✨Marie Louise của Orléans

Marie Louise của Orléans

Marie Louise của Orléans (tiếng Pháp: Marie-Louise d'Orléans; tiếng Tây Ban Nha: María Luisa de Orleans; 26 tháng 3 năm 1662 – 12 tháng 2 năm 1689) là một petite-fille de France (Cháu gái nước Pháp hay Vương tôn nữ nước Pháp) và là con gái của Công tước Philippe I của Orléans và Vương nữ Henrietta của Anh. Marie Louise là Vương hậu Tây Ban Nha với tư cách là vợ của Quốc vương Carlos II của Tây Ban Nha ngày 19 tháng 11 năm 1679 cho đến khi bà qua đời vào năm 1689, được cho là do viêm ruột thừa.

Tiểu sử

Thời thơ ấu

trái|nhỏ| Chân dung bằng [[men thủy tinh cỡ nhỏ của Jean Petitot, khoảng năm 1678]] trái|nhỏ| Chân dung Marie Louise mặc váy hoa bách hợp để biểu thị mối quan hệ của Marie với Pháp và đội vương miện Tây Ban Nha để biểu thị đất nước mới của mình. Marie Louise của Orléans sinh ra tại Palais-Royal ở Paris, con đầu lòng của Vương tử Philippe của Pháp, Công tước xứ Orléans và Vương nữ Henrietta của Anh. Với tư cách là một Vương tôn nữ Pháp, Marie Louise được hưởng kính xưng Royal Highness, mặc dù, theo thông lệ tại triều đình cung điện Versailles, Marie thường được gọi là Mademoiselle d'Orléans (Đức nữ xứ Orléans).

Quyến rũ, xinh đẹp và duyên dáng, Marie Louise chính là người con cưng của cha và đã có một tuổi thơ hạnh phúc. Marie Louise dành phần lớn thời gian sống ở Cung điện Vương thất và Lâu đài Saint-Cloud cách Paris vài km về phía tây. Marie Louise cũng dành nhiều thời gian cho cả bà nội Ana của Tây Ban Nha, người rất yêu quý cháu gái và để lại phần lớn tài sản cho Marie Louise khi Ana qua đời năm 1666; và bà ngoại Henriette Marie của Pháp sống ở Colombes.

Henrietta, mẹ của Marie Louise qua đời năm 1670. Năm sau đó, cha của Marie tái hôn với Elisabeth Charlotte của Pfalz. Marie Louise có mối quan hệ tốt đẹp với mẹ kế và thường trao đổi thư từ một cách tình cảm với Elisabeth Charlotte.

Vương hậu Tây Ban Nha

nhỏ| Marie Louise, Carlos II của Tây Ban Nha và mẹ của Carlos II là [[Maria Anna của Áo, Vương hậu Tây Ban Nha|Maria Anna của Áo, cùng nhau tham dự một nghi thức sám hối từ ban công ở Plaza Mayor của Madrid vào ngày 30 tháng 6 năm 1680. Chi tiết từ Auto de fe (1683), họa bởi Francisco Rizi. Bảo tàng Prado, Madrid.]] Tháng 7 năm 1679, Marie Louise được cha là Philippe, và bác là Quốc vương Louis XIV của Pháp thông báo hôn ước của Marie với Carlos II của Tây Ban Nha. Đau khổ vì mối hôn sự này, Marie dành phần lớn thời gian để khóc vì đã đem lòng yêu người anh họ Louis, bấy giờ là Trữ quân nước Pháp. Hôn lễ ủy nhiệm diễn ra tại Cung điện Fontainebleau vào ngày 30 tháng 8 năm 1679, đứng thay cho chú rể là em họ xa là Louis-Armand I xứ Conti. Cho đến giữa tháng 9, có một loạt các sự kiện trang trọng được tổ chức để vinh danh Tân vương hậu của Tây Ban Nha. Trước khi đến Tây Ban Nha, Marie Louise đã đến tu viện Val-de-Grâce, nơi lưu giữ trái tim của mẹ Marie là Henrietta của Anh. Sau này, Marie Louise không bao giờ trở lại Pháp.

Ngày 19 tháng 11 năm 1679, Marie Louise chính thức kết hôn với Carlos II của Tây Ban Nha ở Quintanapalla, gần Burgos, Tây Ban Nha, chính thức bắt đầu chuỗi ngày cô độc tại triều đình Tây Ban Nha của Marie. Carlos II hết mực yêu hương Marie Louise cho đến tận cuối đời nhưng nhưng những lễ nghi của Triều đình Tây Ban Nha như cấm chạm vào Vương hậu và những nỗ lực sinh con không thành công đã khiến Marie Louise sầu khổ. Người bạn đồng hành thường xuyên nhất của Vương hậu chính là đại sứ Pháp Marie Gigault de Bellefonds, Hầu tước xứ Villars.

Chung sống với nhau mười năm không có con, Marie Louise đã tâm sự với đại sứ Pháp rằngnhỏ|Vương hậu Marie Louise của Tây Ban Nha, yên giấc trong Alcazar của Madrid (1689), tranh sơn dầu của Sebastián Muñoz.

Trong những năm cuối đời, Marie Louise trở nên thừa cân. Vương hậu được cho là thích đồ uống có vị ngọt từ chanh và quế, vốn cần 32 pound đường để pha chế. Sau khi cưỡi ngựa vào ngày 11 tháng 2 năm 1689, Marie cảm thấy đau dữ dội ở bụng khiến Vương hậu phải nằm nghỉ suốt buổi tối. Sau khi các bác sĩ phát hiện ra rằng tình trạng của ngài hậu đã trở nên nguy kịch, các cha giải tội đã được gọi đến để cứu phần hồn của Marie. nhỏ|Vương huy của Marie Louise của Orléans nhỏ|Marie Louise của Orléans, Vương hậu Tây Ban Nha. Họa phẩm bởi [[José García Hidalgo, khoảng năm 1679]]

Trong lúc hấp hối trên giường bệnh, Marie Louise đã nói với chồng những lời sau:

Marie Louise qua đời vào đêm hôm sau.

Gia phả

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Marie Louise của Orléans** (tiếng Pháp: _Marie-Louise d'Orléans_; tiếng Tây Ban Nha: _María Luisa de Orleans_; 26 tháng 3 năm 1662 – 12 tháng 2 năm 1689) là một _petite-fille de France_ (_Cháu gái nước
**Anne Marie Louise của Orléans, Công tước xứ Montpensier**, (, 29 tháng 5 năm 1627 – 5 tháng 4 năm 1693 ), thường được gọi là **_La Grande Mademoiselle_** ( ), là con gái duy
**Louise của Orléans** (tiếng Pháp: _Louise d'Orléans_; tiếng Tây Ban Nha: _Luisa de Orléans_; tên đẩy đủ: Louise Françoise Marie Laure của Orléans; 24 tháng 2 năm 1882 – 18 tháng 4 năm 1958) là
**Louise Marie của Orléans** (3 tháng 4 năm 1812 – 11 tháng 10 năm 1850), tên đầy đủ là _Louise Marie Thérèse Charlotte Isabelle_, là _Vương nữ của Orléans_ và là Vương hậu Bỉ. Bà
**Charlotte Aglaé của Orléans** (; ; 22 tháng 10 năm 1700 – 19 tháng 1 năm 1761) là con gái thứ ba của Philippe II xứ Orléans và Françoise Marie de Bourbon, và khi sinh
**María Isabel của Tây Ban Nha, María Isabel của Orléans hay María Isabel de Orleans y Borbón** (tiếng Tây ban Nha: _María Isabel de Orleans y Borbón_; tiếng Pháp: _Marie-Isabelle d'Orléans_; 21 tháng 09 năm
**Marie Louise Élisabeth, Mademoiselle d'Orléans** (20 tháng 8 năm 1695 – 21 tháng 7 năm 1719), hay còn được gọi là **Louise Élisabeth, Công tước phu nhân xứ Berry** là Công tước phu nhân xứ
**Louise Diane của Orléans** (tiếng Pháp: _Louise Diane d'Orléans_; 27 tháng 6 năm 1716 – 26 tháng 9 năm 1736) là Thân vương phi xứ Conti từ khi kết hôn với Thân vương xứ Conti
**Louise Élisabeth của Orléans** (tiếng Pháp: _Louise Élisabeth d'Orléans_; tiếng Tây Ban Nha: _Luisa Isabel de Orleans_; 9 tháng 12 năm 1709 – 16 tháng 6 năm 1742) là Vương hậu Tây Ban Nha với
**Louis của Pháp** (tiếng Pháp: Louis de Bourbon; 1 tháng 11 năm 1661 – 14 tháng 4 năm 1711) là trưởng nam của Louis XIV của Pháp hay còn biết đến với vương hiệu __Vua
**Philippe I xứ Orléans** (; 21 tháng 9 năm 1640   - 9 tháng 6 năm 1701), còn gọi là **Philippe của Pháp** (), là con trai của Louis XIII và Ana của Tây Ban
**Felipe IV của Tây Ban Nha** (, ; 8 tháng 4 năm 1605 – 17 tháng 9 năm 1665) là Vua Tây Ban Nha từ năm 1621 đến năm 1665, vương chủ của người Hà
thumb|Huy hiệu vương miện của các _Enfants de France_. **Fils de France** () và **Fille de France** (), có nghĩa là _"Con trai nước Pháp"_ cùng _"Con gái nước Pháp"_, là một danh xưng và
**Françoise Marie de Bourbon, _Légitimée de France_, Bà Công tước xứ Orléans** (4 tháng 5 năm 1677 - 1 tháng 2 năm 1749) là người con gái nhỏ tuổi nhất trong những người con ngoài
**Henrietta Anne của Anh** (tiếng Pháp: _Henriette-Anne Stuart d'Angleterre_; 16 tháng 6 năm 1644 - 30 tháng 6 năm 1670), biệt danh **Minette**, là một Vương nữ Anh, con gái của Charles I của Anh
**Charles của Pháp, Công tước xứ Berry** (; 31 tháng 7 năm 1686 – 5 tháng 5 năm 1714) là cháu trai của Louis XIV của Pháp. Mặc dù là cháu trai của Nhà vua,
**Carlos II của Tây Ban Nha** (tiếng Tây Ban Nha: Carlos II, 6 tháng 11 năm 1661 - 1 tháng 11 năm 1700), còn được gọi là **Kẻ bị bỏ bùa** (tiếng Tây Ban Nha:
**Marie de Bourbon** (15 tháng 10 năm 1605 – 4 tháng 6 năm 1627), Nữ Công tước xứ Montpensier, Nữ Thân vương xứ Dombes là nữ quý tộc người Pháp và là một trong những
**Louis XV** (15 tháng 2 năm 1710 – 10 tháng 5 năm 1774), biệt danh **Louis Đáng yêu**, là quân vương của Vương tộc Bourbon, giữ tước hiệu Vua của Pháp từ 1 tháng 9
**Louis Philippe I của Pháp** (Ngày 6 tháng 10 năm 1773 – 26 tháng 8 năm 1850) là vua của Pháp từ năm ngày 6 tháng 11 năm 1830 đến ngày 24 tháng 2 năm
**Louis XIV của Pháp** (; 5 tháng 9 năm 16381 tháng 9 năm 1715), còn được gọi là **Louis Đại đế** (, ) hay **Vua Mặt Trời** (, ), là một quân chủ thuộc Nhà
**Maria Antonia của Áo** (tiếng Đức: _Maria Antonia von Österreich_; 2 tháng 11 năm 1755 – 16 tháng 10 năm 1793), nguyên là Nữ Đại công tước Áo, thường được biết đến với tên Pháp
**Maria Anna của Áo** (tiếng Đức: _Maria Anna von Österreich_; tiếng Tây Ban Nha: _Mariana de Austria_; tiếng Anh: _Mariana of Austria_; 24 tháng 12 năm 163416 tháng 5 năm 1696) là vương hậu của
**Kristina của Thụy Điển** (tiếng Thụy Điển: _Drottning Kristina_; 18 tháng 12, năm 1626 - 19 tháng 4, năm 1689) là Nữ vương của Thụy Điển từ năm 1632 cho đến khi bà thoái
**Louis Philippe I, Công tước xứ Orléans** còn được gọi là **le Gros** (Béo) (12 tháng 5 năm 1725 - 18 tháng 11 năm 1785) là một thân vương người Pháp, công tước đời thứ
**Louis Philippe II xứ Orléans** (_Louis Philippe Joseph_; 13 tháng 4 năm 1747 – 6 tháng 11 năm 1793) là một nhà quý tộc lớn của Vương quốc Pháp thuộc Vương tộc Orléans, một nhánh
**Louise-Françoise de Bourbon, _Légitimée de France_, Thân vuơng phi xứ Condé** (1 tháng 6 năm 1673 – 16 tháng 6 năm 1743), là con gái của Louis XIV của Pháp và người tình Madame de
**Maria Karolina Zofia Felicja Leszczyńska của Ba Lan** (; 23 tháng 6 năm 1703 – 24 tháng 6 năm 1768), còn được gọi là **Marie Leczinska** (), là Vương hậu Pháp sau khi kết
**Marguerite xứ Lorraine** (22 tháng 7 năm 1615 – 13 tháng 4 năm 1672) là Công tước phu nhân xứ Orléans thông qua cuộc hôn nhân với Gaston, Công tước xứ Orléans, em trai của
**Maria Adelaide của Savoia** (6 tháng 12 năm 1685 – 12 tháng 2 năm 1712), hay còn được biết với tên tiếng Pháp là **Marie Adélaïde**, là vợ của Louis của Pháp, Công tước xứ
**Léopold I của Bỉ** (16 tháng 12 năm 1790 - 10 tháng 12 năm 1865) là Quốc vương đầu tiên của Vương quốc Bỉ, sau khi Bỉ tuyên bố tách khỏi Hà Lan vào ngày
**Helena của Liên hiệp Anh và Ireland** (tiếng Anh: _Princess Helena of the United Kingdom_; tên đầy đủ: Helena Augusta Victoria; 25 tháng 5 năm 1846 – 9 tháng 6 năm 1923), sau này là
**Maria Carolina của Hai Sicilie, Công tước phu nhân xứ Berry** (Maria Carolina Ferdinanda Luisa; 5 tháng 11 năm 1798 – 16 tháng 4 năm 1870 tại Brunnsee, Steiermark) là vương nữ của Vương quốc
**Mariana Victoria của Tây Ban Nha** (tiếng Tây Ban Nha: _Mariana Victoria de España_; tiếng Bồ Đào Nha: _Mariana Vittória của Bồ Đào Nha_; 31 tháng 3 năm 1718 – 15 tháng 1 năm 1781)
**Louise Marie Adélaïde Eugénie xứ Orléans**, (Paris, 23 tháng 8 năm 1777 – 31 tháng 12 năm1847) là một Tông nữ Pháp, con gái của Louis Philippe II xứ Orléans (1747-1793), Công tước xứ Orléans
**Anne Henriette của Pháp** (; 14 tháng 8 năm 1727 – 10 tháng 2 năm 1752) là Vương nữ Pháp và là _fille de France_ (con gái nước Pháp). Henriette là người con thứ hai
**Marie Thérèse Charlotte của Pháp** (tiếng Pháp: _Marie-Thérèse Charlotte de France_; tiếng Đức: _Marie Thérèse Charlotte von Frankreich_; 19 tháng 12 năm 1778 – 19 tháng 10 năm 1851) là trưởng nữ của Louis XVI
**Louise Renée de Penancoët de Kérouaille, Công tước xứ Portsmouth** (tiếng Pháp: _Louise Renée de Penancoët de Keroual_; 6 tháng 9, năm 1649 - 14 tháng 11, năm 1734), là một quý tộc người Pháp,
liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:Insulae_Sardiniae_novae_accurata_descriptio_-_Janssonius_Johannes,_1642-44.jpg|nhỏ|Huy hiệu của Vương quốc Sardegna từ thế kỷ 14 Sardegna ban đầu được cai trị bởi nền văn minh Nuragic, theo sau đó là cuộc xâm lược của Hy Lạp, bị người Carthage chinh
**Charlotte của Bỉ** (Marie Charlotte Amélie Augustine Victoire Clémentine Léopoldine; 7 tháng 6 năm 1840 – 19 tháng 1 năm 1927), được biết đến với tên theo tiếng Tây Ban Nha là **Carlota**, bà sinh
**Vương tử Philippe của Bỉ, Bá tước xứ Flandre** (24 tháng 3 năm 1837 - 17 tháng 11 năm 1905) là con trai của Vua Léopold I của Bỉ và người vợ thứ hai là
**Beatriz của Tây Ban Nha** hay **Beatriz de Borbón y Battenberg** (tiếng Tây Ban Nha: Beatriz de España; tiếng Anh: _Beatrice of Spain_; tiếng Scotland: _Beatrice o Spain_; tiếng Ý: _Beatrice di Borbone-Spagna_; tiếng Đức:
**Louis Ferdinand của Pháp** (4 tháng 9 năm 1729 – 20 tháng 12 năm 1765) là con trai duy nhất còn sống đến tuổi trưởng thành của Louis XV của Pháp và Maria của Ba
**Georgios I** hay **Georg I** (, _Geōrgios A', Vasileús tōn Ellēnōn_; 24 tháng 12 năm 1845 – 18 tháng 3 năm 1913) là một vị vua của người Hy Lạp, trị vì từ năm 1863
**Maria Anna xứ Neuburg** (; ; 28 tháng 10 năm 1667 – 16 tháng 7 năm 1740) là công nữ Đức và là thành viên của Vương tộc Wittelsbach. Năm 1689, Maria Anna trở thành
**Ferdinand I của Bulgaria** (Tiếng Bulgaria: ; 26/02/1861 - 10/09/1948),, tên khai sinh là **Ferdinand Maximilian Karl Leopold Maria von Sachsen-Coburg und Gotha**, là vị Vương công thứ hai của Thân vương quốc Bulgaria từ
**Louis-Philippe của Bỉ** (24 tháng 7 năm 1833 - 16 tháng 5 năm 1834) là con trai lớn của Vua Léopold I của Bỉ và người vợ thứ hai là Vương nữ Louise Marie của
**Élisabeth Charlotte xứ Pfalz, Công tước phu nhân xứ Orléans**; ; ; 27 tháng 5 năm 1652 – 8 tháng 12 năm 1722), còn được gọi là **Liselotte von der Pfalz**, là thành viên của
**Charles X** (Charles Philippe; 9 tháng 10 năm 1757 – 6 tháng 11 năm 1836) là Vua của Pháp từ ngày 16 tháng 9 năm 1824 đến khi thoái vị vào ngày 2 tháng 8
**Marie xứ Guise hay Marie xứ Lothringen/Lorraine** (tiếng Pháp: _Marie de Guise/Marie de Lorraine_; tiếng Anh: _Mary of Guise/Mary of Lorraine_; tiếng Đức: _Maria von Lothringen-Guise_; sinh ngày 22 tháng 11 năm 1515, mất 11