✨Philippe III của Pháp

Philippe III của Pháp

**Philippe III** (1 tháng 5 năm 1245 – 5 tháng 10 năm 1285), còn được biết tới với biệt danh là **Táo bạo** (), là Vua của Pháp từ năm 1270 cho đến khi ông qua đời vào năm 1285. Cha ông, Louis IX đã qua đời ở Tunis trong cuộc Thập tự chinh lần thứ 8. Philippe, người đi cùng ông, trở về Pháp và được xức dầu làm vua tại Reims vào năm 1271.

Philippe được thừa kế nhiều vùng đất lãnh thổ trong thời gian trị vì của mình, đáng chú ý nhất là hạt Toulouse khi lãnh địa này được sáp nhập vào lãnh thổ hoàng gia vào năm 1271. Với Hiệp ước Orléans, ông đã mở rộng ảnh hưởng của Pháp sang tận Vương quốc Navarra. Sau khi người em trai Peter của ông bị giết trong sự kiện Kinh chiều của người Sicilia, hạt Alençon đã được trả lại cho vương quốc Pháp.

Sau sự kiện Kinh chiều của người Sicilia, Philippe đã lãnh đạo cuộc Thập tự chinh của người Aragon với sự hỗ trợ từ người chú của mình. Tuy có được bước đầu thành công nhưng sau đó Philippe cùng đội quân của ông đã dính dịch bệnh nên buộc phải rút lui. Ông qua đời vì bệnh kiết lỵ ở Perpignan vào năm 1285. Ông được kế vị bởi con trai của mình là Philippe IV.

Đầu đời

nhỏ|Hình ảnh đã chụp - Grab Philipp III. Philippe sinh ra tại Poissy vào ngày 1 tháng 5 năm 1245. Ông là con trai thứ hai của Vua Louis IX của Pháp và vương hậu Marguerite xứ Provence. Là con trai thứ, Philippe không có kỳ vọng nối ngôi vua cha. Tuy nhiên, sau cái chết của người anh trai cả là hoàng tử Louis vào năm 1260, ông đã trở thành trữ quân.

Mẹ của Philippe, Marguerite, đã ép ông phải hứa sẽ duy trì sự giám hộ của bà cho đến năm 30 tuổi, tuy nhiên Giáo hoàng Urbanô IV đã để ông rời khỏi lời tuyên thệ này vào ngày 6 tháng 6 năm 1263. Kể từ thời điểm đó, Pierre de la Broce, một quan chức thân cận vốn được hoàng gia tin tưởng sẽ là người giáo dục của Philippe. Cha của ông, Louis, cũng cho ông những lời khuyên dạy bảo, đặc biệt là Louis đã viết Enseignements, trong đó cuốn sách khắc sâu khái niệm công lý như nghĩa vụ đầu tiên của một vị vua.

Theo các điều khoản của Hiệp ước Corbeil (1258) được ký kết vào ngày 11 tháng 3 năm 1258 giữa Louis IX và Jaime I của Aragon, Philippe đã kết hôn vào năm 1262 với Isabel của Aragon ở Clermont bởi tổng giám mục của Rouen, Eudes Rigaud.

Thập tự chinh

liên kết=//upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/thumb/a/aa/Livre des faiz monseigneur saint Loys - BNF Fr2829 f82r (procession funèbre de Louis IX).jpg/220px-Livre des faiz monseigneur saint Loys - BNF Fr2829 f82r (procession funèbre de Louis IX).jpg|phải|nhỏ| Hình miêu tả Philippe (cưỡi ngựa) đang đưa hài cốt của cha ông trở về Pháp. Bản thảo được công bố cuối thế kỷ 15 Với tư cách là Bá tước xứ Orléans, Philippe đã đồng hành cùng cha mình trong cuộc Thập tự chinh lần thứ tám tới Tunis vào năm 1270. Không lâu trước khi rời Pháp tham gia thập tự chinh, Louis IX đã trao quyền nhiếp chính vương quốc vào tay Mathieu de Vendôme và Simon II, Bá tước Clermont, người mà ông cũng đã giao phó con dấu hoàng gia. Sau khi chiếm Carthage, quân đội đã bị một trận dịch kiết lỵ tấn công, khiến cả gia đình Philippe gần như đều không qua khỏi. Em trai của ông, Jean Tristan, Bá tước Valois qua đời đầu tiên vào ngày 3 tháng 8. Sau đó vào ngày 25 tháng 8, nhà vua Louis cũng qua đời. Để tránh việc hài cốt của Louis bị thối rữa, người ta quyết định thực hiện phong tục an táng mos Teutonicus, trong đó có quá trình loại bỏ phần thịt từ xương người để việc vận chuyển hài cốt trở nên thuận lợi hơn.

Philippe khi đó chỉ mới 25 tuổi và đã mắc bệnh kiết lỵ, ông được phong làm vua ở Tunis. Chú của ông, Charles I của Napoli, đã thương lượng với Muhammad I al-Mustansir, một Khalip của triều đại Hafsid ở Tunis. Một hiệp ước đã được ký kết vào ngày 5 tháng 11 năm 1270 giữa các vị vua của Pháp, Sicilia, Navarra và khalip của Tunis.

Sau đó, nhiều người trong hoàng gia cũng qua đời. Vào tháng 12, tại Trapani, Sicilia, anh rể của Philippe, Vua Thibaut II của Navarra qua đời. Vào tháng 2, vợ của Philippe, là Isabel đi sau Thibaut cũng bị ngã ngựa khi đang mang thai đứa con thứ năm, sau đó qua đời ở Cozenza (Calabria). Vào tháng 4, góa phụ của Thibaut và cũng là chị gái của Philippe, Isabelle cũng qua đời.

Philippe III đến Paris vào ngày 21 tháng 5 năm 1271, và bày tỏ lòng kính trọng đối với những người đã khuất. Ngày hôm sau, tang lễ của cha ông được tổ chức. Vị quốc vương mới lên ngôi vua của Pháp tại Reims vào ngày 15 tháng 8 năm 1271.

Trị vì

Philippe vẫn duy trì bảo đảm lại hầu hết các chính sách đối nội của cha mình từng thi hành. Điều này bao gồm các sắc lệnh hoàng gia được cha ông thông qua chống lại chiến tranh giữa các lãnh chúa năm 1258, được ông củng cố bằng cách thông qua sắc lệnh của chính mình vào tháng 10 năm 1274. Philippe tiếp bước cha mình liên quan đến vấn đề người Do Thái tại Pháp, khi ông tuyên bố lòng mộ đạo là động lực của mình. Khi trở về Paris ngày 23 tháng 9 năm 1271, Philippe ban hành lại sắc lệnh của cha mình rằng người Do Thái phải đeo huy hiệu riêng biệt. Hiến chương của ông năm 1283 đã thi hành lệnh cấm xây dựng và sửa chữa các giáo đường Do Thái và nghĩa trang của người Do Thái, cấm người Do Thái thuê mướn người theo đạo Thiên chúa, và tìm cách kiềm chế tính cách người Do Thái (tụng kinh quá lớn).

Vào ngày 21 tháng 8 năm 1271, chú của Philippe là Alphonse, vị Bá tước xứ Poitiers và Toulouse đã qua đời mà không để lại hậu duệ ở Savona. Philippe thừa kế các vùng đất của Alphonse và hợp nhất chúng với lãnh thổ hoàng gia. Quyền thừa kế này bao gồm một phần của Auvergne, sau này là Công quốc Auvergne và Agenais. Theo nguyện vọng của Alphonse, Philippe đã trao Comtat Venaissin cho Giáo hoàng Grêgôriô X vào năm 1274. Vài năm sau, Hiệp ước Amiens (1279) được kí kết với Vua Edward I của Anh đã trả lại lại Agenais cho người Anh.

Vào ngày 19 tháng 9 năm 1271, Philippe chỉ huy nguyên lão của Toulouse ghi lại những lời thề trung thành từ các quý tộc và hội đồng thị trấn. Năm sau, Roger-Bernard III, Bá tước Foix, xâm lược hạt Toulouse để giết một số quan chức hoàng gia, và chiếm thị trấn Sombuy. Nguyên lão hoàng gia của Philippe, Eustache de Beaumarchès, đã dẫn đầu một cuộc phản công vào hạt Foix, cho đến khi Philippe ra lệnh rút lui. Philippe và quân đội của ông đến Toulouse vào ngày 25 tháng 5 năm 1272, và vào ngày 1 tháng 6 tại Boulbonne gặp James I của Aragon, người đã cố gắng hòa giải vấn đề, nhưng điều này đã bị Roger-Bernard từ chối. Philippe sau đó tiến hành một chiến dịch tàn phá và đuổi toàn bộ người dân khỏi hạt Foix. Đến ngày 5 tháng 6, Roger-Bernard đầu hàng, bị giam tại Carcassonne, và còn bị xích. Philippe đã bỏ tù ông ta một năm, nhưng sau đó trả tự do và trả lại vùng đất của Roger-Bernard.

Hiệp ước với Navarra

Sau khi Vua Enrique I của Navarra qua đời vào năm 1274, Alfonso X của Castila đã cố gắng giành lấy ngai vàng Navarra từ người thừa kế của Enrique, nữ vương Juanna mới 1 tuổi. Fernando de la Cerda, con trai của Alfonso X, đến Viana cùng với một đội quân. Cùng lúc đó, Alfonso tìm kiếm sự chấp thuận của Giáo hoàng cho cuộc hôn nhân giữa một trong những cháu trai của ông và Juanna. Góa phụ của Enrique là Blanche xứ Artois, cũng nhận được lời cầu hôn Juanna từ Anh và Aragon. Đối mặt với một đội quân xâm lược và các yêu sách đòi cầu hôn từ nước ngoài, Blanche đã tìm kiếm sự trợ giúp từ người anh họ của bà, chính là Philippe. Philippe thấy được lợi ích từ lãnh thổ, bù lại Juanna sẽ có sự hỗ trợ quân sự để bảo vệ vương quốc của mình. Hiệp ước Orléans năm 1275, giữa Philippe và Blanche, đã dàn xếp cuộc hôn nhân giữa những con trai của Philippe (Louis hoặc Philippe) và con gái của Blanche, Juanna. Hiệp ước đưa ra rằng Navarra sẽ được quản lý từ Paris bởi các thống đốc được bổ nhiệm. Đến tháng 5 năm 1276, các thống đốc Pháp đã đi khắp Navarra để thu thập những lời thề trung thành với vị nữ hoàng trẻ. Dân chúng Navarra đã không hài lòng với hiệp ước thân Pháp và các thống đốc Pháp, liền thành lập hai phe nổi loạn, một phe ủng hộ người Castilia, còn phe kia ủng hộ Aragon.

Cuộc nổi dậy của người Navarra

Vào tháng 9 năm 1276, Philippe, đối mặt với cuộc nổi dậy công khai. Ông đã cử Robert II, Bá tước Artois đến Pamplona cùng với một đội quân để bình ổn chính trị. Philippe đến Bearn vào tháng 11 năm 1276 cùng với một đội quân khác, lúc đó Robert đã ổn định được tình hình và lấy lời tuyên thệ bày tỏ lòng kính trọng từ các quý tộc và lâu đài người Navarra. Mặc dù cuộc nổi dậy nhanh chóng được bình định, nhưng phải đến mùa xuân năm 1277, các Vương quốc Castila và Aragon mới từ bỏ ý định giao ước hôn nhân của họ. Philippe nhận được lời quở trách chính thức từ Giáo hoàng Nicôla III vì những thiệt hại gây ra trên khắp Navarra.

Sự kiện Kinh chiều của người Sicilia

Năm 1282, Vua Pedro III của Aragon xâm lược Sicilia, thúc đẩy cuộc nổi dậy của những người tham gia sự kiện kinh chiều của người Sicilia chống lại Vua Charles I của Napoli, chú ruột của Philippe. Sự thành công của cuộc nổi dậy và cuộc xâm lược đã dẫn đến sự đăng quang của Pedro làm vua của Sicilia vào ngày 4 tháng 9 năm 1282. Giáo hoàng Máctinô IV đã ra vạ tuyệt thông cho Pedro và ra tuyên bố tước đoạt vương quốc của ông. Máctinô sau đó trao Aragon cho con trai của Philippe, Charles, Bá tước Valois. Em trai của Philippe là Peter, Bá tước Perche, người đã cùng Charles dẹp loạn, nhưng sau đó bị giết ở Reggio Calabria. Ông qua đời mà không để lại hậu duệ nên hạt Alençon được sát nhập vào lãnh địa của hoàng gia vào năm 1286. liên kết=//upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/thumb/a/aa/MariaofBrabantMarriage.jpg/220px-MariaofBrabantMarriage.jpg|nhỏ| Hôn nhân của Philippe và [[Marie xứ Brabant|Marie xứ Brabant, vương hậu Pháp]]

Cuộc thập tự chinh của người Aragon và qua đời

Philippe dưới sự thúc giục của vợ mình là Marie xứ Brabant và chú của ông là Charles của Napoli, đã phát động một cuộc chiến chống lại Vương quốc Aragon. Cuộc chiến đã lấy tên "Cuộc thập tự chinh của người Aragon" theo phê chuẩn của giáo hoàng; tuy nhiên, một nhà sử học đã gọi miêu tả cuộc chiến này "có lẽ là một việc làm bất công, không cần thiết và tai họa nhất từng được thực hiện bởi chế độ quân chủ của vương triều Capet." Philippe đã cùng với các con trai của mình tiến vào Roussillon với tư cách là người đứng đầu một đội quân lớn. Đến ngày 26 tháng 6 năm 1285, ông cố thủ quân đội của mình trước Girona và bao vây thành phố. Mặc dù bị kháng cự mạnh mẽ, Philippe đã chiếm Girona vào ngày 7 tháng 9 năm 1285. Philippe nhanh chóng phải trải qua sự đáp trả khi một trận dịch kiết lỵ ập đến trại Pháp và khiến Philippe bị ảnh hưởng nặng nề. Quân Pháp đã bắt đầu rút quân khi quân Aragon tấn công và dễ dàng đánh bại trong trận Col de Panissars vào ngày 1 tháng 10. Philippe qua đời vì bệnh kiết lỵ ở Perpignan vào ngày 5 tháng 10 năm 1285. Con trai của ông, Philippe IV, kế vị ông làm vua nước Pháp. Theo phong tục mos Teutonicus, thi thể của ông được chia thành nhiều phần, mỗi phần được chôn ở những nơi khác nhau; xác thịt được gửi đến Nhà thờ Narbonne, phần nội tạng được đến Tu viện La Noë ở Normandy, trái tim thì được đưa đến Nhà thờ Couvent des Jacobins, nhưng hiện đã bị phá hủy ở Paris và xương của ông đến Vương cung thánh đường thánh Denis, vào thời điểm ở phía bắc Paris.

Hôn nhân và con cái

Vào ngày 28 tháng 5 năm 1262, Philippe kết hôn với Isabel, con gái của Vua Jaime I của Aragon và người vợ thứ hai của ông là Yolande của Hungary. Họ có những đứa con sau:

Louis (1264 - tháng 5 năm 1276).

Philippe IV của Pháp (1268 - 29 tháng 11 năm 1314), người kế vị của ông, kết hôn với Joan I của Navarra

Robert (1269–1271).

Charles, Bá tước Valois (12 tháng 3 năm 1270 - 16 tháng 12 năm 1325), Bá tước Valois từ năm 1284, kết hôn lần đầu với Margaret of Naples (Nữ bá tước Anjou) vào năm 1290, lần thứ hai với Catherine I của Courtenay vào năm 1302, và cuối cùng là Mahaut of Chatillon năm 1308

Con trai chết lưu (1271).

Sau khi vương hậu Isabel qua đời, ông kết hôn lần thứ hai vào ngày 21 tháng 8 năm 1274 với Marie, con gái của Henry III, Công tước xứ Brabant và Adelaide xứ Bourgogne. Họ có 3 người con chung:

Louis, Bá tước xứ Évreux (tháng 5 năm 1276 - 19 tháng 5 năm 1319), Bá tước Évreux từ năm 1298, kết hôn với Margaret of Artois

Blanche của Pháp, Nữ công tước của Áo (1278 - 19 tháng 3 năm 1305), kết hôn với Công tước, vua tương lai Rudolf I của Bohemia và Ba Lan vào ngày 25 tháng 5 năm 1300.

Marguerite của Pháp, vương hậu Anh (1282 - 14 tháng 2 năm 1318), kết hôn với Vua Edward I của Anh vào ngày 8 tháng 9 năm 1299.

Di sản

Trong thời trị vì của Philippe, lãnh thổ hoàng gia đã được mở rộng, ông còn có được hạt Guînes năm 1281, hạt Toulouse năm 1271, hạt Alençon năm 1286, Công quốc Auvergne năm 1271, và còn thông qua cuộc hôn nhân của con trai ông là Philippe, Vương quốc Navarra. Ông chủ yếu tiếp tục các chính sách của cha mình và để lại các quản trị viên của cha mình. Nỗ lực của ông nhằm chinh phục Aragon đã suýt làm phá sản chế độ quân chủ của Pháp, gây ra những thách thức về tài chính cho người kế vị.

Đánh giá của Dante

Trong tác phẩm Thần khúc viết bởi nhà thơ Ý Dante, ông đã hình dung linh hồn của Philippe bên ngoài cổng Luyện ngục cùng với một số nhà cai trị châu Âu đương thời khác. Dante không trực tiếp gọi tên Philippe, nhưng ông gọi Philippe là "kẻ mũi nhỏ" và "cha đẻ của Sâu bọ nước Pháp," trong đó "sâu bọ" ám chỉ đến Vua Philippe IV của Pháp.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Philippe III** (1 tháng 5 năm 1245 – 5 tháng 10 năm 1285), còn được biết tới với biệt danh là **Táo bạo** (), là Vua của Pháp từ năm 1270 cho đến khi
**Philippe VI của Pháp** (tiếng Pháp: Philippe; 1293 - 22 tháng 8 năm 1350), được gọi là _Fortunate_ (tiếng Pháp: _le Fortuné_) là bá tước của Valois, là vị vua đầu tiên của Pháp từ
**Philippe II Auguste** (21 tháng 8 năm 1165 - 14 tháng 7 năm 1223) là vua Pháp từ năm 1180 đến khi băng hà. Là một thành viên của nhà Capet, Philippe Auguste sinh ra
**Louis Philippe I của Pháp** (Ngày 6 tháng 10 năm 1773 – 26 tháng 8 năm 1850) là vua của Pháp từ năm ngày 6 tháng 11 năm 1830 đến ngày 24 tháng 2 năm
**Philippe V của Pháp** (; khoảng 1292/93 - 3 tháng 1 năm 1322), hay **Felipe II của Navarra** (), biệt danh là **Philippe Cao kều** (), là vua Pháp và Navarra, đồng thời cũng là
**Philippe IV** (Tháng 4 / tháng 6 năm 1268 – 29 tháng 11 năm 1314), được gọi là **Philippe Đẹp Trai** (), là một vị Vua Pháp từ 1285 đến khi qua đời (là vị
**Louis của Pháp** (1264 - trước tháng 5 năm 1276), là người thừa kế mặc định cho ngai vàng Pháp. Ông là con trai cả của Vua Philippe III của Pháp và người vợ đầu
**Charles xứ Valois** (; 12 tháng 3 năm 1270 – 16 tháng 12 năm 1325), là con trai thứ ba của Philippe III của Pháp và Isabel của Aragón, là một thành viên của Nhà Capet
**Felipe III** (, , ; 27 tháng 3 năm 1306 – 16 tháng 9 năm 1343), là một vị vua của vương quốc Navarra từ năm 1328 cho đến khi ông qua đời. Felipe sinh
**Edward III của Anh** (13 tháng 11, 1312 – 21 tháng 6, 1377) là Vua của Anh và Lãnh chúa Ireland từ tháng 1 1327 đến khi qua đời; cuộc đời hiển hách của ông
**Louis XV** (15 tháng 2 năm 1710 – 10 tháng 5 năm 1774), biệt danh **Louis Đáng yêu**, là quân vương của Vương tộc Bourbon, giữ tước hiệu Vua của Pháp từ 1 tháng 9
**Louis XIII** (27 tháng 9 1601—14 tháng 5 1643) là một vị vua thuộc vương triều Bourbon với tước hiệu là Vua của Pháp từ 1610 đến 1643 và Vua của Navarra (với danh xưng
**Louis VIII Sư tử** (5 tháng 9 năm 1187 – 8 tháng 11 năm 1226) là vua Pháp từ năm 1223 đến năm 1226. Ông là một vị quân chủ thuộc vương tộc Capet. Louis
**Isabelle của Pháp, cũng là Isabel của Navarra** ( hay _Isabelle de Navarre_; tiếng Tây Ban Nha: _Isabel de Francia_ hay _Isabel de Navarra_; ; 1295 - 22 tháng 8, 1385), có biệt danh là
**Jeanne của Pháp** (; 24 tháng 6 năm 1343, Châteauneuf-sur-Loire - 3 tháng 11 năm 1373, Évreux), còn được gọi là **Jeanne của Valois** (tiếng Pháp: _Jeanne de Valois_), là con gái của vua Jean
**Robert của Pháp và Navarra** ( 1296/1297 - 1308), là con út của quốc vương Philippe IV của Pháp và nữ vương Juana I của Navarra. Tuy chỉ sống một cuộc đời ngắn ngủi nhưng
**Isabelle của Pháp và Bourgogne** (1312 – tháng 4 năm 1348) là con gái của Philippe V của Pháp và Jeanne II xứ Bourgogne. ## Cuộc sống Khi Isabelle chỉ mới hai tuổi, mẹ cô
**Jean II của Pháp** (26 tháng 4 năm 1310 – 8 tháng 4 năm 1364), còn được gọi **Jean le Bon**, giữ ngôi vua nước Pháp từ 1350 tới 1364. Là con trai của vua
**Juana II của Navarra** (; tiếng Basque: Joana II.a Nafarroakoa; ; 28 tháng 1 năm 1312 - 6 tháng 10 năm 1349) là nữ vương của Navarra từ năm 1328 cho đến khi bà qua
**Blanca xứ Évreux** (; sinh khoảng năm 1331 – 5 tháng mười năm 1398), là vương tằng tôn nữ nước Pháp và Infanta của Navarra với tư cách là thành viên của Gia tộc Évreux
**Charles X** (Charles Philippe; 9 tháng 10 năm 1757 – 6 tháng 11 năm 1836) là Vua của Pháp từ ngày 16 tháng 9 năm 1824 đến khi thoái vị vào ngày 2 tháng 8
**Louis XI le Prudent** (3 tháng 7 năm 1423 – 30 tháng 8 năm 1483), được gọi là Thận trọng, là một quốc vương của Nhà Valois, người cai trị nước Pháp từ năm 1461
**Louis VII của Pháp** (biệt danh bằng tiếng Pháp: _Louis le Jeune_; tạm dịch _Louis Con_ hay _Louis Trẻ_ 1120 – 18 tháng 9 năm 1180) là vua Pháp, con trai và người kế tục
**Juana I của Navarra** (, , ; 14 tháng 1 năm 1273 – 31 tháng 3 hoặc 2 tháng 4 năm 1305) là nữ vương của Navarra và là nữ bá tước của Champagne từ
**Isabel của Aragón** (, , , ; 1248 – 28 tháng 1 năm 1271) là vương hậu nước Pháp từ 1270 đến 1271 với tư cách là vợ của vua Philippe III của Pháp. ## Cuộc
**Louis XVIII** (Louis Stanislas Xavier; 17 tháng 11 năm 1755 - 16 tháng 9 năm 1824), có biệt danh là "le Désiré", là vua của Vương quốc Pháp từ năm 1814 đến năm 1824, bị
**Louis XVI của Pháp** (23 tháng 8 năm 1754 – 21 tháng 1 năm 1793) là quân vương nhà Bourbon, cai trị nước Pháp từ năm 1774 đến 1792, rồi bị xử tử hình năm
**Marie Thérèse Charlotte của Pháp** (tiếng Pháp: _Marie-Thérèse Charlotte de France_; tiếng Đức: _Marie Thérèse Charlotte von Frankreich_; 19 tháng 12 năm 1778 – 19 tháng 10 năm 1851) là trưởng nữ của Louis XVI
**Louis của Pháp** (tiếng Pháp: Louis de Bourbon; 1 tháng 11 năm 1661 – 14 tháng 4 năm 1711) là trưởng nam của Louis XIV của Pháp hay còn biết đến với vương hiệu __Vua
**Louis XIV của Pháp** (; 5 tháng 9 năm 16381 tháng 9 năm 1715), còn được gọi là **Louis Đại đế** (, ) hay **Vua Mặt Trời** (, ), là một quân chủ thuộc Nhà
**Louis-Antoine của Pháp hay** **Louis-Antoine của Artois** (6 tháng 8 năm 1775 - 3 tháng 6 năm 1844, **Thái tử Viennois** và **Công tước của Angoulême**) là thành viên hoàng tộc Pháp. Là con trai
**Carlo Emanuele III của Sardegna** (tiếng Ý: _Carlo Emanuele III_; tiếng La Tinh: _Carolus Emmanuel III_; 27 tháng 4 năm 1701 – 20 tháng 2 năm 1773) là Công tước xứ Savoia, Vua của Sardinia
thumb|right|Hình nộm nổi trên lăng mộ của Louis của Pháp. **Louis của Pháp** (21 hoặc 24 tháng 2 năm 1244 - 11 tháng 1 năm 1260) là một hoàng tử Pháp, người con trai đầu
**Marie của Pháp** (18 tháng 9 năm 1344 - 15 tháng 10 năm 1404) là con thứ sáu và là con gái thứ ba của Jean II của Pháp và Jutta của Bohemia. ## Hôn
**Élisabeth của Pháp** hay **Isabelle của Bourbon** (22 tháng 11 năm 1602 – 6 tháng 10 năm 1644) là con gái của Henri IV của Pháp và Maria de' Medici cũng như là Vương hậu
**Edward II của Anh** (25 tháng 4, 1284 – 21 tháng 9, 1327), còn gọi là **Edward xứ Caernarfon**, là Vua của Anh từ 1307 cho đến khi bị lật đổ vào tháng 1 năm
**John** (24 tháng 12, 1166 – 19 tháng 10, 1216), biệt danh là **John Lackland** (tiếng Norman Pháp: **'), là Vua của Anh từ 1199 cho đến khi qua đời năm 1216. John để mất Công
**Charlotte Aglaé của Orléans** (; ; 22 tháng 10 năm 1700 – 19 tháng 1 năm 1761) là con gái thứ ba của Philippe II xứ Orléans và Françoise Marie de Bourbon, và khi sinh
**Các quốc vương và hoàng đế của Pháp** là danh xưng để chỉ các nhà cai trị với tư cách là quân chủ của lãnh thổ Pháp, bắt đầu trị vì từ thời Trung Cổ
Những ghi chép đầu tiên về **lịch sử nước Pháp đã** xuất hiện từ thời đại đồ sắt. Ngày nay, nước Pháp chiếm phần lớn khu vực được người La Mã cổ đại gọi là
thumb|[[Eugenia xứ Montijo, Hoàng hậu của Đế quốc Pháp. Một trong ba vị _"Hoàng hậu"_ trong lịch sử Pháp, và cũng là người cuối cùng.]] right|thumb|[[Maria Antonia của Áo, Vương hậu của Quốc vương Louis
**Quan hệ Pháp – Việt Nam** (hoặc **Quan hệ Việt–Pháp** hay **Quan hệ Pháp–Việt**) được xem là khởi nguồn từ đầu thế kỷ 17 với công cuộc truyền giáo của các linh mục dòng Tên
**William III** hoặc **Willem III xứ Oranje** (14 tháng 11 năm 1650 – 8 tháng 3 năm 1702) là Thân vương của xứ Orange, từ năm 1672 là _Stadtholder_ các tỉnh Holland, Zeeland, Utrecht, Guelders,
**Chiến tranh Tôn giáo Pháp** là một chuỗi gồm tám cuộc tranh chấp giữa phe Công giáo và phe Huguenot (Kháng Cách Pháp) từ giữa thế kỷ 16 kéo dài đến năm 1598. Ngoài những
phải|nhỏ|138x138px|Phù hiệu của quận mà Joan cai quản. **Jeanne III xứ Bourgogne** (1 hoặc 2 tháng 5 năm 1308 – 10 hoặc 15 tháng 8 năm 1347), hay còn được gọi là **Jeanne của Pháp**,
**Maximiliano I của México** (tiếng Đức: _Ferdinand Maximilian Joseph Maria von Habsburg-Lothringen_; tiếng Tây Ban Nha: _Fernando Maximiliano José María de Habsburgo-Lorena_; 6 tháng 7 năm 1832 - 19 tháng 6 năm 1867) là một
**Elisabeth của Áo** (; 5 tháng 7 năm 1554 – 22 tháng 1 năm 1592) là Vương hậu nước Pháp từ năm 1570 đến năm 1574 thông qua cuộc hôn nhân với Charles IX của
**Vương tộc Valois** ( , also , ) là một nhánh phụ của triều đại Capet. Vương tộc này kế vị Vương tộc Capet (hay "Nhánh chính Capet") lên ngai vàng Pháp, và là hoàng
**Vương tộc Plantagenet** (phát âm: ) là một triều đại có nguồn gốc từ Bá quốc Anjou ở Pháp. Cái tên Plantagenet được các nhà sử học hiện đại sử dụng để xác định bốn
**Louis Philippe I, Công tước xứ Orléans** còn được gọi là **le Gros** (Béo) (12 tháng 5 năm 1725 - 18 tháng 11 năm 1785) là một thân vương người Pháp, công tước đời thứ