháp. Trận đánh diễn ra ngày 25 tháng 10 năm 1415 (Ngày Thánh Crispin) gần Azincourt, ở
**Hải quân Pháp** (tiếng Pháp: _Marine nationale_), tên gọi không chính thức là **La Royale**, là lực lượng hải quân của Lực lượng Vũ trang Pháp. Được thành lập từ năm 1624, Hải quân Pháp
**Karl Konstantin Albrecht Leonhard von Blumenthal** (20 tháng 7 năm 1810 – 21 tháng 12 năm 1900), từ năm 1883 còn được gọi là **Bá tước** (_Graf_) **von Blumenthal**, là một Thống chế Phổ –
**Albert Ehrenreich Gustav von Manstein** hoặc Albert Gustav von Manstein (24 tháng 8 năm 1805 – 11 tháng 5 năm 1877) là một tướng lĩnh quân đội Phổ, đã có nhiều đóng góp đến việc
**Edmund Joseph Dejanicz von Gliszczynski** (17 tháng 3 năm 1825 tại Breslau – 15 tháng 10 năm 1896 tại thái ấp _Rittergut_ Kostau gần Kreuzburg, tỉnh Schlesien) là một chủ điền trang, đại diện Đảng
**USS _New Orleans_ (CA-32)** (trước là **CL-32**) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Hoa Kỳ, là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó. Tên của nó được đặt theo thành phố
**Lớp tàu tuần dương _New Orleans**_ là một lớp bao gồm bảy tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Hoa Kỳ trong những năm 1930, và là những chiếc tàu tuần dương cuối cùng
**Trận Villiers**, còn gọi là **Trận Champigny-Villiers**, **Trận Champigny** hay **Trận Đại đột vây từ Paris**, diễn ra từ ngày 29 tháng 11 cho tới ngày 3 tháng 12 năm 1870 khi quân đội Phổ-Đức
**Philippe I xứ Orléans** (; 21 tháng 9 năm 1640   - 9 tháng 6 năm 1701), còn gọi là **Philippe của Pháp** (), là con trai của Louis XIII và Ana của Tây Ban
**Louis Philippe I, Công tước xứ Orléans** còn được gọi là **le Gros** (Béo) (12 tháng 5 năm 1725 - 18 tháng 11 năm 1785) là một thân vương người Pháp, công tước đời thứ
**Louis Philippe II xứ Orléans** (_Louis Philippe Joseph_; 13 tháng 4 năm 1747 – 6 tháng 11 năm 1793) là một nhà quý tộc lớn của Vương quốc Pháp thuộc Vương tộc Orléans, một nhánh
**Petar I** (;  – 16 tháng 8 năm 1921) là Vua của Vương quốc Serbia từ ngày 15 tháng 6 năm 1903 đến ngày 1 tháng 12 năm 1918. Ngày 1 tháng 12 năm 1918,
**Friedrich Franz II** (1823-1883) là một quý tộc và tướng lĩnh của quân đội Phổ. Ông cũng là Đại Công tước của Mecklenburg-Schwerin từ ngày 7 tháng 3 năm 1842 cho tới khi từ trần
**USS _Wallace L. Lind_ (DD-703)** là một tàu khu trục lớp _Allen M. Sumner_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất
**László Bölöni** (; sinh ngày 11 tháng 3 năm 1953) là một huấn luyện viên và cựu cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người România. Sau khi bắt đầu sự nghiệp tại ASA Târgu Mureș,
**Trận Appomattox Court House**, xảy ra vào sáng ngày 9 tháng 4 năm 1865, là trận giao tranh cuối cùng của Binh đoàn Bắc Virginia dưới quyền chỉ huy của đại tướng Liên minh miền
**Hải quân Hoa Kỳ** (viết tắt: **USN**) là một quân chủng của Quân đội Hoa Kỳ và là một trong tám lực lượng vũ trang chuyên nghiệp của Hoa Kỳ. Tính đến năm 2018, Hải
**Mihai I của România** (tiếng România: _Mihai I al României_ ; 25 tháng 10 năm 1921 – 5 tháng 12 năm 2017) là vị vua cuối cùng của Vương quốc România, trị vì từ ngày
**Chiến tranh Afghanistan - Anh lần thứ nhất** là cuộc chiến giữa Công ty Đông Ấn Anh và Tiểu vương quốc Afghanistan từ năm 1839 đến 1842. Nó nổi tiếng với việc thảm sát 4.500
**Georg Leo Graf von Caprivi de Caprera de Montecuccoli** (tên khai sinh là **Georg Leo von Caprivi**; 24 tháng 2 năm 1831 – 6 tháng 2 năm 1899) là một Thượng tướng Bộ binh và
** Trận Ladon và Mézières** là một hoạt động quân sự là một hoạt động quân sự trong chiến dịch tấn công Pháp của quân đội Phổ – Đức trong các năm 1870 – 1871
Wolf Louis Anton **Ferdinand von Stülpnagel** (10 tháng 1 năm 1813 tại Berlin – 11 tháng 8 năm 1885 tại Brandenburg) là một Thượng tướng Bộ binh và Kinh nhật giáo sĩ (_Domherr_) vùng Brandenburg
**Richard Georg von Wedell** (17 tháng 5 năm 1820 tại Augustwalde, quận Naugard – 27 tháng 3 năm 1894 tại Leer (Ostfriesland)) là một sĩ quan quân đội Phổ, đã được thăng đến cấp Trung
phải|nhỏ|Tướng Gustav von Stiehle **Friedrich Wilhelm Gustav Stiehle**, sau năm 1863 là **von Stiehle** (14 tháng 8 năm 1823 tại Erfurt – 15 tháng 11 năm 1899 tại Berlin) là một sĩ quan quân đội
**Trận Palmito Ranch**, còn gọi là **Trận Palmetto Ranche**, song cũng phải chịu tổn thất tương đương Lý do tại sao cuộc nổ súng tại Palmito Ranch xảy ra không được ghi rõ và vấn
**Trận Monnaie**, hay còn gọi là **Trận Tours** là một hoạt động quân sự trong chiến dịch tấn công Pháp của quân đội Phổ – Đức trong các năm 1870 – 1871, đã diễn ra
**Wardell Stephen Curry II** ( ; sinh ngày 14 tháng 3 năm 1988) hay còn được gọi là **Steph Curry**, là một cầu thủ bóng rổ chuyên nghiệp người Mỹ chơi cho Golden State Warriors
**Bão Katrina** là cơn bão thứ 11 được đặt tên và bão cuồng phong thứ năm mùa bão Bắc Đại Tây Dương 2005. Katrina là cơn bão gây thiệt hại vật chất khá lớn, và
phải|nhỏ|Hình ảnh mô tả cảnh Charles bị giam cầm trong Tháp Luân Đôn từ một bản thảo được phát hiện về các bài thơ của ông **Charles I xứ Orléans** (24 tháng 11 năm 1394
**USS _Arkansas_ (BB-33)** là một thiết giáp hạm của Hải quân Hoa Kỳ, là chiếc thứ hai trong lớp _Wyoming_ vốn bao gồm hai chiếc. Nó là chiếc tàu chiến thứ ba của Hải quân
**Philippe III** (1 tháng 5 năm 1245 – 5 tháng 10 năm 1285), còn được biết tới với biệt danh là **Táo bạo** (), là Vua của Pháp từ năm 1270 cho đến khi
**María de las Mercedes của Tây Ban Nha, María de las Mercedes của Orléans, María de las Mercedes de Orleans y Borbón hay Mercedes của Orléans** (tiếng Tây Ban Nha: _María de las Mercedes de
Nội chiến Hoa Kỳ diễn ra tại nhiều nơi trong hai vùng chiến lược chính, Mặt trận miền Tây và Mặt trận miền Đông. Ngoài ra còn có mặt trận vùng sông Mississippi, bờ biển
thumb|right|upright=1.35|[[Trận Little Bighorn được biết đến với cái tên Cuộc tử thủ của Custer]] Thảm họa quân sự là một bên thất bại trong trận chiến hoặc chiến tranh dẫn đến việc bên thua cuộc
**Trận Mogadishu,** hay còn được biết đến qua sự kiện **Diều hâu Gãy cánh** (tiếng Anh: **Black Hawk Down**), là một trận chiến đấu giữa 160 lính đặc nhiệm của Quân đội Hoa Kỳ, được
**USS _Iowa_ (BB-61)** (biệt danh "The Big Stick") là thiết giáp hạm đầu tiên của lớp _thiết giáp hạm Iowa_ và là chiếc tàu chiến thứ tư của Hải quân Hoa Kỳ được đặt tên
**Innsbruck** (, /ˈɪnʃprʊk/) là thủ phủ của bang Tirol miền tây nước Áo và là thành phố lớn thứ năm ở Áo. Thành phố này nằm ở vùng sông Inn giao với thung lũng Wipptal
**Kristina của Thụy Điển** (tiếng Thụy Điển: _Drottning Kristina_; 18 tháng 12, năm 1626 - 19 tháng 4, năm 1689) là Nữ vương của Thụy Điển từ năm 1632 cho đến khi bà thoái
**USS _Tripoli_ (CVE-64)** là một tàu sân bay hộ tống lớp _Casablanca_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai; tên nó được đặt theo thành phố Tripoli, Libya
**USS _Guitarro_ (SS-363)** là một tàu ngầm lớp _Gato_ từng phục vụ cùng Hải quân Hoa Kỳ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến đầu tiên của Hải quân Hoa
**Charles Maurice de Talleyrand-Périgord** (1754-1838) là một nhà chính trị, một nhà ngoại giao người Pháp thời cận đại. Ông nổi lên như là một nhân vật khôn ngoan, quyền biến và có ảnh hưởng
**USS _Guardfish_ (SS-217)** là một tàu ngầm lớp _Gato_ từng phục vụ cùng Hải quân Hoa Kỳ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến đầu tiên của Hải quân Hoa
**Chiến dịch Hailstone** (tiếng Nhật:トラック島空襲, _Torakku-tō Kūshū,_ tức _Không kích tại Đảo Truk_) là một chiến dịch không kích/bắn phá lớn của Hải quân Hoa Kỳ nhằm vào lực lượng Hải quân Đế quốc Nhật
**Tập đoàn quân Không vận số 1 Đồng minh** (tiếng Anh: _First Allied Airborne Army_) là một đại đơn vị tác chiến của lực lượng Đồng minh tại Mặt trận phía Tây trong Thế chiến