Louise Élisabeth của Orléans (tiếng Pháp: Louise Élisabeth d'Orléans; tiếng Tây Ban Nha: Luisa Isabel de Orleans; 9 tháng 12 năm 1709 – 16 tháng 6 năm 1742) là Vương hậu Tây Ban Nha với tư cách là vợ của Luis I của Tây Ban Nha. Triều đại của hai vợ chồng được coi là một trong những triều đại ngắn nhất trong lịch sử khi chỉ kéo dài trong bảy tháng. Louise Élisabeth là con gái thứ tư sống qua tuổi trưởng thành của Philippe II xứ Orléans và Françoise Marie de Bourbon, người con gái ngoại hôn của Louis XIV của Pháp.
Louise Élisabeth thường không được ưa thích tại triều đình Tây Ban Nha do có nhiều sự cố và bê bối, bao gồm các hành vi khiếm nhã như mặc đồ ngủ khi đi dạo quanh cung điện và khiêu khích người khác bằng cách phô bày những bộ phận nhạy cảm ở nơi công cộng. Tuy nhiên, các chẩn đoán thời hiện đại cho rằng những hành vi này của Louise Élisabeth là do rối loạn nhân cách ranh giới nghiêm trọng gây ra.
Sau khi trở thành góa phụ, Louise Élisabeth trở về Pháp và qua đời tại Cung điện Luxembourg ở Paris. Hai vợ chồng không có người con nào.
Những năm đầu đời
trái|nhỏ| Giấy khai sinh của Louise Élisabeth của Orléans, ngày 11 tháng 12 năm 1709 tại [[Cung điện Versailles]]
Louise Élisabeth xủa Orléans sinh ra tại Cung điện Versailles, là người con thứ năm và là con gái thứ tư của Philippe II xứ Orléans và Françoise Marie de Bourbon. Mẹ của Louise Élisabeth là Françoise Marie là một trong những người con gái ngoại hôn được hợp pháp hóa bởi Louis XIV của Pháp và tình nhân là Françoise-Athénaïs, Phu nhân xứ Montespan. Là một thành viên của Vương tộc Bourbon, Louise Élisabeth là một princess du sang (Tông nữ Pháp). Trong gia đình, Louise Élisabeth thường được gọi là Élisabeth.
Trước khi kết hôn, Louise Élisabeth được biết đến với danh xưng Mademoiselle de Montpensier (Đức nữ xứ Montpensier). Élisabeth lớn lên cùng với một anh trai và năm chị em gái trong đó người anh trai Louis rất thân với Élisabeth.
Élisabeth nhận được nền giáo dục không được cao, tương tự như của hai chị gái Charlotte và Adélaïde vì không được coi trọng. Giống như người em gái Diane, Élisabeth có một nền giáo dục tôn giáo.
Kể từ năm 1715, cha của Louise Élisabeth, Philippe II xứ Orléans, trở thành người cai trị nước Pháp trên thực tế với tư cách là nhiếp chính cho Louis XV của Pháp. Năm 1718, Chiến tranh của Liên minh Bốn bên nổ ra giữa Pháp và Tây Ban Nha. Do đó để đạt được một thỏa thuận về sự hòa bình giữa hai bên, năm 1720, Quốc vương Felipe V của Tây Ban Nha muốn đạt đã đề xuất một thỏa thuận hôn nhân kép: cô con gái ba tuổi của Felipe V, Infanta Mariana Victoria, sẽ kết hôn với vị Quốc vương Pháp 11 tuổi Louis XV, còn con trai và người thừa kế của Felipe là Luis sẽ kết hôn với một trong những cô con gái của ngài nhiếp chính.
Thân vương phi xứ Asturias
Vào tháng 11 năm 1721, ở độ tuổi mười một, Louise Élisabeth tiến hành kết hôn theo ủy nhiệm tại Paris. Louise Élisabeth và em gái Philippine Élisabeth sớm rời khỏi Pháp để đến Madrid. Bất chấp sự đón tiếp thiếu tôn trọng từ Vương thất Tây Ban Nha, chủ yếu là từ Elisabetta Farnese, mẹ kế của chồng tương lai, Élisabeth kết hôn với Luis vào ngày 20 tháng 1 năm 1722 tại Lerma. Khi đến Tây Ban Nha để kết hôn, Éllisabeth mang theo của hồi môn trị giá 4 triệu đồng livres.
Mối quan hệ vốn căng thẳng giữa Élisabeth và em gái Philippine trở nên gay gắt hơn khi Philippine bắt đầu được triều đình Tây Ban Nha chú ý nhờ vẻ đẹp, sự quyến rũ và trí thông minh của mình trong khi Élisabeth chưa bao giờ nhận được sự chú ý như vậy. Em gái của Élisabeth sau đó đã đính hôn với Infante Carlos, một người thừa kế ngai vàng khác của Tây Ban Nha; nhưng hôn ước giữa hai người không thành, và Philippine Élisabeth sau đó được đưa trở lại Pháp và qua đời vì bệnh đậu mùa ở tuổi 19 tại Paris.
Là vợ của người thừa kế ngai vàng Tây Ban Nha, Élisabeth nhận được tước vị Thân vương phi xứ Asturias.
Vương hậu Tây Ban Nha
Ngày 15 tháng 1 năm 1724, Felipe V thoái vị vì sự bất ổn về mặt cảm xúc của mình, do đó con trai Luis trở thành Quốc vương Luis I của Tây Ban Nha, Élisabeth theo đó cũng trở thành Vương hậu. Tuy nhiên chỉ sau bảy tháng trị vì, Luis I đã qua đời vì bệnh đậu mùa. Vì không có người thừa kế nên Felipe V đã trở thành Quốc vương Tây Ban Nha một lần nữa. Élisabeth ở lại Madrid một thời gian sau cái chết của chồng, nhưng hành vi của ngài Thái hậu trước cái chết đột ngột của chồng đã khiến cho Élisabeth cực kỳ không được lòng triều đình Tây Ban Nha.
Kể từ khi đến triều đình Tây Ban Nha, Louise Élisabeth ngày càng được biết đến với vô số bê bối. Một vài trong những bê bối đó là những hành vi khiếm nhã, nhưng những hành vi của Élisabeth thường có tính thất thường và cực kỳ bốc đồng như ăn mặc hở hang đi lại, ợ hơi và xì hơi ở nơi công cộng, chạy quanh các hành lang của cung điện hoặc nhảy xuống ngựa để trèo lên cây. Các chẩn đoán hiện đại cho rằng nhiều đặc điểm hành vi của Louise Éllisabeth tương thích với chứng Rối loạn nhân cách ranh giới ngoài tầm kiểm soát.
Louise Élisabeth đến Paris một cách thầm lặng và sống tại Lâu đài Vincennes và Cung điện Luxembourg, nơi đã từng được cha của Louise trao cho chị gái của Louise Élisabeth. Élisabeth qua đời ở đó vào ngày 16 tháng 6 năm 1742 và được chôn cất tại Nhà thờ Saint-Sulpice, Paris Paris, gần Cung điện Luxembourg, nơi người anh cùng cha khác mẹ của Élisabeth là Louis Charles làm giám mục.
Gia phả
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Louise Élisabeth của Orléans** (tiếng Pháp: _Louise Élisabeth d'Orléans_; tiếng Tây Ban Nha: _Luisa Isabel de Orleans_; 9 tháng 12 năm 1709 – 16 tháng 6 năm 1742) là Vương hậu Tây Ban Nha với
**Marie Louise Élisabeth, Mademoiselle d'Orléans** (20 tháng 8 năm 1695 – 21 tháng 7 năm 1719), hay còn được gọi là **Louise Élisabeth, Công tước phu nhân xứ Berry** là Công tước phu nhân xứ
**Louise Diane của Orléans** (tiếng Pháp: _Louise Diane d'Orléans_; 27 tháng 6 năm 1716 – 26 tháng 9 năm 1736) là Thân vương phi xứ Conti từ khi kết hôn với Thân vương xứ Conti
**Charlotte Aglaé của Orléans** (; ; 22 tháng 10 năm 1700 – 19 tháng 1 năm 1761) là con gái thứ ba của Philippe II xứ Orléans và Françoise Marie de Bourbon, và khi sinh
**Marie Louise của Orléans** (tiếng Pháp: _Marie-Louise d'Orléans_; tiếng Tây Ban Nha: _María Luisa de Orleans_; 26 tháng 3 năm 1662 – 12 tháng 2 năm 1689) là một _petite-fille de France_ (_Cháu gái nước
**Mariana Victoria của Tây Ban Nha** (tiếng Tây Ban Nha: _Mariana Victoria de España_; tiếng Bồ Đào Nha: _Mariana Vittória của Bồ Đào Nha_; 31 tháng 3 năm 1718 – 15 tháng 1 năm 1781)
**Maria Adelaide của Savoia** (6 tháng 12 năm 1685 – 12 tháng 2 năm 1712), hay còn được biết với tên tiếng Pháp là **Marie Adélaïde**, là vợ của Louis của Pháp, Công tước xứ
**Charles của Pháp, Công tước xứ Berry** (; 31 tháng 7 năm 1686 – 5 tháng 5 năm 1714) là cháu trai của Louis XIV của Pháp. Mặc dù là cháu trai của Nhà vua,
**Louis Philippe I, Công tước xứ Orléans** còn được gọi là **le Gros** (Béo) (12 tháng 5 năm 1725 - 18 tháng 11 năm 1785) là một thân vương người Pháp, công tước đời thứ
**Henrietta Anne của Anh** (tiếng Pháp: _Henriette-Anne Stuart d'Angleterre_; 16 tháng 6 năm 1644 - 30 tháng 6 năm 1670), biệt danh **Minette**, là một Vương nữ Anh, con gái của Charles I của Anh
**Carlos III của Tây Ban Nha** (Tiếng Anh: _Charles III_; Tiếng Ý và Tiếng Napoli: _Carlo Sebastiano_; Tiếng Sicilia: _Carlu Bastianu_; Sinh ngày 20/01/1716 - Mất ngày 14/12/1788) là Công tước có chủ quyền xứ
**Louis của Pháp** (tiếng Pháp: Louis de Bourbon; 1 tháng 11 năm 1661 – 14 tháng 4 năm 1711) là trưởng nam của Louis XIV của Pháp hay còn biết đến với vương hiệu __Vua
**Philippe I xứ Orléans** (; 21 tháng 9 năm 1640 - 9 tháng 6 năm 1701), còn gọi là **Philippe của Pháp** (), là con trai của Louis XIII và Ana của Tây Ban
**Charlotte của Bỉ** (Marie Charlotte Amélie Augustine Victoire Clémentine Léopoldine; 7 tháng 6 năm 1840 – 19 tháng 1 năm 1927), được biết đến với tên theo tiếng Tây Ban Nha là **Carlota**, bà sinh
**Versailles** (phiên âm tiếng Việt: Véc-xai) là tỉnh lỵ của tỉnh Yvelines, thuộc vùng hành chính Île-de-France của nước Pháp, có dân số là 85.726 người (thời điểm 1999). ## Các thành phố kết nghĩa
**Luis I** **của Tây Ban Nha** (tiếng Tây Ban Nha: _Luis Felipe_; 25 tháng 8 năm 1707 – 31 tháng 8 năm 1724) là vua Tây Ban Nha tại vị từ ngày 15 tháng 1
thumb|Huy hiệu vương miện của các _Enfants de France_. **Fils de France** () và **Fille de France** (), có nghĩa là _"Con trai nước Pháp"_ cùng _"Con gái nước Pháp"_, là một danh xưng và
**Élisabeth Charlotte xứ Pfalz, Công tước phu nhân xứ Orléans**; ; ; 27 tháng 5 năm 1652 – 8 tháng 12 năm 1722), còn được gọi là **Liselotte von der Pfalz**, là thành viên của
**Anne Henriette của Pháp** (; 14 tháng 8 năm 1727 – 10 tháng 2 năm 1752) là Vương nữ Pháp và là _fille de France_ (con gái nước Pháp). Henriette là người con thứ hai
**Maria Karolina Zofia Felicja Leszczyńska của Ba Lan** (; 23 tháng 6 năm 1703 – 24 tháng 6 năm 1768), còn được gọi là **Marie Leczinska** (), là Vương hậu Pháp sau khi kết
**Maria Carolina của Hai Sicilie, Công tước phu nhân xứ Berry** (Maria Carolina Ferdinanda Luisa; 5 tháng 11 năm 1798 – 16 tháng 4 năm 1870 tại Brunnsee, Steiermark) là vương nữ của Vương quốc
**Maria Anna Christine Victoria xứ Bayern** (; 28 tháng 11 năm 1660 – 20 tháng 4 năm 1690) là Trữ phi nước Pháp thông qua cuộc hôn nhân với Louis của Pháp, Đại Trữ quân,
**Felipe IV của Tây Ban Nha** (, ; 8 tháng 4 năm 1605 – 17 tháng 9 năm 1665) là Vua Tây Ban Nha từ năm 1621 đến năm 1665, vương chủ của người Hà
**Maximiliano I của México** (tiếng Đức: _Ferdinand Maximilian Joseph Maria von Habsburg-Lothringen_; tiếng Tây Ban Nha: _Fernando Maximiliano José María de Habsburgo-Lorena_; 6 tháng 7 năm 1832 - 19 tháng 6 năm 1867) là một
**Françoise Marie de Bourbon, _Légitimée de France_, Bà Công tước xứ Orléans** (4 tháng 5 năm 1677 - 1 tháng 2 năm 1749) là người con gái nhỏ tuổi nhất trong những người con ngoài
phải|thumb|Huy hiệu vương miện của các _Prince du sang_. **Prince du sang** (; tiếng Anh: _Prince of the Blood_), có thể hiểu như **Thân vương**, **Phiên vương** hoặc **Tông thất** nếu xét về các triều
**Charles X** (Charles Philippe; 9 tháng 10 năm 1757 – 6 tháng 11 năm 1836) là Vua của Pháp từ ngày 16 tháng 9 năm 1824 đến khi thoái vị vào ngày 2 tháng 8
**Marguerite xứ Lorraine** (22 tháng 7 năm 1615 – 13 tháng 4 năm 1672) là Công tước phu nhân xứ Orléans thông qua cuộc hôn nhân với Gaston, Công tước xứ Orléans, em trai của
**Marie Thérèse Charlotte của Pháp** (tiếng Pháp: _Marie-Thérèse Charlotte de France_; tiếng Đức: _Marie Thérèse Charlotte von Frankreich_; 19 tháng 12 năm 1778 – 19 tháng 10 năm 1851) là trưởng nữ của Louis XVI
**Maria Antonia của Áo** (tiếng Đức: _Maria Antonia von Österreich_; 2 tháng 11 năm 1755 – 16 tháng 10 năm 1793), nguyên là Nữ Đại công tước Áo, thường được biết đến với tên Pháp
**Louis Ferdinand của Pháp** (4 tháng 9 năm 1729 – 20 tháng 12 năm 1765) là con trai duy nhất còn sống đến tuổi trưởng thành của Louis XV của Pháp và Maria của Ba
**Caterina de' Medici** (; – ), hoặc **Catherine de Médicis** theo tiếng Pháp, là một nữ quý tộc người Ý và trở thành Vương hậu nước Pháp từ năm 1547 đến năm 1559, với tư
**Louis Henri Joseph de Bourbon** (13 tháng 4 năm 1756 – 30 tháng 8 năm 1830) là Thân vương xứ Condé từ năm 1818 cho đến khi qua đời. Ông là anh rể của Louis
**Leopold, Công tước xứ Lorraine** (11 tháng 9 năm 1679 - 27 tháng 3 năm 1729) ông còn có biệt danh là **Leopold tốt bụng**, là quân chủ cai trị Công quốc Lorraine, Bar và
liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:Insulae_Sardiniae_novae_accurata_descriptio_-_Janssonius_Johannes,_1642-44.jpg|nhỏ|Huy hiệu của Vương quốc Sardegna từ thế kỷ 14 Sardegna ban đầu được cai trị bởi nền văn minh Nuragic, theo sau đó là cuộc xâm lược của Hy Lạp, bị người Carthage chinh
Cung điện Luxembourg Cung điện và [[Vườn Luxembourg]] **Cung điện Luxembourg** nằm trong khu vườn cùng tên tại Quận 5 của Paris. Được xây dựng từ năm 1615, cung điện là dinh thự của nhiều
**Alexandre Dumas** (24 tháng 7 năm 1802 – 5 tháng 12 năm 1870) hay **Alexandre Dumas cha** để phân biệt với con trai ông, là một đại văn hào nổi tiếng người Pháp gốc Phi.
**Maria Anna xứ Neuburg** (; ; 28 tháng 10 năm 1667 – 16 tháng 7 năm 1740) là công nữ Đức và là thành viên của Vương tộc Wittelsbach. Năm 1689, Maria Anna trở thành
**Nhà Medici** ( , ) là một gia tộc ngân hàng và triều đại chính trị người Ý, lần đầu tiên củng cố quyền lực tại Cộng hòa Florence dưới thời Cosimo de' Medici, trong
thumb|Vua Louis XIV and và Vua Philip IV họp bàn ở đảo Pheasant. **Đảo Pheasant** (, , ) là một hòn đảo nằm trên sông Bidasoa, nằm giữa Pháp và Tây Ban Nha. Hòn đảo
**Gian Gastone de' Medici** (_Giovanni Battista Gastone_; 24 tháng 5 năm 1671 - 9 tháng 7 năm 1737) là Đại công tước thứ bảy và cũng là cuối cùng của Đại công quốc Toscana thuộc
thumb|[[Carlo Ferdinando của Hai Sicilie|Carlo Ferdinando của Hai Siclie, Thân vương xứ Capua (trên cùng), cùng với người vợ quý tiện kết hôn của mình Anh-Ailen Penelope Smyth (trái), và con gái của họ, Vittoria
**Minette et Lise**, là tên của cặp đôi nghệ sĩ sân khấu, hoạt động tại Saint Sebastue ở Haiti thời tiền cách mạng. Họ gồm _Elisabeth Alexandrine Louise Ferrand_, lấy nghệ danh "Minette" (11 tháng
**Giải thưởng lớn Gobert** (tiếng Pháp: **Grand prix Gobert**) là một giải thưởng hàng năm của Viện hàn lâm Pháp dành cho môn lịch sử. Giải này được thiết lập từ năm 1834 bởi Quỹ
thumb|right|Ferdinand của Áo-Este (1754–1806) thumb|right|Francis IV của Áo-Este (1779–1846) thumb|right|Francis V của Áo-Este (1819–1875) thumb|right|Francis Ferdinand của Áo-Este (1863–1914) thumb|right|Robert của Áo-Este (1915–1996) **Đại công tước của Áo-Este** (; ), or **Habsburg-Este** (), là một