✨Louis XV của Pháp
Louis XV (15 tháng 2 năm 1710 – 10 tháng 5 năm 1774), biệt danh Louis Đáng yêu, là quân vương của Vương tộc Bourbon, giữ tước hiệu Vua của Pháp từ 1 tháng 9 năm 1715 cho đến khi qua đời năm 1774. Ông kế vị tằng tổ phụ là Louis XIV vào lúc 5 tuổi. Trước khi ông trưởng thành (1723), Philippe II, Công tước xứ Orléans, nắm quyền nhiếp chính cai quản vương quốc. Hồng y Fleury làm Thừa tướng từ 1726 đến khi qua đời năm 1743, đến lúc này vị vua trẻ mới có thể đích thân chấp chính.
Thời gian cai trị của ông kéo dài 58 năm, đứng thứ hai trong lịch sử của Pháp chỉ sau người tiền nhiệm là tằng tổ phụ, Louis XIV. Năm 1745, ông thân chinh và giành chiến thắng tại Trận Fontenoy chiếm được Nam Hà Lan từ tay Quân chủ Habsburg nhưng sau đó trả lại cho người Áo năm 1748. Năm 1763, ông cắt đất Tân Pháp ở Bắc Mỹ cho Tây Ban Nha và Anh sau thất bại trong Chiến tranh Bảy năm. Ngoài ra ông còn sáp nhập lãnh địa của Công quốc Lorraine và Cộng hòa Corse vào Vương quốc Pháp. Louis XV qua đời năm 1774 và người kế nhiệm là đích tôn của ông, Louis XVI, người bị lật đổ trong Cách mạng Pháp. Hai người cháu khác của ông, Louis XVIII và Charles X, lần lượt giữ ngôi vua sau thất bại của Napoleon Bonapate. Các sử gia đánh giá triều đại của ông là giai đoạn tồi tệ, với liên tiếp các cuộc chiến tranh nổ ra làm hao mòn tiền bạc trong phủ khố rồi dẫn đến sự suy vong của triều đình và cuộc Cách mạng Pháp vào những năm 1780.
Thời niên thiếu và Thời kì Nhiếp chính (1710-1723)
trái|nhỏ|Louis XV khi còn nhỏ. Louis XV là tằng tôn của Louis XIV và là con trai thứ hai của Công tước xứ Bourgogne (1682-1712), cùng vợ là Marie Adelaide của Savoia, trưởng nữ của Vittorio Amedeo II, Công tước xứ Savoia. Ông chào đời tại Cung điện Versailles ngày 15 tháng 2 năm 1710. Sau khi chào đời, ông được tấn phong làm Công tước xứ Anjou. Khả năng kế vị của ông khi đó không cao; ông đứng sau tổ phụ là trưởng tử của nhà vua, Louis Đại Thái tử (Grand Dauphin), còn có cha và trưởng huynh trong danh sách thừa kế. Tuy nhiên, Đại Thái tử qua đời vì bệnh đậu mùa ngày 14 tháng 4 năm 1711. Ngày 12 tháng 2 năm 1712, mẫu thân của Louis, Marie Adelaide, sau đó ngày 18 tháng 2 là cha của Louis, Công tước xứ Bourgogne, người thừa kế số một, lần lượt mắc bệnh sởi và qua đời. Ngày 7 tháng 3, cả Louis và trưởng huynh, Công tước xứ Bretagne, đều bị chẩn đoán mắc bệnh sởi. Công tước Bretagne được điều trị theo cách truyền thống là chích máu. Khoảng tối ngày 8 rạng sáng ngày 9 tháng 3, Công tước xứ Bretagne qua đời mà nguyên nhân là do cả căn bệnh và cách điều trị sai lầm. Bảo mẫu của Louis, Madame de Ventadour, không cho phép các bác sĩ lấy máu, do đó mặc dù rất đau nhưng ông vẫn sống sót. Khi Louis XIV qua đời ngày 1 tháng 9 năm 1715, Louis, mới 5 tuổi, kế thừa hoàng vị. Để đổi lấy sự ủng hộ của họ, Orléans cho khôi phục droit de remontrance (quyền phản đối) của Nghị viện - vốn bị Louis XIV triệt bỏ từ trước, theo đó Nghị viện có quyền phản đối những quyết định của nhà vua mà họ cho là trái với lợi ích dân tộc. Quyền phản đối làm suy yếu quyền hành của quân chủ và đánh dấu khởi đầu xung đột giữa Nhà vua và Nghị viện mà đỉnh điểm là Cách mạng Pháp năm 1789. Những vị khách mà ông tiếp bao gồm Sa hoàng Pyotr Đại đế năm 1717; trái với nghi thức thông thường, vị Sa hoàng cao 2 mét đã bế ông lên tay và hôn ông. Louis cũng học cưỡi ngựa và bắn cung, và nhà vua trẻ nhanh chóng say mê những trò này. Năm 1720, theo gương Louis XIV, Villeroy bảo nhà vua Louis múa trước công chúng hai điệu ba lê tại Cung điện Tuileries ngày 24 tháng 2 năm 1720, và một lần nữa trong sự kiện The Ballet des Elements ngày 31 tháng 12 năm 1721. Louis nhút nhát không thích trò này và ông không bao giờ múa ba lê lần nào nữa.
Gia sư của nhà vua là Tu viện trưởng André-Hercule de Fleury, Giám mục xứ Frejus, (về sau trở thành Hồng y de Fleury), dạy cho ông các ngôn ngữ Latin, Ý, các môn lịch sử, địa lý, thiên văn, toán học, mĩ thuật và bản đồ. Khi Sa hoàng Nga có chuyến thăm nước Pháp, nhà vua khiến Sa hoàng thích thú khi ông xác định những con sông, thành phố và các địa điểm địa lý của Nga. Trong những năm cuối đời nhà vua vẫn đam mê với khoa học và địa lý; ông lập ra Khoa Vật lý (1769) và Cơ khí (1773) tại Collège de France., và tài trợ cho tấm bản đồ hoàn chỉnh và chính xác đầu tiên của nước Pháp, Cartes de Cassini. Ngoài các môn khoa học lý thuyết, ông còn nhận được nền giáo dục thực tiễn trong chính phủ. Bắt đầu từ năm 1720 ông tham dự các cuộc họp thường kỳ của Hội đồng Nhiếp chính. Louis bên cạnh Nhiếp chính vương, Philippe xứ Orleans (1718)|thumb|left Một cuộc khủng hoảng kinh tế làm đứt đoạn thời kì Nhiếp chính; nhà tư sản người Scotland, John Law được tấn phong làm Tổng trưởng tài chính. Tháng 5 năm 1716, ông khai trương Banque Générale Privée ("Ngân hàng Tư nhân Tổng hợp"), nơi này sớm trở thành Ngân hàng Hoàng gia. Phần lớn do chính phủ tài trợ, và đây là một trong những ngân hàng đầu tiên phát hành tiền giấy, có thể được đổi bằng vàng. Ông cũng thuyết phục những nhà tư sản và quý tộc giàu có ở Paris đầu tư vào Công ty Mississippi, để phục vụ cho việc chiếm đóng thuộc địa Louisiana. Cổ phiếu của công ty ban đầu tăng nhanh và sau đó đóng cửa vào năm 1720, sáp nhập vào ngân hàng. Pháp luật lỏng lẻo, và những nhà giàu ở Paris miễn cưỡng đóng các khoản đầu tư tiếp theo và tin tưởng và những thứ tiền giấy thay cho vàng.
Năm 1719, Pháp, liên minh với Anh và Cộng hòa Hà Lan, tuyên chiến với Tây Ban Nha. Người Tây Ban Nha bị đánh bại trên cả hai mặt trận thủy và bộ, không lâu sau phải xin giảng hòa. Hiệp ước Pháp - Tây Ban Nha được kí kết ngày 27 tháng 3 năm 1721. Hai chính phủ quyết định liên hôn với nhau bằng hôn nhân giữa Louis với Mariana Victoria của Tây Ban Nha, cô con gái bảy tuổi của nhà vua Felipe V của Tây Ban Nha - một người cháu nội khác của Louis XIV, chú ruột của Louis XV. Thỏa thuận hôn nhân được kí ngày 25 tháng 11, và cô dâu tương lai đến Pháp và trú tại Louvre. Tuy nhiên, Nhiếp chính cho rằng Mariana quá nhỏ để sinh con, và gửi cô bé trở về Tây Ban Nha.
Chính phủ dưới thời chấp chính của Công tước Bourbon (1723–1726)
Lễ đăng quang của Louis XV tại [[Nhà thờ chính tòa Đức Bà Reims (1722)|thumb]] thumb|[[Xu bạc: 1 écu Vương quốc Pháp với chân dung của Vua Louis XV, 1765]] Ngày 15 tháng 6 năm 1722, Louis sắp lên 13 (tuổi trưởng thành), và rời Paris trở về Versailles, kết thúc cuộc sống vui vẻ thời niên thiếu, nhưng tách biệt với công chúng. Ngày 25 tháng 10, Louis được gia miện tại Nhà thờ chính tòa Đức Bà Reims. Ngày 15 tháng 2 năm 1723, Nghị viện Paris tuyên bố nhà vua đã đến tuổi trưởng thành, chấm dứt thời kì Nhiếp chính. Vào những năm đầu chấp chính của Louis, Công tước Orleans tiếp tục quản lý chính phủ, và được tấn phong làm Thủ tướng vào tháng 8 năm 1723, nhưng lại thường xuyên vui đùa với các nhân tình, tránh xa triều đình và các ngự y. Orleans qua đời vào tháng 12 năm đó. Theo lời khuyên của ân sư là Fleury, Louis XV bổ nhiệm chú họ là Louis Henri, Công tước xứ Bourbon, lên thay Công tước xứ Orléans vừa tạ thế.
Hôn nhân và con cái
Một trong những ưu tiên hàng đầu của Công tước Bourbon là tìm một cô dâu cho nhà vua, để đảm bảo sự liên tục của nền quân chủ, và đặc biệt là để ngăn cản nhà Orleans, đối thủ của gia đình ông, chiếm được ngai vàng. Vị Vương nữ 21 tuổi Maria Leszczyńska, con gái của Stanisław I, vị vua bị truất phế của Ba Lan được chọn. Hôn lễ được tổ chức vào tháng 9 năm 1725 khi nhà vua lên 15. Từ 1727 đến 1737, bà sinh cho vua 10 người con, với 8 gái và 2 trai, trong 2 con trai thì có một người sống đến tuổi trưởng thành, đó là Thái tử Louis (1729-1765). Sự ra đời của người thừa kế được chời đợi từ lâu, đảm bảo cho sự tồn tại của vương triều lần đầu tiên từ 1712, được chào đón bằng một lễ hội rình rang khắp cả nước. Năm 1747, Thái tử cưới Maria Josepha xứ Sachsen, bà sinh ra ba vị vua Pháp cuối cùng: Louis XVI, Louis XVIII, và Charles X.
Vương hậu là người sùng đạo và nhút nhát, bà dành phần nhiều thời gian với đám cận thần và phu nhân trong triều. Bà là một nhạc sĩ, đọc nhiều sách, và chơi các trò chơi công cộng với các cận thần. Tư 1737 bà không còn ngủ chung giường với nhà vua. Bà đau buồn sâu sắc sau Cái chết của Thái tử năm 1765, và qua đời ngày 24 tháng 6 năm 1768, Một thứ thuế mới, cinquantième, được áp dụng cho các giáo sĩ đối lặp trước kia từng được miễn thuế. Phái Jansen và Kháng Cách bị đe dọa bỏ tù và trục xuất. Hậu quả của các cuộc đàn áp này là, xung đột tôn giáo trở thành một vấn đề tranh chấp nội bộ suốt triều Louis.
Căng thẳng gia tăng giữa Công tước Bourbon và Hồng y de Fleury vốn được nhà vua sủng ái. Công tước có tính tình cứng nhắc và thiếu hoạt bát, nên không được lòng nhà vua trẻ. Ông quay sang hỏi ý kiến của vị gia sư cũ về việc điều hành đất nước. Khi nhà vua nhấn mạnh rằng Fleury phải có mặt trong tất cả các cuộc gặp giữa ông và Công tước Bourbon, Công tước đã tức giận và bắt đầu tìm cách vùi dập Fleury trước triều đình. Khi nhà vua nhận ra âm mưu của Công tước, ông liền cách chức ông ta và đưa Fleury lên thay.
Hồng y de Fleury chấp chính (1726–1743)
Tài chính và xung đột tôn giáo
thumb|Hồng y de Fleury. Họa phẩm của [[Hyacinthe Rigaud]] Từ 1726 đến khi qua đời năm 1743, Fleury nắm quyền điều hành Pháp quốc một cách có hiệu quả và nhận được sự ủng hộ từ nhà vua. Fleury lựa chọn những quyết sách cho quốc gia. Ông ta cũng cấm nhà vua thảo luận các vấn đề chính trị với Vương hậu. Để tiết kiệm ngân sách cho triều đình, ông ta đưa bốn cô con gái nhỏ của nhà vua đến nuôi dạy ở Tu viện Fontevrault. Thời kì này có vẻ như là thời kì yên bình nhất và thịnh vượng nhất trong suốt triều Louis XV, nhưng ngọn lửa chống đối vẫn âm ỉ và chờ dịp bùng phát, đặc biệt là từ các nhà quý tộc trong Nghị viện, họ cảm thấy quyền lực của mình đang bị suy giảm. Fleury bổ sung sắc chỉ Unigenitus của Giáo hoàng như một phần của luật pháp và ngăn cấm mọi cuộc tranh luận trong viện Nghị, dẫn đến họ bằng mặt nhưng không bằng lòng. Ông ta đánh giá thấp tầm quan trọng của Hải quân, điều này về sau dẫn đến tai họa lớn khi các cuộc xung đột nổ ra.
Chính phủ Pháp dưới thời Fleury hoạt động ổn định; như Bộ trưởng Chiến tranh, Bauyn d'Angervilliers, và Bộ trưởng Kho bạc, Philibert Orry, giữ chức trong mười hai năm, và Bộ trưởng ngoại giao, Germain Louis Chauvelin, giữ chức mười năm. Bộ trưởng Hải quân và Quản gia của nhà vua, Bá tước de Maurepas, giữ chức thời gian này. Trong 19 năm đầu tiên triều đình chỉ dùng có 13 Bộ trưởng, trong khi qua 31 năm thân chính của mình, nhà vua đã dùng tới 43 người.
Bộ trưởng Tài chính Michel Robert Le Peletier des Forts (tại nhiệm 1726–1730), có công ổn định tiền tệ Pháp, mặc dù ông bị trục xuất vào năm 1730 do tội tư túi. Người kế nhiệm, Philibert Orry, giúp giảm nhiều khoản nợ mắc phải sau Chiến tranh Kế vị Tây Ban Nha, đơn giản và công bằng hóa hệ thống thu thuế, dù ông vẫn theo chính sách thứ mười mất lòng dân, tức là đánh thuế mọi thu nhập công dân là 1/10. Trong hai năm cuối thời chấp chính của Fleury, Orry có những chính sách để cân bằng ngân sách của hoàng gia, thành tựu này không bao giờ có thể lặp lại trong những năm tiếp đó.
Chỉnh phủ của Fleury mở rộng thông thương, cả trong Pháp quốc và giao dịch với nước ngoài. Đường vận chuyển được mở rộng với việc mở kênh đài Saint-Quentin canal (nối liền các sông Oise và Somme) năm 1738, về sau mở rộng ra đến Sông Escaut và Vùng đất thấp, và xây dựng hệ thống đường bộ nội địa. Giữa thế kỉ XVIII, Pháp là nước có mạng lưới đường sá hiện đại và rộng nhất thế giới. Hội đồng thương mại đã thúc đẩy giao thương, và quy mô thương mại hàng hải với nước ngoài của Pháp tăng từ 80 đến 308 triệu livres trong 32 năm (1716 - 1748).
Chính phủ vẫn dùng chính sách đàn áp tôn giáo nhằm vào chủ nghĩa Jansen và những người mà bọn quý tộc trong Nghị viện gọi là "Gallicans". Sau vụ 139 thành viên Nghị viện cấp tỉnh bị sa thải vì chống đối chính sách tôn giáo của chính phủ, Nghị viện Paris buộc phải chấp nhận giáo sắc Unigenitus và bị cấm bàn tán các vấn đề tôn giáo trong tương lai.
Ngoại giao - Liên minh mới; Chiến tranh Ba Lan kế vị
Louis XV, họa phẩm của [[Hyacinthe Rigaud (1730)|thumb]]
Trong những năm đầu chấp chính, Fleury cùng Bộ trưởng Ngoại giao Germain Louis Chauvelin vẫn duy trì liên minh với Anh, mặc dù hai nước này là cựu thù nhiều năm và đang tranh giành các thuộc địa béo bở ở Bắc Mỹ và Tây Ấn. Họ cũng giảng hòa với Tây Ban Nha, sau sự kiện vua Tây Ban Nha nổi trận lôi đình vì triều đình Pháp hủy hôn với vương nữ. Sự ra đời của người thừa kế năm năm 1729 đã chấm dứt khủng hoảng kế vị ở Pháp. Tuy nhiên, các thế lực khác lại nổi lên ở châu Âu, như là Nga quốc dưới sự trị vì của Pyotr Đại đế và Yekaterina I của Nga, Phổ quốc và Thánh chế La Mã với lãnh địa rộng lớn từ Serbia ở Đông Âu và thuộc địa cướp được từ tay Đế chế Ottoman, cùng với những vùng đất đoạt lấy qua hôn nhân với Hà Lan (bao gồm Bỉ) Milan và Vương quốc Napoli.
Một liên minh chống Pháp được hình thành vào ngày 6 tháng 8 năm 1726 với sự tham gia của Phổ, Nga và Áo. Xuung đột giữa hai phe bùng phát sau vấn đề tranh chấp quyền kế thừa ngai vàng Ba Lan. Ngày 2 tháng 1 năm 1733, Vua Ba Lan và Tuyển đế hầu xứ Saxon, August II, qua đời, và người lên ngôi là Stanisław Leszczyński, nhạc phụ của vua Pháp. Trước đó một năm Nga, Áo và Phổ bí mật kí thỏa thuận với mục tiêu loại Stanisław khỏi ngai vàng và thay vào đó là một ứng viên khác, August III, con trai của nhà vua quá cố. Tranh chấp này đã dẫn đến Chiến tranh Kế vị Ba Lan. Stanisław được hộ tống đến Warsaw, lên ngôi vua Ba Lan và Đại Công tước Litva vào ngày 12 tháng 9. Nữ hoàng Nga quốc lập tức điều quân đến Ba Lan để ủng hộ con bài của mình. Stanisław buộc phải bỏ trốn tới cảng Danzig (nay là Gdansk), trong khi đó ngày 5 tháng 10, August III lên ngai báu ở Warsaw.
[[Stanisław Leszczyński, nhạc phụ của Louis XV và là Vua của Ba Lan|thumb|left]] Hồng y Fleury đã cẩn thận thu xếp tình hình. Đầu tiên ông thỏa thuận với Anh và Hà Lan, yêu cầu họ không can thiệp, cùng lúc liên minh với Vua Tây Ban Nha và Vua Sardegna với món hàng trao đổi là các lãnh địa của Đế chế Habsburg. Ngày 10 tháng 10 năm 1733, Louis hạ chiếu tuyên chiến với Áo. Quân Pháp chiếm lấy Công quốc Lorraine và tiếp đó Alsace, trong khi cánh quân khác băng qua dãy Alps và chiếm Milan vào ngày 3 tháng 11, trao nó cho Vương quốc Sardegna. Fleury không mấy tha thiết với việc phục ngôi cho Stanisław, quân của ông này đang bị Hải quân Nga phong tỏa tại Danzig. Thay vì gửi đại quân đến đóng tại Copenhagen đến chi viện cho Danzig, ông ta lại cho quân trở về Brest và chỉ gửi 2000 thủy binh đến, cuối cùng tàu Pháp bị quân Nga đánh chìm. Ngày 3 tháng 7 Stanisław lại phải bôn đào qua Phổ quốc, trở thành thượng khách của Nhà vua Phổ Friedrich Wilhelm I của Phổ tại tòa lâu đài Koenigsburg.
Để kết thúc chiến tranh, Fleury và hoàng đế Karl VI bàn về hiệp ước. Franz III, Công tước xứ Lorraine, bỏ Lorraine đến Vienna, kết hôn với Maria Theresia, người thừa kế ngai vàng nhà Habsburg. Ngôi chúa bỏ trống ở Lorraine được giao cho Stanisław, sau khi ông này từ bỏ quyền lên ngôi ở Ba Lan. Sau Cái chết của Stanislaw, Công quốc Lorraine và Ba Lan lệ thuộc vào Pháp. Franz, về sau nhờ vợ mà trở thành hoàng đế, sẽ được bồi thường đất bị mất ở Lorraine bằng việc nhận phong ở Công quốc Toscana. Nhà vua của Sardegna nhận một số lãnh địa ở Lombardy; nhưnng phải triệt quân về Napoli, đổi lấy Parma và Plaisance. Đám cưới giữa Franz xứ Lorraine với Maria Theresia diễn ra vào năm 1736, và các cuộc trao đổi lần lượt diễn ra. Sau Cái chết của Stanisław năm 1766, Lorraine và vùng lân cận là Công quốc Bar sáp nhập vào Vương quốc Pháp.
Tháng 9 năm 1739, Fleury lại tìm được một thành công ngoại giao khác. Sự trung gian hòa giải của Pháp trong cuộc chiến giữa Thánh chế La Mã và Đế chế Ottoman dẫn đến Hiệp ước Belgrade (tháng 9, 1739), theo đó Ottoman là nước giành lợi thế. Từ đầu thế kỉ XVI, Pháp thường liên minh với Ottoman chống lại nhà Habsburg. Để trả ơn, năm 1740, Ottoman gia hạn sự thỏa hiệp, đánh dấu uy quyền thương mại của Pháp tại ở Trung Đông. Với những thành công này, uy tín của Louis XV đạt tới đỉnh điểm. Năm 1740, Vua của Phổ tuyên bố "Kể từ Hiệp ước Vienna, Pháp là trọng tài của châu Âu."
Chiến tranh Kế vị Áo
Ngày 29 tháng 10 năm 1740, khi nhà vua đang đi săn ở Fontainebleau, một thám mã đến báo tin Hoàng đế Karl VI băng hà, con gái là Maria Theresia của Áo lên kế ngôi. Sau hai ngày suy nghĩ, Louis tuyên bố, "Trong vụ này, trẫm không muốn dính líu đến. Trẫm vẫn sẽ để tay trong túi, nếu họ không bầu lên một ông vua Kháng Cách." Quân Pháp và Bayern nhanh chóng lấy Linz và lập vòng vây ở Prague. Ngày 10 tháng 4 năm 1741, Friedrich của Phổ đại thắng quân Áo tại Trận Molwitz. Ngày 18 tháng 5, Fleury lập liên minh mới giữa Pháp, Tây Ban Nha và Bayern, sau đó có thêm Ba Lan và Sardegna. Tuy nhiên năm 1742, tình thế đảo ngược. Vị vua gốc Đức ở bên kia eo biển, George II, kiêm Tuyển đế hầu xứ Hannover, đứng về phía Áo và đem quân giao tranh với Pháp trên lãnh thổ Đức. Quân Hungary của Maria Theresa tái chiếm Linz và tiến quân vào các xứ Bayern cùng Munich. Tháng 6, Friedrich của Phổ rút liên minh với Pháp ngay sau khi chiếm xong Silesia từ tay người Áo. Belleville phải rút khỏi Prague, tổn thất 8000 người. Trong bảy năm, Pháp đã tham gia vào một cuộc chiến tranh tốn kém với liên minh chuyển đổi liên tục. Orry, người quản lý tài chính Pháp, buộc phải phục hồi thuế 1/10 mất lòng dân để gây quỹ chiến tranh. Hồng y de Fleury đã không sống đủ lâu để thấy sự kết cục cuộc chiến; ông qua đời vào ngày 29 tháng 1 năm 1743, và sau đó Louis trị vì một mình.
Louis XV và [[Maurice de Saxe tại Trận Lauffeldt (2 tháng 7 năm 1747)|thumb]] Cuộc chiến ở Đức gặp bất lợi; quân Pháp và Bayern phải đối mặt với liên quân Áo, Saxon, Hà Lan, Sardegna và Hannover. Quân của Công tước xứ Noailles bị thua trước quân Anh, quân Hessian và Hannover dưới sự chỉ huy của George II tại Trận Dettingen, và tháng 9 quân Pháp phải rút hết khỏi lãnh thổ Đức.
Năm 1744, Hà Lan trở thành chiến trường chính, và tình hình chiến tranh có chút chuyển biến tốt cho phía Pháp. Friedrich Đại đế quyết định tái ủng hộ Pháp. Louis XV rời Versailles và thân chinh dẫn quân đến Hà Lan, tướng chỉ huy quân Pháp là Nguyên soái Maurice de Saxe, người gốc Đức. Tại Trận Fontenoy ngày 11 tháng 5 năm 1745, Louis, dẫn theo Thái tử, giành chiến thắng trước liên quân Anh, Hà Lan và Áo. Khi Thái tử xúc động vì nhìn thấy máu những người lính qua đời, nhà vua bảo, "Mày nên biết rằng chiến thắng nào cũng có giá của nó. Máu của kẻ thù vẫn là máu con người. Chiến thắng chân chính cần phải giảm thiểu điều đó." Saxe thắng trận tiếp theo tại Rocoux (1746) và Lauffeld (1747). Năm 1746, quân Pháp bao vây và chiếm lấy Brussels, và Louis ca khải hoàn vào thành. Nhà vua ban cho de Saxe Lâu đài de Chambord ở thung lũng Loire để tưởng thưởng.
Trực tiếp điều hành chính phủ (1743–1756)
Bộ trưởng Tài chính [[Jean Baptiste de Machault D'Arnouville, người đã có nhiều nỗ lực cải cách hệ thống tài chính của Pháp|thumb]]
Sau khi Fleury qua đời vào tháng 1 năm 1743, Bộ trưởng Chiến tranh, Công tước xứ Noailles, dâng biểu lên nhà vua kể về cố sự Louis XIV từng căn dặn cháu nội ông, cũng tức là Felipe V của Tây Ban Nha; rằng: "Đừng để chính mình bị chi phối; hãy làm chủ. Không nên có sủng thần hay thủ tướng. Lắng nghe, tham khảo ý kiến của Hội đồng, nhưng hãy giữ quyền quyết định. Nhờ Chúa, mày trở thành Vua; và hãy tự mình quyết định, miễn là mày có ý định tốt." Louis theo lời khuyên đó và quyết định cai trị mà không lập tể tướng. Hai vị Thượng thư nắm nhiều quyền lực nhất trong chính phủ là; Thượng thư bộ Tài chính, Jean Baptiste de Machault D'Arnouville, và Thượng thư bộ Binh, Bá tước d'Argenson
Khi chiến tranh chấm dứt, Louis nắm lấy cơ hội để tìm cách giảm nợ và hiện đại hóa hệ thống thuế của Vương quốc. Cải cách được Thượng thư Bộ Tài chính D'Arnouville đưa ra rồi được nhà vua chấp thuận qua hai sắc lệnh ban hành vào tháng 5, 1749. Biện pháp đầu tiên là phát hành trái phiếu, lấy lãi 5%, để trả nợ 36 triệu livres dùng cho chiến tranh. Phương pháp mới này ngay lập tức giành được kết quả. Biện pháp thứ hai làm hủy bỏ dixième, loại thuế 10% thu nhập, vốn lập ra để phục vụ nhu cầu chiến tranh, thay thế bằng vingtième, lấy thuế 5% thu nhập, nhưng không như dixième, nó đánh thuế trên tất cả công dân, lần đầu tiên giai cấp tăng lữ và quý tộc cũng phải nộp thuế.
Trong khi loại thuế mới được người dân ủng hộ, như Voltaire, nó gặp phải sự chống đối quyết liệt từ giới tăng lữ, quý tộc. Ngày 5 tháng 5 năm 1749 khi nó được công bố tại Nghị viện Paris, nơi mà giới tăng lữ và nhà giàu mua được gần hết số ghế, dự luật bị bác bỏ với tỉ lệ 106/49; đa số người cho cần thêm thời gian để xem xét. Nhà vua đáp lại bằng cách ra lệnh phải thông qua ngay lập tức, và Nghị viện miễn cưỡng thông qua vào ngày 19 tháng 5. Nhưng sự chống đối với chính sách mới vẫn tiếp tục trong giới nhà thờ và ở các tỉnh, vốn đều có Nghị viện riêng của mình. Trong khi Nghị viện Bourgogne, Provence và Artois tuân theo lệnh vua, Bretagne và Languedoc kháng mệnh. Chính phủ hoàng gia giải tán Nghị viện Bretagne, buộc các thành viên Nghị viện Languedoc trở về xứ của họ, và trực tiếp kiểm soát Provence.
Kế hoạch đánh thuế lên nhà thờ của vua cũng gặp khó khăn. Một sắc lệnh được đưa ra, theo đó tất cả các giáo sĩ phải đệ trình kê khai thu nhập vào ngày 17 tháng 2 năm 1751, nhưng không ai khai gì hết. Thay vào đó, nhà vua đã lặng lẽ ban hành một sắc lệnh mới vào tháng 12 năm 1750, hủy bỏ thuế và dựa hoàn toàn vào đóng góp tự nguyên của các nhà thờ là 1,500,000 livres. Theo nghị định mới, thay vì nộp thuế, nhà thờ mỗi năm sẽ thu được một số tiền và tự nguyện dâng nó cho chính phủ. Sự ủng hộ của vua cho nhà thờ là do gia sư của ông, Hồng y Fleury, dạy và lòng biết ơn của ông với Tổng Giám mục de Beaumont, người bảo vệ ông chống lại các cuộc tấn công của Jansen và những lời chỉ trích của Nghị viện, và Tổng Giám mục còn tỏ ra khoan dung với cuộc sống phóng túng của nhà vua bên các cô tình nhân.
Dù chiến thắng của Pháp, chiến tranh vẫn còn lan rộng ở Hà Lan và Ý, nơi Tướng quân Belle-Isle bao vây quân Áo ở Genoa. Trước hè 1757, Pháp chiếm toàn bộ Hà Lan thuộc Áo (nước Bỉ hiện nay). Tháng 3 năm 1748, Louis đề xuất hội họp tại Aix-en-Chapelle để thương nghị kết thúc chiến tranh. Quá trình bắt đầu khi Maastricht bị Tướng de Saxe chiếm vào ngày 10 tháng 4 năm 1748. Anh, đang bị áp lực bởi đe dọa xâm lược từ Pháp và phần còn lại của Hà Lan, kêu gọi đàm phán liền dù cho phản đối từ Áo và Sardegna. Hiệp ước được các bên thương lượng trong tháng 9 và tháng 10 năm 1748. Louis thì cũng muốn giải quyết nhanh bởi chiến tranh với Anh đe dọa đến nguồn lợi hàng hải của Pháp. Đề xuất của Louis rất là hào phóng; trong Hiệp ước Aix-la-Chapelle, Louis đã lại tất cả lãnh thổ đã chiếm ở Hà Lan cho Áo, Maastricht cho Cộng hòa Hà Lan, Nice và Savoia cho Sardegna, và Madras cho Ấn Độ thuộc Anh. Người Áo trả lại Công quốc Parma và các lãnh thổ khác cho vua Tây Ban Nha, trong khi Anh trao cho Pháp Louisburg và đảo Cape Breton, đều thuộc Nova Scotia. Pháp cũng đồng ý trục xuất người đòi ngôi nhà Stuart của Anh.
Chiến tranh kết thúc, Paris tổ chức ăn mừng, nhưng khi Hiệp ước được công bố vào ngày 14 tháng 1 năm 1749, gây ra sự bất bình và phẫn nộ. Người đòi ngôi nhà Stuart của Anh không chịu dời đi, và hành động này được người Paris hoan nghênh. Cuối cùng anh ta bị bắt ngày 10 tháng 12 năm 1748 và bị đày ra Switzerland. Các tướng Pháp, như De Saxe, cũng tức giận về việc bỏ Hà Lan thuộc Tây Ban Nha. Quyết định của nhà vua cũng có cái lý của ông: ông không muốn Hà Lan thành nơi tranh chấp giữa Pháp với các cường quốc, và cho rằng lãnh thổ nước Pháp đã đạt đến cực hạn, nên làm quốc gia thịnh vương thay vì mở rộng lãnh thổ. Lý lẽ của ông còn dựa trên tôn giáo; ông được dạy bởi Fleury về Điều răn thứ 7, cấm lấy tài sản của người khác bằng gian lận hay bạo lực. Louis thường trích dẫn một câu châm ngôn "Nếu ai hỏi bằng cách nào anh ta có thể bảo vệ tốt nhất một vương quốc, thì câu trả lời là, không mở rộng nó ra thêm nữa." Ông cũng nhận được sự ủng hộ của Voltaire, "Có vẻ như tốt hơn, và thậm chí còn hữu ích hơn khi triều đình Pháp suy nghĩ về sự thỏa mãn của các đồng minh, chứ không phải là để có hai hoặc ba thị trấn Flemish mà khiến người ta thù dằn lâu dài." Vua không có đủ kỹ năng giao tiếp để giải thích quyết định của mình cho công chúng, và thấy không cần làm như vậy. Tin tức về việc nhà vua trả đất cho Áo gặp phải nhiều hoài nghi. Người Pháp thu được rất ít so với những gì họ đã chiến đấu, họ gọi đó là Bête comme la paix ("Ngu như hòa bình") và Travailler pour le roi de Prusse ("Làm việc cho vua Phổ", i.e. làm không vì cái vì cả).
Vương hậu, con cái và những nhân tình đầu tiên
thumb|upright|Vương hậu Maria của Ba Lan, họa phẩm của [[Carle Van Loo (1747)]] upright|thumb|Chân dung của [[Louise Julie de Mailly, họa phẩm của Alexis Grimou.]]
Từ 1727 đến 1737, Vương hậu hạ sinh 2 trai 8 gái. Vương tử, chào đời ngày 4 tháng 9 năm 1729, được tấn phong làm Thái tử (dauphin) kế vị ngôi vua, dù anh qua đời trước phụ vương và không lên ngôi được. Con trai thứ hai, Công tước xứ Anjou, sinh 1730, mất 1733. Chỉ có hai người con lớn được nuôi ở Versailles; những người còn lại được nuôi ở Tu viện Fontevrault. Vương trưởng nữ, gọi là Madame Premiere, kết hôn với vương tử Felipe của Tây Ban Nha, con trai thứ hai của vua Tây Ban Nha và Elisabetta Farnese.
Louis đã từng rất yêu thương Vương hậu, trong những năm đầu họ dường như không thể tách rời, nhưng vì số người trong nhà tăng lên và Vương hậu kiệt sức vì liên tục mang thai, nhà vua bắt đầu nhìn ra bên ngoài. Đầu tiên ông làm quen với một thị nữ của Vương hậu, Louise Julie de Mailly, người cùng tuổi với ông và đến từ gia đình quý tộc xưa. Không cần tán tỉnh hay nghi thức, ông biến Mailly làm nhân tình và tấn phong bà ta lên địa vị Nữ Công tước. Công tước xứ Luynes bình luận: "Nhà vua yêu phụ nữ, nhưng không đủ can đảm để kiềm chế cảm xúc của mình." Năm 1738, sau khi vương hậu sẩy thai, các bác sĩ cấm bà giao hợp với nhà vua một thời gian. Nhà vua cảm thấy bị xúc phạm khi vương hậu từ chối mình và sau đó không còn ngủ chung với bà nữa. Biết rằng mình phạm tội ngoại tình, Louis từ chối xưng tội và nhận bí tích. Hồng y de Fleury cố gắng thuyết phục ông từ bỏ mấy cô nhân tình, song không được.
Năm 1740, nhà vua hướng sự chú ý qua em gái của Louise-Joulie, Pauline-Félicité, Hầu tước de Vintimille, đã kết hôn. Pauline-Félicité mang thai với vua vào cuối năm đó, nhưng cuối cùng cả mẹ lẫn con đều qua đời. Nhà vua rất đau thương và giành một thời gian cầu nguyện để tìm sự an ủi.
Tháng 6 năm 1744, vua rời Versailles để chuẩn bị thân chinh trong cuộc chiến kế vị Áo. Việc di chuyển phổ biến này đã bị hủy hoại bởi quyết định thiếu thận trọng của nhà vua để mang theo Marie-Anne de Mailly. Danh tiếng của ông trước công chúng trở nên xấu đi khi ông quyết định mang theo Marie-Anne de Mailly. Tháng 8, vua bệnh nặng ở Metz. Cái chết cận kề, và người ta tổ chức các lễ cầu Chúa phù hộ cho nhà vua qua khỏi. Các giáo sĩ từ chối làm lễ xá tội cho vua nếu ông không từ bỏ nhân tình, ông làm theo ý họ; Marie-Anne rời khỏi hậu cung nhưng lại đoàn tụ với vua một tháng sau. Lời thú nhận của nhà vua được công bố công khai khiến ông xấu hổ và làm tê liệt uy tín của chế độ quân chủ. Mặc dù việc Louis hồi phục sau căn bệnh khiến ông có biệt danh "Đáng yêu", sự kiện tại Metz làm giảm uy tín của ông. Thành công quân sự trong Chiến tranh Kế vị Áo làm dịu đi ác cảm của công chúng với những người tình của Louis, nhưng sau năm 1748, từ sự phẫn nộ với Hiệp ước Aix-la-Chapelle, những lời bàn tán không hay về những người phụ nữ đó được lan truyền rộng rãi.
Madame de Pompadour
Jeanne-Antoinette Poisson, nổi tiếng với biệt danh Madame de Pompadour, là nhân tình nổi tiếng nhất và có ảnh hưởng nhất của Louis XV. Bà là con ngoại hôn của một tướng quân ở Paris, đã kết hôn với một chủ ngân hàng, Charles Guillaume Lenormant d'Etoiles. Jeanne-Antoinette được nhà vua để mắt tới trong cuộc đi săn, và chính thức gặp ông ở buổi dạ hội thời trang Carnaval năm 1745. Trước tháng 7, bà đã là người tình của nhà vua và được tấn phong tước Hầu xứ de Pompadour. Trong 20 năm tiếp theo, bà là người tri kỉ và cố vấn của nhà vua, giúp vua chọn hoặc bãi nhiệm các quan Thượng thư. Ý kiến của bà khiến các Bộ trưởng có thế lực bị lật đổ, bao gồm Machault d'Aurnouville và Hầu tước d'Argenson, và nâng đỡ một số tướng không đủ năng lực. Lựa chọn đúng đắn nhất của bà là Công tước de Choiseul, người trở thành một trong những quan đại thần có năng lực nhất thời Louis XV. Từ năm 1750 bà không còn là tình nhân của nhà vua nữa nhưng vẫn là cố vấn thân cận nhất của ông. Bà được tấn phong làm Nữ Công tước vào năm 1752, và Phu nhân của cung Vương hậu vào năm 1756, và là người bảo trợ cho âm nhạc và nghệ thuật cũng như tôn giáo. Bà vẫn ở gần nhà vua cho đến khi qua đời vào năm 1764. Ông bị suy sụp tinh thần và nhốt mình trong phòng nhiều tuần sau khi bà mất.
Khởi đầu Chiến tranh Bảy năm
[[Friedrich Đại đế đánh bại quân Pháp tại Trận Rossbach (5 tháng 11 năm 1755)|thumb]] Chiến thắng của quân Anh tại [[Trận Vịnh Quiberon (20 tháng 11 năm 1759) chấm dứt hi vọng xâm lược Anh quốc của Louis|thumb]] Sau Hiệp ước Aix-la-Chapelle, nước Pháp yên ổn được bảy năm. Đến cuối tháng 8, 1755, Maria Theresia, Hoàng hậu Áo, bí mật viết thư cho Louis XV, được đại sứ Áo tại Paris đưa cho Madame de Pomapadour để chuyển lên nhà vua. Bà ta bí mật đề nghị kết minh Áo với Pháp, để chống lại sự đe dọa của cường quốc đang nổi lên là Phổ, khi đó vẫn còn là đồng minh của Pháp và Anh.
Tại Tân thế giới, xung đột vẫn tiếp tục giữa Anh và Pháp. Các thuộc địa Pháp gặp phải bất lợi lớn về nhân khẩu; có ít hơn 70.000 người Pháp đóng trải dài trên một lãnh thổ từ Sông Saint Lawrence đến Ngũ Đại Hồ mở rộng xuống các thung lũng sông Mississippi và Ohio xuống Louisiana (đặt tên cho ông cố nhà vua, Louis XIV); so với 300.000 ở các thuộc địa Anh. Để bảo vệ lãnh thổ của mình, Pháp đã xây dựng Fort Duquesne để bảo vệ biên giới; Anh cũng cử George Washington đem một lực lượng nhỏ xây pháo đài ở Fort Necessity, gần đó. Năm 1752, sau khi tướng Joseph Coulon de Jumonville bị giết, người Pháp đã gửi quân tiếp viện và buộc Washington và quân của ông ta phải rút lui.
Tiếp đó là Chiến tranh Pháp - Ấn Độ (không tuyên chiến), người Anh coi các thuộc địa Pháp là kẻ thù. Năm 1755, Anh bắt giữ 300 tàu buôn Pháp. Tháng 1 năm 1756, Louis gửi tối hậu thư cho Luân Đôn về việc đó, chính phủ Anh bác bỏ. Vài tháng sau, ngày 16 tháng 1 năm 1756, Friedrich Đại đế của Phổ kí Hiệp ước Westminster, kết minh với Anh. Louis đáp lại ngay lập tức vào ngày 1 tháng 5 năm 1756 khi kí hiệp ước phòng thủ chung với Áo, đó là Hiệp ước Versailles. Điều này khiến cả Vương đình Pháp bất ngờ, vì Pháp với Áo vốn là kẻ thù không đội chung trời trong suốt 200 năm.
Louis tuyên chiến với Anh vào ngày 9 tháng 6 năm 1756, và gần như đã thành công. Hạm đội Pháp tại Địa Trung Hải đánh bại quân Anh ở Minorca năm 1756, và chiếm được đảo. Quân Pháp lại vượt trội hơn so với Anh và Phổ ở lục địa. Họ giành thắng lợi trước quân Anh dưới sự chỉ huy của Hoàng tử Công tước xứ Cumberland ở Closterseven. Đội quân khác xâm chiếm Saxon và Hannover, quê hương của Vua George II. Tuy nhiên, tướng giỏi nhất bên Pháp, Maurice de Saxe, đã qua đời hai năm sau Chiến tranh Kế vị Áo, và các tướng quân mới, Charles, Thân vương xứ Soubise, Công tước D'Estrees và Công tước de Broglie ghét nhau và không muốn hợp tác với nhau. Tháng 8, Friedrich của Phổ mở cuộc đánh chớp nhoáng vào Saxon và ngày 5 tháng 11 năm 1757, quân Pháp dù đông gấp đôi đối phương, nhưng đã bị đánh bại tại Trận Rossbach. Tân Thủ tướng Anh, William Pitt, chọn một vị tướng mới là Công tước Ferdinand xứ Braunschweig-Wolfenbüttel, và quân đội Pháp bị đẩy trở lại Rhein, bị đánh bại lần nữa tại trận Crefield ngày 23 tháng 6. Sau đó, Anh và Phổ nắm được thượng phong, đẩy quân Pháp về các lãnh thổ Đức dọc theo sông Rhein.
Sức mạnh của Hải quân Anh ngăn cản Pháp mở rộng các thuộc địa ở nước ngoài, và phi đội hải quân Anh đột kích vào bờ biển Pháp quốc tại Cancale và Le Havre sau đổ bộ lên Ile d'Aix và Le Havre. Năm 1759 người Anh chiếm Martinique và Guadeloupe miền Tây Ấn, cùng Cảng Louis và Quebec. Một loạt thất bại trên biển buộc Louis phải từ bỏ kế hoạch xâm lược Anh quốc. Ở Ấn Độ, thuộc địa Pondicherry của Pháp bị quân Anh phủ vây. Tiền đồn quan trọng của Pháp ở Pondicherry thuộc Ấn Độ cũng lâm nguy, và đầu hàng vào năm sau. Ngày 8 tháng 9 năm 1860, Montreal đầu hàng, kết thúc nền đô hộ của Pháp tại Canada. Martinique rơi vào tay người Anh năm 1762.
Vụ ám sát
thumb|Robert-François Damiens, họa phẩm của [[Ange-Jacques Gabriel (1757)]]
Ngày 5 tháng 1 năm 1757, khi nhà vua ngồi xe ngựa đến sân Grand Trianon Versailles, một người đàn ông bị điên, Robert-François Damiens, đẩy lui đám thị vệ và tấn công nhà vua, dùng con dao nhỏ đâm vào bên hông vua. Các thị vệ bắt giữ Damien, và nhà vua lệnh cho họ cầm giữ nhưng không được làm hại hắn ta. Ông đi bộ lên cầu thang tới phòng mình tại Trianon, ở đó vết thương trở nặng. Ông cho đòi bác sĩ và linh mục tới, rồi ngất đi. Louis được cứu khỏi vết thương lớn này vì khi đó mùa đông, quần áo ông mặc dày hơn bình thường. Tin tức truyền tới Paris, đám đông tụ họp trên đường phố. Giáo hoàng, Hoàng hậu Áo và vua Anh đều gửi thư cầu chúc cho ông hồi phục. Damien bị tra tấn nặng nề để coi có ai đứng đằng sau không, rồi bị xét xử trước Nghị viện Paris, thế lực đối kháng với vua trong mấy năm này. Để chứng minh sự trung thành của mình với nhà vua, Nghị viện kết án Damiens đến mức án nặng nhất; ngày 28 tháng 9 năm 1757, Damien bị xử qua đời tại Cung điện de Grève tại Paris bằng hình thức quải lạp phân (treo cổ, chặt đầu và phanh thây), thi thể bị đốt đi. Ngôi nhà của hắn bị đốt đi, người cha, vợ và các con gái bị trục xuất khỏi Pháp quốc, các anh chị em bị bắt phải đổi tên đổi họ. Nhà vua hồi phục nhanh, nhưng cuộc tấn công ảnh hưởng nhiều đến tinh thần của ông. Một trong những cựu thần của ông, Duford de Chervrny, sau đó viết: "ai cũng thấy khi các triều thần đến chúc mừng ngài hồi phục, Bệ hạ đáp, "vâng, trẫm khỏe," nhưng ôm đầu và nói, "nhưng điều đó rất tệ, và khó có thể chữa lành." Sau vụ ám sát, nhà vua đã mời thái tử đến để tham dự tất cả các cuộc họp của Hội đồng Hoàng gia và lặng lẽ đóng cửa lâu đài tại Versailles, nơi ông đã gặp với những người tình ngắn ngủi của mình.
Nghị viện nổi dậy
Nghị viện là tổ chức của tầng lơp quý tộc và tăng lữ Pháp, những thành viên ở đây là thẩm phán tại tòa án, bao gồm cả quý tộc cha truyền con nối và bọn tư sản giàu mua ghế. Một số Nghị viện địa phương, chẳng hạn như Rouen và Provence, đã tồn tại hàng thế kỷ, và coi mình là chính phủ hợp pháp ở các tỉnh của họ. Louis tổ chức lại chính phủ và bổ nhiệm người của mình khiến uy quyền của Nghị viện cùng giá mua chức đều giảm theo. Ở Franche-Comte, Bordelaise và Rouen, Nghị viện từ chối nghe lệnh hoàng gia. Khi các đại thần khuyên nhà vua khẳng định quyền lực và thu thuế tất cả đẳng cấp, Nghị viện đình công, từ chối tiến hành xét xử các vụ án dân sự. Hệ thống tòa án bị đình trệ. Năm 1761, Nghị viện Normandy và Rouen đã viết biểu trình lên, giải thích rằng nhà vua có quyền đánh thuế, nhưng Nghị viện có độc quyền để thu thuế. Vua bác bỏ, trục xuất một số thành viên Nghị viện chống đối và tịch thu đất phong của họ. Trong suốt những năm sau, Nghị viện theo mệnh nhà vua, nhưng tìm mọi cơ hội để chống lại các khoản thuế mới và quyền hạn của nhà vua. Đây là một trong những nguyên nhân của sự phản đối quyền lực nhà vua mà cuối cùng phát triển thành Cách mạng Pháp ba chục năm sau.
Miễn nhiệm chính phủ
Bá tước d'Argenson làm Bộ trưởng Chiến tranh từ 1743 đến 1747. Ông chủ trương duy trì chế độ quân chủ chuyên chế như kiểu thời Louis XIV của Pháp. Ông lập ra trường kĩ sư đầu tiên cho Pháp tại Mézières (1749–50); nhờ có các kỹ sư được đào tạo, Pháp có hệ thống cầu đường tốt nhất ở châu Âu. Ông cũng thành lập học viện quân sự, École Militaire, và theo mô hình của người Phổ, thành lập các trại đào tạo quân sựp, giúp khôi phục sức mạnh quân sự của Pháp.
Machaud D'Arnouville được D'Argenson tiến cử, nhưng hai người dần đối đầu nhau. D'Arnouville là Thượng thư bộ Tài chính từ 1745 đến 1754, rồi Bộ trưởng Hải quân từ 1754 đến 1757. Ông đặt ra thuế "Vingtieme" (1749) không được ủng hộ, theo đó đánh thuế tất cả công dân, kể cả tầng lớp quý tộc, cùng tỷ lệ, đồng thời giảm giá ngũ cốc (1754), làm tăng đáng kể sản lượng nông nghiệp. Sự dao động giá ngũ cốc cuối cùng sẽ trở thành một nguyên nhân Cách mạng Pháp.
Ngày 1 tháng 2 năm 1757, nhà vua đột ngột bãi chức cả d'Arnouville và d'Argenson, đày họ về quê; vì cho rằng họ lơ là không biết ngăn cản vụ ám sát, và chính phủ của họ không làm hài lòng Madame de Pompadour.
Chính phủ của Công tước de Choiseul (1758–1770)
thumb|[[Étienne-François de Choiseul]]
Louis tấn phong Công tước de Choiseul làm Thượng thư Bộ Ngoại giao ngày 3 tháng 12 năm 1758, theo tiến cử của Madame de Pompadour. Năm 1763, Choiseul được thăng làm Thượng thư bộ Chiến tranh, còn chức ở Bộ Ngoại giao chuyển cho người anh em họ của ông ta, Công tước de Praslin. Vài tháng sau, ông ta được kiêm nhiệm Thượng thư Hải quân, trở thành nhân vật quyền lực và có ảnh hưởng nhất trong chính phủ. Ở trong hội đồng và chính phủ, ông là người đứng đầu phe philisophe, bao gồm Madame de Pompadour, cố gắng xoa dịu Nghị viện và phe Jansen. Trên mặt trân ngoại giao, ông đàm phán một "Hiệp ước gia đình" với quân vương nhà Bourbon của Tây Ban Nha (1761); tức Hiệp ước Paris năm 1761, và hoàn thành việc sáp nhập Lorraine vào Pháp (1766) sau Cái chết của Stanisław Leszczyński, Công tước xứ Lorraine cũng là nhạc phụ của nhà vua. Ông sáp nhập Corsica vào Pháp (1768), và đám phán hôn nhân cho cháu nội nhà vua, vị vua tương lai Louis XVI với Maria Antonia của Áo của Áo (1770).
Thành tựu đáng chú ý nhất của ông là cải cách hiện đại hóa quân đội Pháp, dựa trên những bài học kinh nghiệm từ Chiến tranh Bảy năm. Thời Choiseul, chính phủ, thay vì các sĩ quan, trực tiếp chịu trách nhiệm huấn luyện, thiết kế đồng phục, và đào tạo quân sĩ. Pháo binh được cải tiến, và các chiến thuật mới, dựa trên mô hình Phổ, được thông qua và giảng dạy. Năm 1763, Hải quân chỉ còn 47 tàu và 20 chiếm hạm hạng nhì, nhỏ hơn ba lần so với Hải quân Hoàng gia Anh. Vì thế ông cho đóng tàu lớn để có được 80 tàu và 45 chiếm hạm hạng nhì mới.
Trục xuất linh mục dòng Tên (1764)
Louis XV in 1763|thumb|left Năm 1764, bởi sự xúi giục của Nghị viện, Madame Pompadour và Thượng thư Ngoại giao, Công tước de Chosieul, Louis quyết định trục xuất các linh mục dòng Tên ra khỏi Pháp. Dòng tên ở Pháp gồm 3.500 người; họ có 150 trụ sở ở Pháp, bao gồm 85 trường đại học, được xếp vào hạng tốt nhất ở Pháp; những sinh viên tốt nghiệp từ những trường này bao gồm Voltaire và Diderot. Người Giải tội của nhà vua, chức danh có từ thời Henri IV, thuộc dòng Tên. Sự chống đối với dòng tên bắt đầu năm 1760 tại các Nghị viện địa phương, nơi phe Gallican, một chủ nghĩa chống lại một số nguyên tắc của Giáo hội đương thời, chiếm thế lực lớn. Để chống lại dòng Tên, họ đưa ra lý lẽ là dòng này không phụ thuốc vào quyền vua và hệ thống giáo đường và nhà thờ ở Pháp. Dòng Tên đã bị trục xuất khỏi Bồ Đào Nha và thuộc địa Brasil năm 1759 vì xung đột với chính phủ và hệ thống giáo hội ở đó..
Ở Pháp, Nghị viện phát động đàn áp dòng Tên. Ngày 12 tháng 2 năm 1762, Nghị viện Rouen tuyên bố đặt dòng Tên ra ngoài vòng pháp luật, cấm họ vào triều làm quan hoặc đi dạy học, và yêu cầu họ thề bỏ đi đức tin của mình. Giữa tháng 4 và tháng 9 năm 1762, các Nghị viện của Rennes, Bordeaux, Paris và Metz cũng tham gia vào, tiếp theo vào năm 1763 tại Aix, Toulouse, Pau, Dijon và Grenoble. Đến cuối năm chỉ còn Nghị viện xứ Besançon, Douai, và chính phủ ở Colmar, Flanders, Alsace và Franche-Compté, thêm Công quốc Lorraine, do phụ thân của Vương hậu là Stanisław trị vì, vẫn ủng hộ dòng Tên.
Chiến dịch chống lại dòng Tên khiến hoàng gia bị chia rẽ; thái tử, các vương nữ cùng Vương hậu ủng hộ dòng Tên, còn Madame de Pompadaour, người có ảnh hưởng lớn trong triều và bị dòng Tên chỉ trích nặng nề, muốn đuổi họ. Nhà vua do sự và tuyên bố rằng hai năm sau ông sẽ quyết định theo ý của riêng mình. Dòng Tên rời đi, và được chào đón ở Phổ và Nga. Sự ra đi của các linh mục dòng Tên làm suy yếu hệ thống nhà thờ, và đặc biệt là làm suy yếu quyền lực của nhà vua, giống như ở một vương quốc lập hiến, đã ra lệnh trên danh nghĩa của Quốc hội thay vì của riêng mình.
Sự chống đối từ Nghị viện
Dưới thời Choiseul, nhiều Nghị viện tỉnh vẫn tuyên thệ trung thành với vương quyền, song từ chối tuân theo ý của người quản lý vua hay các thứ thuế mới. Nghị viện Franche-Comté ở Besançon từ chối thu thuế vingtieme do nhà vua ban để tài trợ cho chiến tranh, tuyên bố rằng chỉ có Nghị viện mới có thể áp thuế. Triều đình ngay lập tức sa thải Chủ tịch Nghị viện và tiến hành quản thúc tại gia đối với họ. Nghị viện Normandy liền ủng hộ Nghị viện Besançon; bằng việc viết ra những nội dung có lời lẽ châm biếm nhà vua vào ngày 5 tháng 7 năm 1760, tuyên bố Nghị viện là đại diện của tất cả các giai cấp: "Một quốc vương, một luật pháp, một Nghị viện; luật pháp của vương quốc là một hiệp ước thiêng liêng của liên minh các giai cấp với quốc gia Pháp; hợp đồng mệnh lệnh nhà vua phải cai trị và dân chúng phải vâng theo Công Lý, không ai ngoài Đức Chúa Trời có thể buộc Bệ hạ phải tuân theo bản hiệp định thiêng liêng này... nhưng chúng tôi có thể yêu cầu Ngài, với lòng tự trọng, hãy giữ lời hứa." Nhà vua cảm thấy rất quá đáng. Ông đáp lại vào ngày 31 tháng 1 năm 1761 rằng khiếu nại của Nghị viện đã "chứa đựng các nguyên tắc sai lầm và đi ngược với thẩm quyền của Trẫm và với những từ ngữ không đứng đắn, đặc biệt liên quan đến Bộ trưởng của trẫm người sẽ giải thích cho các người những mong muốn của ta... và Trẫm trả lại thư này cho các ngươi." Các thành viên Nghị viện Besançon vẫn bị quản thúc.
Nghị viện Bordeaux thậm chí còn đi xa hơn trong cuộc chiến chống lại triều đình; năm 1757 họ đã đưa ra cáo buộc tham nhũng chống lại các thành viên chính phủ ở Bergerac, được bổ nhiệm bởi Hội đồng hoàng gia của nhà vua. Khi Hội đồng hoàng gia tiến hành ngăn cản, Nghị viện viết thư phản hồi với nhà vua, tuyên bố, "Thánh thượng, Nghị viện của người không thể công nhận bất kì thế lực nào trung gian giữa nó và người; không, Hội đồng của người không thể có thẩm quyền trên được Nghị viện." Thượng thư bộ Tài chính mới, Étienne de Silhouette đã áp các thứ thuế mới nhắm vào bọn nhà giàu; thuế ngựa, xa, lụa, tranh vẽ, cà phê và những món xa xỉ khác. Các thuế mới làm mất lòng bọn nhà giàu; Silhouette bị sa thải sau 8 tháng. Vua tuyên bố rằng rằng ông đã đem tài sản của mình vào ngân khố, làm nó tan chảy ra và biến thành tiền.
Ngoại giao – kết thúc bảy năm chiến tranh
Chiến tranh với Anh vẫn tiếp diễn sau Cái chết của vua George II ngày 25 tháng 10 năm 1760; Thủ tướng Anh, William Pitt từ chối đề xuất đàm phán của Pháp. Ngày 15 tháng 8 năm 1761, Pháp, Tây Ban Nha, Napoli và Parma, liên minh các vương quốc của gia tộc Bourbon, kí vào "Hiệp định gia đình" thứ nhất cam kết hỗ trợ lẫn nhau nếu bất kì bên nào bị tấnc ông. Cùng lúc đó, họ kí một hiệp ước bí mật với Carlos III của Tây Ban Nha cho phép Tây Ban Nha tuyên chiến với Anh nếu chiến tranh chưa kết thúc trước tháng 5 1762. Nghe được tin này, William Pitt muốn lập tức tuyên chiến với Tây Ban Nha, nhưng tân vương của Anh, George III, không nghe. Quân của Friedrich Đại Đế của Phổ đã quá mệt mỏi sau cuộc chiến trường kì với Áo và Nga, nhưng Friedrich được cứu bởi Cái chết bất ngờ của Nữ hoàng Elizaveta của Nga năm 1762, và người kế ngôi là Pyotr III, là một ông vua thân Phổ.
Choiseul tiếp quản quyền chỉ huy quân đội vào tháng 10 năm 1761, và ông ta muốn tiến hành tấn công để kết thúc chiến tranh ở thế thắng. Ông thuyết phục Nghị viện và các Sở thương mại ở các thành phố cho phép làm tàu chiến, tái cơ cấu Hải quân. Quân Pháp tiến đánh Phổ và Tây Ban Nha, theo minh ước, tiến công vào Bồ Đào Nha, đồng minh của Anh. Tuy nhiên, một lần nữa, cuộc tấn công vào Hess-Kassel của Pháp gặp thất bại trước quân Phổ, và quân Tây Ban Nha đánh Bồ Đào Nha vô công mà về; và người Anh nắm lấy cơ hội đổ bộ lên Martinique và xâm chiến thuộc địa Cuba của Tây Ban Nha. Choiseul quyết định kết thúc chiến tranh. Đàm phán sơ bộ diễn ra tại Cung điện Fontainebleau ngày 3 tháng 11 năm 1762, kết thúc xung đột giữa Anh - Pháp - Tây Ban Nha. Hiệp ước chính thức được kí ở Paris ngày 10 tháng 2 năm 1763. Kết quả cuộc chiến; Pháp mất các thuộc địa ở Tây Ấn; Marie Galante, Tobago và La Desiderade, nhưng nhận lại từ Anh các đất Guadaloupe, Martinique, và Santa Lucia, vì các đồn điền của người Pháp ở đây được coi là đắt giá nhất trong số đồn điền ở các thuộc địa. Tại thuộc địa Canada, France chỉ giữ lại Đảo Cape Breton và vùng sông Saint-Laurence; thung lũng Ohio, và các lãnh thổ bờ tây sông Mississippi. Louis chính thức phê chuẩn Hiệp ước ngày 23 tháng 2; cùng ngày hôm đó tượng của ông được trưng bày tại Cung điện Louis XV (nay là Cung điện de la Concorde)
Cái chết của nhân tình, con và vợ
Madame de Pompadour, họa phẩm của François-Hubert Drouais (1763-64)|thumb Mùa đông 1763 - 1764 thật khắc nghiệt; Madame de Pompadour bị viêm phổi và qua đời ngày 15 tháng 4. Nhà vua bị ảnh hưởng sâu sắc, nhưng theo quy định của triều đình, ông không thể đến dự tang lễ, bởi vì đẳng cấp của hai người chênh lệch, và mọi chuyện trong triều vẫn phải tiến hành như thường. Có những người trở thành ứng viên thay thế cho Madame de Pompadour; đặc biệt là Nữ công tước xứ Gramont, chị của Choiseul, nhưng nhà vua không quan tâm đến người tình mới, và tháng 2 năm 1765, ông đóng cửa Parc-aux-Cerfs, nơi mà trước đây ông đã gặp tình nhân nhỏ của mình.
Sự chống đối của Nghị viện vẫn tiếp tục. Các Nghị viện tỉnh lại xung đột với Nghị viện Paris, nơi đại diện chân chính cho đất nước. Tháng 3 năm 1764, Nghị viện Navarra đóng tại Pau, tỉnh nhỏ nhất, từ chối công nhận thẩm quyền thu thuế của Hội đồng của nhà vua. Nhà vua hành động, bắt giữ và thay chức Chủ tịch và các thành viên hàng đầu của Nghị viện, thay vào đó là những người trung thành với hoàng gia. Nghị viện Toulouse, Besançon và Rouen phản đối, vua không nghe. Năm 1765, Nghị viện Bretagne ở Renis bác bỏ thẩm quyền áp thuế từ triều đình mà không có sự đồng ý của Nghị viện. Vua triệu tập Nghị viện đến Versailles, và thuyết phục họ. Song không có hiệu quả; khi nhà vua cho dán sắc lệnh lên tường nhà ở các đường phố Rennes, Nghị viện liền cho người gơ xuống. Nhà vua xuống chiếu cấm các thành viên Nghị viện rời Rennes, và các thẩm phán ở Nghị viện liền đình công.
Vương hậu đau buồn sâu sắc với cái chết của Thái tử năm 1765, và cái chết của cha bà năm 1766, sau đó là con rể. Bà nhuốm bệnh và mất ngày 24 tháng 6 năm 1768.
"Cái đánh bằng roi" của Nghị viện
Tháng 1 năm 1766, trong khi nhà vua còn khóc tang thái tử, Nghị viện Bretagne lại phản đối thu thuế. Khi ông tỏ ra phớt lờ, Nghị viện Rennes và Nghị viện Rouen lại dâng thư, phàn nàn rằng vua bỏ phớt lờ "lời ông đã thề trước quốc gia trong ngày gia miện." Khi nhà vua nghe tới đoạn này, ông ngắt lời người đọc và tuyên bố cáo buộc này là sai; ông chỉ thề trước mỗi chúa, không phải trước quốc gia. Đó là uy quyền của hoàng gia. Tháng 3 năm 1766, chỉ vài giờ sau khi thông báo, ông đích thân đi từ Versailles đến gặp Nghị viện Paris ở Cung điện de la Cité và xuất hiện trước mặt các thành viên. Trong thông điệp của mình, ông tuyên bố: "Trẫm là quân vương có đầy đủ thực quyền, không phụ thuộc hay chia sẻ với ai hết. Trật tự xã hội là từ ta mà ra... " Bài phát biểu, liền bị báo chí cho là "cái đánh bằng roi," và lưu hành khắp trong các cấp chính quyền. Xung đột giữa Nghị viện và Nhà vua kéo dài rất lâu, song không được giải quyết.
Madame du Barry
[[Madame du Barry, họa phẩm của François-Hubert Drouais (c. 1770)|thumb]] Sau Cái chết của Madame de Pompadour, nhiều phụ nữ trong triều tìm cơ hội thay thế vị trí bà ta, bao gồm Công tước phu nhân xứ Gramont, chị của Công tước Choiseul, nắm quyền lực như thừa tướng trong triều khi đó. Tuy nhiên, nhà vua lại quay qua sủng ái Jeanne Bécu, Nữ Bá tước du Barry. Bà nhỏ hơn vua tới 33 tuổi. Là con ngoài hôn thú của Anne Bécu, một thợ may. Bà được nuôi dạy nởi Dames de Sacre-Coeur, và từng làm rất nhiều nghề như trợ lý cửa hàng và nhà thiết kế thời trang trước khi trở thành người tình của Bá tước tự xưng, Jean du Barry. Bà mở một salon, thu hút rất nhiều học giả và quý tộc. Vì Jean du Barry đã kết hôn, nên để bảo vệ danh dự, bà được gả cho em trai ông ta, Guillaume, một người lính đã giải ngũ. Họ kết hôn ngày 1 tháng 9 năm 1768 và sau đó, Guillaume dọn về nhà mình ở Languedoc mà không qua đêm với vợ. Qua môi giới là một là quý tộc, bà được mời đến Versailles, nơi Nhà vua gặp và bị bà hớp hồn. Ông mời bà tới Fontaineblau, sau đó đề nghị bà chuyển đến Cung điện Versailles. Sự xuất hiện của bà ở triều khiến Công tước de Choiseul bị nhục nhã ê chề, còn phe chống đối với ông thì vui mừng.
Đối với việc du Barry có mặt trong triều, bà được giới thiệu như một nhà quý tộc. Bá tước già de Béarn thuyết phục giới thiệu bà trước mọi người, đó là vào ngày 22 tháng 4 năm 1769. Không có phụ nữ nào trong triều đến tham dự, và chính de Choiseul bày tỏ sự không hài lòng của mình bằng cách mở một buổi lễ ngày hôm sau, tại đó cả triều, ngoại trừ du Barry, đến dự.
Mở rộng lãnh thổ: Lorraine và Corse
Lãnh thổ Pháp được mở rộng lần cuối trước cuộc Cách mạng qua hai sự kiện; Công quốc Lorraine, do nhạc phụ nhà vua, Stanisław trị vì, sáp nhập vào Pháp sau Cái chết của ông ta, và chính phủ Pháp tiếp nhận đất này vào ngày 27-28 tháng 3 năm 1766. Việc thu phục Corse phức tạp hơn. Hòn đảo này trước thuộc Cộng hòa Genoa, nhưng sự độc lập của Cộng hòa Corse được tuyên bố năm 1755 bởi Pasquale Paoli, và các cuộc nổi dậy diễn ra ở khắp đảo. Cộng hòa Genoa không có đủ quân để chinh phục hòn đảo, cho phép Louis gửi quân Pháp để chiếm các cảng và các thành phố lớn, để hòn đảo không rơi vào tay người Anh. Khi chiến tranh kết thúc, hòn đảo này đã chính thức được trao cho nước Pháp theo Hiệp ước Versailles ngày 19 tháng 5 năm 1768. Louis gửi 27.000 quân đàn áp phiến quân Corse. Tháng 5 năm 1769, cuộc nổi dậy ở Corse bị đánh bại tại Trận Ponte Novu, và Paoli lưu vong sang Anh. Năm 1770 đảo này chính thức trở thành một tỉnh của Pháp.
Thương mại, Nông nghiệp và tin đồn "Hiệp định chết đói"
[[François Quesnay, bác sĩ và nhà kinh tế|thumb]] Hai người có ảnh hưởng lớn đến chính sách kinh tế của Nhà vua. François Quesnay là nhà kinh tế học nổi tiếng của Pháp. Ông là bác sĩ riêng của vua, từng chữa trị cho Madame de Pompadour, nhưng cũng là nhà lý luận kinh tế, có bài viết, "Tableau Economique" (1758), được Nhà vua và triều đình chú ý: Louis gọi ông ta là "nhà tư tưởng của ta." Học trò của ông gồm Hầu tước de Mirabeau và Adam Smith. Ông cũng là một nhà phê bình các hoạt động của chính phủ, và đưa ra thuật ngữ "quan liêu" (nghĩa đen "Chính phủ của những cái bàn"). Người kia là học trò của ông, Thượng thư bộ Thương mại, Jacques Claude Marie Vincent de Gournay. Hai người chủ trương loại bỏ những hạn chế trong nền kinh tế, khuyến khích mở rộng sản xuất và thương mại. Câu khẩu ngữ nổi tiếng của De Gournay, laissez faire, laissez passer ("nó được làm, để nó thông qua") về sau trở thành khẩu hiệu của một trường học kinh tế thị trường tự do.
De Gournay và Quesnay đề xuất một kế hoạch cụ thể để tự do hoá thị trường nông nghiệp vốn được kiểm soát chặt chẽ nhằm khuyến khích sản xuất, cạnh tranh và hạ gi