✨Charles I xứ Orléans

Charles I xứ Orléans

phải|nhỏ|Hình ảnh mô tả cảnh Charles bị giam cầm trong Tháp Luân Đôn từ một bản thảo được phát hiện về các bài thơ của ông Charles I xứ Orléans (24 tháng 11 năm 1394 - 5 tháng 1 năm 1465) là Công tước của Orléans từ năm 1407 sau khi cha ông là Louis I, Công tước xứ Orléans bị ám sát. Ông cũng là Công tước của Valois, Bá tước của xứ Beaumont-sur-Oise và của Blois, Lãnh chúa của Coucy, và là người thừa kế của xứ Asti ở Ý thông qua mẫu thân là Valentina Visconti.

Ngày nay, ông được nhớ đến như một nhà thơ thời Trung cổ dày dặn thành tựu với hơn 500 bài thơ còn tồn tại mà ông đã viết, bằng cả tiếng Pháp và tiếng Anh, được sáng tác trong suốt quá trình 25 năm làm tù binh và sau khi trở về Pháp.

Nhận danh hiệu

Charles sinh ra ở Paris, là con trai của Louis I, Công tước xứ Orléans và Valentina Visconti, ông ngoại ông là Gian Galeazzo Visconti, Công tước xứ Milano. Ông phải cai quản công quốc của cha mình từ năm 13 tuổi sau khi cha ông bị ám sát theo lệnh của Jean Dũng cảm, Công tước xứ Bourgogne. Charles được cho là sẽ tiếp nối sự lãnh đạo của cha mình chống lại phe Bourgogne, một phe phái của người Pháp cũng ủng hộ Công tước xứ Bourgogne. Công tước xứ Bourgogne chưa bao giờ bị trừng phạt vì vai trò của ông trong vụ ám sát Louis, nhưng Charles đã phải chứng kiến ​​người mẹ đau buồn của ông, Valentina Visconti, khi bà phải chống chọi với bệnh tật không lâu sau đó. Lúc bà lâm chung, Charles và những cậu con trai khác trong gia đình đã tuyên thệ truyền thống sẽ trả thù cho tội giết cha của họ.

Trong những năm đầu trị vì dưới danh nghĩa công tước, Charles đã mồ côi và sớm phải chịu ảnh hưởng nặng nề từ sự dẫn dắt chỉ đạo của cha vợ, Bernard VII, Bá tước Armagnac, vì lý do đó phe của Charles còn được gọi là phe Armagnac.

Bị bỏ tù

Sau khi cuộc chiến tranh với Vương quốc Anh được tái lập vào năm 1415, Charles là một trong nhiều nhà quý tộc Pháp có mặt trong trận Agincourt vào ngày 25 tháng 10 năm 1415. Người ta phát hiện ông, không có thương tích gì, nhưng bị mắc kẹt dưới một đống xác chết. Ông bị người Anh bắt làm tù binh và đã trải qua hai mươi bốn năm sau bị chuyển từ lâu đài này sang lâu đài khác ở Anh, bao gồm cả Tháp London, và Lâu đài Pontefract - lâu đài nơi Vua Richard II trẻ tuổi của Anh, em họ Vua Henry V bị cầm tù và chết trước đó 15 năm ở tuổi 33. Tuy nhiên điều kiện giam giữ ông không nghiêm ngặt; ông ít nhiều được phép sống theo lối sống quen thuộc, giống như rất nhiều quý tộc bị bắt khác. Tuy nhiên, ông không được đề nghị phóng thích để đổi lấy tiền chuộc, vì Vua Anh Henry V đã ra chỉ thị cấm bất kỳ việc phóng thích nào. Charles là người đứng đầu mặc định của phe Armagnac và đứng tên trong danh sách kế vị ngai vàng của Pháp, và do đó được coi là rất quan trọng để được thả tự do.

Sau khi bị bắt, toàn bộ tài liệu trong thư viện của ông đã được Violant của Aragón chuyển đến Saumur để ngăn không rơi vào tay kẻ thù.

Làm thơ

Chính trong suốt hai 24 năm bị giam cầm này, Charles đã viết hầu hết những tác phẩm thơ trong cuộc đời, bao gồm cả những tác phẩm mang tính u sầu, buồn bã mà dường như nói về chính sự giam cầm, chẳng hạn như En la forêt de longue attente.

Phần lớn tác phẩm của ông được xuất bản công chúng bao gồm hai cuốn sách, một cuốn bằng tiếng Pháp và một cuốn bằng tiếng Anh, ở dạng cố định ballade và rondeau. Mặc dù đã từng gây tranh cãi, nhưng bây giờ có minh chứng rất rõ ràng rằng Charles đã viết những bài thơ tiếng Anh mà ông đã để lại khi được phóng thích vào năm 1440. Tuy nhiên, ông không được chấp nhận vào hàng các tác giả tiếng Anh kinh điển. AEB Coldiron đã lập luận rằng có vài vấn đề liên quan đến "cách tiếp cận tình dục, cách sử dụng lối chơi chữ, cách chơi chữ và các biện pháp tu từ, sự phức tạp chính thức và lối thử nghiệm, lập trường hoặc giọng văn của ông ấy: tất cả những điều này khiến ông ấy nằm ngoài khuôn khổ văn học thế kỷ 15 ở Anh, nơi ông hoạt động.''

Một trong những bài thơ của ông có thể kể đến "Is she not passing fair?", do Louisa Stuart Costello dịch, được Edward Elgar phổ nhạc. Claude Debussy đã phổ nhạc ba bài thơ của ông trong Trois Chansons de Charles d'Orléans, L.92, cho dàn hợp xướng hỗn hợp không có người chỉ huy. Reynaldo Hahn đặt tập sáu trong số: _Les Fourriers d'été, Comment se peut-il faire ainsi, Un loyal cœur (Chansons et Madrigaux - 1907) ; Quand je fus pris au pavillon, Je me mets en votre mercy, Gardez le trait de la fenêtre_ vào trong Rondels - 1899.

Thả tự do

Cuối cùng khi được giải thoát vào năm 1440 nhờ những nỗ lực của những kẻ thù cũ khác phe mình là Philippe và Isabella của Bồ Đào Nha, ông đã được đặt chân trở về đất Pháp một lần nữa sau 25 năm, và giờ ông đã là một người đàn ông trung niên ở tuổi 46, và theo biên niên gia người Anh Raphael Holinshed "nói tiếng Anh thạo hơn tiếng Pháp". Philippe đã ra điều kiện rằng việc giết hại cha của Charles, Louis xứ Orleans bởi chính cha của Philippe, Jean Dũng cảm, sẽ không được báo thù. (Bản thân Jean cũng đã bị ám sát vào năm 1419). Charles đã đồng ý với điều kiện này trước khi được thả. Gặp Nữ công tước xứ Bourgogne sau khi xuống tàu, Charles dũng cảm nói: "Thưa bà, tôi tự biến mình thành tù nhân của bà." Vào lễ kỷ niệm cuộc hôn nhân thứ ba của mình, với Marie xứ Cleves, ông được phong chức danh Hiệp sĩ Bộ lông cừu vàng. Sự trở lại Orléans sau đó của ông được đánh dấu bằng một lễ kỷ niệm lộng lẫy do các công dân tổ chức.

Ông đã cố gắng áp đặt nhưng không thành công những yêu sách của mình với Asti ở Ý, trước khi sống cuộc sống ổn định yên bề gia thất như một người bảo trợ nổi tiếng của nghệ thuật. Ông qua đời tại Amboise, hưởng thọ gần 71 tuổi.

Kết hôn và hậu duệ

phải|nhỏ|Phù hiệu của Charles xứ Orléans Charles kết hôn ba lần. Người vợ đầu tiên của ông là chị họ Isabelle của Pháp (con gái của Charles VI của Pháp và cũng chính là góa phụ Richard II của Anh), người mà ông kết hôn ở Compiègne năm 1406, bà đã qua đời khi sinh con. Con gái của họ, Jeanne kết hôn với Jean II xứ Alençon vào năm 1424 ở Blois.

Sau đó, ông kết hôn với Bonne xứ Armagnac, con gái của Bernard VII xứ Armagnac vào năm 1410. Bonne chết trước khi trở về từ nơi giam cầm. Họ không có hậu duệ chung.

Khi trở về Pháp năm 1440, Charles kết hôn với Maria xứ Kleve ở Saint-Omer (con gái của Adolph I, Công tước xứ Cleves) và có ba hậu duệ:

  • Marie xứ Orléans (19 tháng 12 1457 – 1493, Mazères). Kết hôn với Jean xứ Foix năm 1476.
  • Louis XII của Pháp (1462–1515)
  • Anne xứ Orléans (1464–1491, Poitiers), Nữ tu tại tu viện Fontevraud và Tu viện Holy Cross Poitiers.

Danh hiệu

  • – Công quốc xứ Orléans: Đại sư Và hiệp sĩ Order of the Porcupine
  • : Hiệp sĩ Order of the Golden Fleece

Trong tiểu thuyết và văn hoá đại chúng

Charles xuất hiện với tư cách là "Công tước xứ Orléans" trong vở Henry V của William Shakespeare. Trong bộ phim truyền hình The Hollow Crown năm 2012, Charles do nam diễn viên người Pháp Stanley Weber thủ vai nhưng được miêu tả không chính xác khi qua đời tại trận Agincourt.

Cuốn tiểu thuyết lịch sử được giới phê bình đánh giá cao Het Woud der Verwachting / Le Forêt de Longue Attente (1949) của Hella Haasse (được dịch sang tiếng Anh năm 1989 với tựa đề _ In a Dark Wood Wandering " ') _có mô tả đầy thiện cảm về cuộc đời của Charles, Công tước xứ Orléans.

Charles cũng là một nhân vật chính trong truyệnThe Maiden's Tale của Margaret Frazer, đó là câu chuyện kể về một bí ẩn lịch sử và lời kể hư cấu về một vài tuần trong cuộc đời của ông ở Anh vào mùa thu năm 1439, ngay trước khi ông được thả năm 1440.

Charles cũng là một nhân vật phụ trong tiểu thuyết giả tưởng lịch sử Crown in Candlelight của Rosemary Hawley Jarman.

Charles được nhắc đến là tác giả của "Valentine đầu tiên được biết đến" trong bộ phim đặc biệt dành cho Ngày lễ tình nhân của loạt phim nguyên gốc của Netflix là Big Mouth, "My Furry Valentine".

Tài liệu

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
phải|nhỏ|Hình ảnh mô tả cảnh Charles bị giam cầm trong Tháp Luân Đôn từ một bản thảo được phát hiện về các bài thơ của ông **Charles I xứ Orléans** (24 tháng 11 năm 1394
**Louis I xứ Orléans** (; 13 tháng 3 năm 1372 - 23 tháng 11 năm 1407) là Công tước xứ Orléans từ năm 1392 cho đến khi ông qua đời. Ông cũng là Công tước
**Philippe I xứ Orléans** (; 21 tháng 9 năm 1640   - 9 tháng 6 năm 1701), còn gọi là **Philippe của Pháp** (), là con trai của Louis XIII và Ana của Tây Ban
thumb|Huy hiệu của Công tước xứ Orléans **Công tước xứ Orléans** (tiếng Pháp: _Duc d'Orléans_; tiếng Anh: _Duke of Orléans_) là một tước hiệu hoàng gia Pháp thường được các vua Pháp ban cho một
**Louis Philippe II xứ Orléans** (_Louis Philippe Joseph_; 13 tháng 4 năm 1747 – 6 tháng 11 năm 1793) là một nhà quý tộc lớn của Vương quốc Pháp thuộc Vương tộc Orléans, một nhánh
**Marie xứ Orléans** (tiếng Pháp: Marie d'Orléans; 19 tháng 12/tháng 9 năm 1457 – 1493) là con gái của Charles I xứ Orléans và Maria xứ Kleve cũng như là chị gái của Quốc vương
**Maria xứ Kleve** (19 tháng 9 năm 1426 – 23 tháng 8 năm 1487) là vợ thứ ba của Charles I xứ Orléans. Maria xuất thân là một công nữ người Đức, người con cuối
**Philippe Charles xứ Orléans** (; 2 tháng 8 năm 1674 - 2 tháng 12 năm 1723), là thành viên của hoàng gia Pháp và từng là Nhiếp chính của Vương quốc từ 1715 đến 1723
**Jean I xứ Bourgogne** (; 28 tháng 5 năm 137110 tháng 9 năm 1419), còn được gọi là **Jean Dũng cảm** (; ) là một thành viên trong dòng dõi của hoàng gia Pháp, là
**Jean xứ Berry** (; 30 tháng 11 năm 1340 - 15 tháng 6 năm 1416), còn có biệt danh là **Jean Hoa lệ** (_Jean le Magnifique_), là Công tước các xứ Berry, Auvergne và Bá
**Élisabeth Charlotte xứ Pfalz, Công tước phu nhân xứ Orléans**; ; ; 27 tháng 5 năm 1652 – 8 tháng 12 năm 1722), còn được gọi là **Liselotte von der Pfalz**, là thành viên của
**Louis Philippe I của Pháp** (Ngày 6 tháng 10 năm 1773 – 26 tháng 8 năm 1850) là vua của Pháp từ năm ngày 6 tháng 11 năm 1830 đến ngày 24 tháng 2 năm
**Louis XII của Pháp** (27 tháng 6 năm 1462 – 1 tháng 1 năm 1515), được gọi là _le Père du Peuple_, là vua Pháp từ 1498 tới 1515 và vua Naples từ năm 1501
**Anne Marie của Orléans** (27 tháng 8 năm 1669 – 26 tháng 8 năm 1728) là Vương hậu Sardegna thông qua hôn nhân với Vittorio Amadeo II của Sardegna. Anne Marie từng là nhiếp chính
**Ferdinand Philippe, Công tước xứ Orléans** (_Ferdinand Philippe Louis Charles Henri Joseph_; 03 tháng 09 năm 1810 - 13 tháng 07 năm 1842) là con trai cả của Vua Louis Philippe I của Pháp và
**Jeanne xứ Valois, Nữ Công tước xứ Berry** (tiếng Pháp: _Jeanne de Valois, Duchesse de Berry_; 23 tháng 4 năm 1464 - 4 tháng 2 năm 1505), là một Vương nữ người Pháp, giữ tước
**François I** (tiếng Pháp: François Ier; tiếng Pháp Trung cổ: Francoys; 12 tháng 9 năm 1494 – 31 tháng 3 năm 1547) là Quốc vương Pháp từ năm 1515 cho đến khi qua đời vào
**Isabelle của Pháp** (tiếng Pháp: _Isabelle de Valois_; 9 tháng 11, năm 1389 - 13 tháng 11, năm 1409), còn được gọi là **Isabelle của Valois**, là Vương hậu của Vương quốc Anh với tư
**Marguerite xứ Angoulême** (tiếng Anh: _Marguerite of Angoulême_; tiếng Pháp: _Marguerite d'Angoulême_; 11 tháng 4, 1492 - 21 tháng 12, 1549), còn gọi là **Marguerite de Navarre**, là Tông nữ Pháp, Vương hậu Navarra và
**Henrietta Anne của Anh** (tiếng Pháp: _Henriette-Anne Stuart d'Angleterre_; 16 tháng 6 năm 1644 - 30 tháng 6 năm 1670), biệt danh **Minette**, là một Vương nữ Anh, con gái của Charles I của Anh
**Charles X** (Charles Philippe; 9 tháng 10 năm 1757 – 6 tháng 11 năm 1836) là Vua của Pháp từ ngày 16 tháng 9 năm 1824 đến khi thoái vị vào ngày 2 tháng 8
**Louis Henri Joseph de Bourbon** (13 tháng 4 năm 1756 – 30 tháng 8 năm 1830) là Thân vương xứ Condé từ năm 1818 cho đến khi qua đời. Ông là anh rể của Louis
**Françoise Marie de Bourbon, _Légitimée de France_, Bà Công tước xứ Orléans** (4 tháng 5 năm 1677 - 1 tháng 2 năm 1749) là người con gái nhỏ tuổi nhất trong những người con ngoài
**Françoise xứ Alençon** (1490 – 14 tháng 9 năm 1550) là con gái lớn của René I xứ Alençon và Marguerite xứ Lorraine-Vaudémont, cũng như là em gái của Charles IV xứ Alençon. Là em
**Louise Renée de Penancoët de Kérouaille, Công tước xứ Portsmouth** (tiếng Pháp: _Louise Renée de Penancoët de Keroual_; 6 tháng 9, năm 1649 - 14 tháng 11, năm 1734), là một quý tộc người Pháp,
**María Isabel của Tây Ban Nha, María Isabel của Orléans hay María Isabel de Orleans y Borbón** (tiếng Tây ban Nha: _María Isabel de Orleans y Borbón_; tiếng Pháp: _Marie-Isabelle d'Orléans_; 21 tháng 09 năm
**François I** (tiếng Pháp) hay **Franz I** (tiếng Đức) (8 tháng 12 năm 1708 – 18 tháng 8 năm 1765)), còn được gọi là **François Étienne** (tiếng Pháp) hoặc **Franz Stephan** (tiếng Đức), là Hoàng
**Louise Élisabeth của Orléans** (tiếng Pháp: _Louise Élisabeth d'Orléans_; tiếng Tây Ban Nha: _Luisa Isabel de Orleans_; 9 tháng 12 năm 1709 – 16 tháng 6 năm 1742) là Vương hậu Tây Ban Nha với
**Anne xứ Bretagne** (tiếng Pháp: _Anne de Bretagne_; tiếng Breton: _Anna Vreizh hay Anna Breizh_; 25 tháng 1 năm 1477 – 9 tháng 1 năm 1514), là Nữ công tước xứ Bretagne và Vương hậu
**Vương tôn Albert Victor, Công tước xứ Clarence và Avondale** (Albert Victor Christian Edward; 8 tháng 1 năm 1864 – 14 tháng 1 năm 1892) là con trai trưởng của Thân vương và Vương phi
**Anne Marie Louise của Orléans, Công tước xứ Montpensier**, (, 29 tháng 5 năm 1627 – 5 tháng 4 năm 1693 ), thường được gọi là **_La Grande Mademoiselle_** ( ), là con gái duy
thumb|Huy hiệu vương miện của các _Enfants de France_. **Fils de France** () và **Fille de France** (), có nghĩa là _"Con trai nước Pháp"_ cùng _"Con gái nước Pháp"_, là một danh xưng và
**Charles VI của Pháp** (3 tháng 12 năm 1368 – 21 tháng 10 năm 1422 còn được gọi là **Charles le Bienaimé** hay **Charles le Fol** hoặc **le Fou**) là vị vua Pháp từ 1380
**Carlos III của Tây Ban Nha** (Tiếng Anh: _Charles III_; Tiếng Ý và Tiếng Napoli: _Carlo Sebastiano_; Tiếng Sicilia: _Carlu Bastianu_; Sinh ngày 20/01/1716 - Mất ngày 14/12/1788) là Công tước có chủ quyền xứ
**Carlos II của Tây Ban Nha** (tiếng Tây Ban Nha: Carlos II, 6 tháng 11 năm 1661 - 1 tháng 11 năm 1700), còn được gọi là **Kẻ bị bỏ bùa** (tiếng Tây Ban Nha:
**Leopold, Công tước xứ Lorraine** (11 tháng 9 năm 1679 - 27 tháng 3 năm 1729) ông còn có biệt danh là **Leopold tốt bụng**, là quân chủ cai trị Công quốc Lorraine, Bar và
**Anne của Đại Anh và Ireland** (tiếng Anh: _Anne, Queen of Great Britain_; 6 tháng 2, năm 1665 – 1 tháng 8, năm 1714), là Nữ vương của Vương quốc Liên hiệp Anh và Ireland,
**Jean II xứ Alençon** (2 tháng 3 năm 1409, Château d’Argentan – 08 tháng 9 năm 1476, Paris) có biệt danh là **"le beau duc"** ("Công tước cao quý") là con của Jean I xứ
Dom **Carlos I** (phát âm tiếng Bồ Đào Nha: [ˈkaɾluʃ]; tiếng Anh: _King Charles of Portugal_; 28 tháng 9 năm 1863 - 1 tháng 2 năm 1908), còn được gọi là **Nhà ngoại giao** (tiếng
**Jeanne xứ Bourbon** (3 tháng 2 năm 1338 - 6 tháng 2 năm 1378) là Vương hậu của Pháp với tư cách là vợ của Charles V của Pháp. Bà đóng vai trò cố vấn
**Jeanne xứ Bourgogne** (; 24 tháng 6 năm 1293 - 12 tháng 12 năm 1349), còn được biết với biệt danh **Jeanne Què quặt** (tiếng Pháp: _Jeanne la Boiteuse_), là một Vương hậu của Pháp
**Catalina của Aragón và Castilla**, (tiếng Tây Ban Nha: _Catalina de Aragón y Castilla_; tiếng Anh: _Catherine of Aragon_; tiếng Đức: _Katharina von Aragon_; tiếng Bồ Đào Nha: _Catarina de Aragão e Castela_; tiếng Pháp:
**Amadeo I** (tiếng Ý: _Amedeo_, đôi khi được Latinh hóa thành _Amadeus_; tên đầy đủ: _Amedeo Ferdinando Maria di Savoia_; 30 tháng 5 năm 1845 – 18 tháng 1 năm 1890) là một vương tử
**Nhà Bourbon-Condé** (Tiếng Pháp: _Maison de Bourbon-Condé_), là một gia đình quý tộc của Pháp thuộc chi nhánh của Vương tộc Bourbon, được đặt theo tên của địa danh Condé-en-Brie, hiện thuộc tỉnh Aisne, vùng
phải|thumb|Huy hiệu vương miện của các _Prince du sang_. **Prince du sang** (; tiếng Anh: _Prince of the Blood_), có thể hiểu như **Thân vương**, **Phiên vương** hoặc **Tông thất** nếu xét về các triều
**Louis XV** (15 tháng 2 năm 1710 – 10 tháng 5 năm 1774), biệt danh **Louis Đáng yêu**, là quân vương của Vương tộc Bourbon, giữ tước hiệu Vua của Pháp từ 1 tháng 9
**Louis XIV của Pháp** (; 5 tháng 9 năm 16381 tháng 9 năm 1715), còn được gọi là **Louis Đại đế** (, ) hay **Vua Mặt Trời** (, ), là một quân chủ thuộc Nhà
liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:Insulae_Sardiniae_novae_accurata_descriptio_-_Janssonius_Johannes,_1642-44.jpg|nhỏ|Huy hiệu của Vương quốc Sardegna từ thế kỷ 14 Sardegna ban đầu được cai trị bởi nền văn minh Nuragic, theo sau đó là cuộc xâm lược của Hy Lạp, bị người Carthage chinh
**Anne của Pháp** (tiếng Pháp: _Anne de France_; tiếng Ý: Anna di Francia; tiếng Tây Ban Nha: Ana de Francia; 3 tháng 4, năm 1461 - 14 tháng 11, năm 1522), hoặc **Anne xứ Beaujeu**
**Maria Antonia của Áo** (tiếng Đức: _Maria Antonia von Österreich_; 2 tháng 11 năm 1755 – 16 tháng 10 năm 1793), nguyên là Nữ Đại công tước Áo, thường được biết đến với tên Pháp