✨Beatriz của Tây Ban Nha

Beatriz của Tây Ban Nha

Beatriz của Tây Ban Nha hay Beatriz de Borbón y Battenberg (tiếng Tây Ban Nha: Beatriz de España; tiếng Anh: Beatrice of Spain; tiếng Scotland: Beatrice o Spain; tiếng Ý: Beatrice di Borbone-Spagna; tiếng Đức: Beatrice Isabella von Spanien; tên đầy đủ: Beatriz Isabel Federica Alfonsa Eugénie Cristina Maria Teresia Bienvenida Ladislàa de Borbón y Battenberg; 22 tháng 6 năm 1909 – 22 tháng 11 năm 2002) là con gái của Alfonso XIII của Tây Ban Nha và Victoria Eugenie của Battenberg và là Thân vương phi xứ Civitella-Cesi với tư cách là vợ của Alessandro Torlonia, Thân vương thứ 5 xứ Civitella-Cesi. Beatriz là cô của Juan Carlos I của Tây Ban Nha.

Thời thơ ấu

Beatriz sinh ngày 22 tháng 6 năm 1909 tại Cung điện Vương thất La Granja, San Ildefonso gần Segovia, Tây Ban Nha, là người con thứ ba của Alfonso XIII của Tây Ban Nha và Victoria Eugenie của Battenberg. Vương nữ được đặt tên là Beatriz theo tên của bà ngoại là Beatrice của Liên hiệp Anh, con gái út của Victoria I của Liên hiệp Anh; Isabel theo tên của bà bác cố bên nội là Isabel của Tây Ban Nha; Federica theo tên của Friederike của Hannover, người sở hữu ngôi nhà mà cha mẹ Vương nữ đã đính hôn; Alfonsa theo tên của cha và Eugenia theo tên củaHoàng hậu Eugenia của Pháp, mẹ đỡ đầu của mẹ Vương nữ, Cristina và Maria dành cho Maria Christina Heniriette của Áo, bà nội của Beatriz, Teresa theo tên của Maria Theresia của Áo và Ladislaa theo tên của Ladislaus I của Áo.

Vương nữ Beatriz được giáo dục bởi các bảo mẫu người Anh trong Cung điện phía Đông. Beatriz được dạy về tiếng Anh và tiếng Pháp cùng với tiếng Tây Ban Nha. Beatriz cùng các anh chị em nói tiếng Anh với mẹ và tiếng Tây Ban Nha với bố. Alfonso XIII và Victoria Eugenie rất coi trọng việc tập thể dục ngoài trời và Beatriz cũng trở nên hứng thú với thể thao. Vương nữ bơi rất giỏi, có thể chơi quần vợt, chơi golf và thích cưỡi ngựa. Khi ở Madrid, Beatriz thường chơi đùa trong vườn của cung điện và thực hiện các chuyến du ngoạn trên lưng ngựa. Vào mùa hè, khi gia đình chuyển đến Cung điện Magdalena, gần Santander, Beatriz và María Cristina luyện tập các môn thể thao dưới nước. Hai chị em cũng thực hiện vài chuyến thăm Anh để ở với bà ngoại tại Cung điện Kensington.

Thiếu thời

Cuối thập niên 1920s, Infanta Beatriz và em gái Infanta María Cristina đã chủ trì một số sự kiện chính thức đồng thời đứng đầu các tổ chức và tài trợ cho các sự kiện khác nhau. Beatriz có ngoại hình tương đồng với những người họ hàng Tây Ban Nha với mái tóc nâu, dáng người cao và gầy giống cha.

Năm 1929, Beatriz tròn hai mươi tuổi. Vương nữ đem lòng yêu Miguel Primo de Rivera y Sáenz de Heredia, con trai út của Miguel Primo de Rivera, người từng giữ chức Thủ tướng Tây Ban Nha từ năm 1923 đến tháng 1 năm 1930 với quyền lực độc tài. Beatriz và Miguel Primo de Rivera y Sáenz de Heredia được nhìn thấy cưỡi ngựa cùng nhau, nhưng hôn nhân giữa hai người là điều không thể xảy ra. Khi ngài Thủ tướng phát hiện ra mối qua hệ giữa hai nguòi, ông đã đưa con trai ra nước ngoài. Những người bạn của hai chị em là ba người em họ Álvaro, Alfonso và Ataúlfo của Orleans, ba con trai của Vương tằng tôn Alfonso của Orléans. Có những mong đợi rằng Beatriz sẽ kết hôn với Alfonso và María Cristina sẽ kết hôn với Álvaro, thế nhưng nhưng tình hình chính trị hỗn loạn ở Tây Ban Nha đã khiến cuộc sống của ai chị em bị chệch hướng. Thiếu sự hậu thuẫn về mặt quân sự, Alfonso XIII cảm thấy buộc phải rời khỏi đất nước ngay trong ngày, nhưng không thoái vị với hy vọng được trở lại ngai vàng Tây Ban Nha. Beatriz các anh chị em và Vương hậu Victoria Eugenie, ngoại trừ Vương tử Juan đang công tác trong hải quân Tây Ban Nha, đã bị bỏ lại ở Madrid. Theo lời khuyên của những người ủng hộ, Vương hậu và 5 người con rời Cung điện Vương hậu bằng ô tô đến El Escorial, rồi từ đó họ bắt tàu đến Pháp.

Vương thất ban đầu sống lưu vong tại Khách sạn Meurice ở Paris, sau đó nhanh chóng chuyển đến khách sạn Savoie ở Fontainebleau. Cùng với mẹ, Beatriz và María Cristina đến thăm Paris hai lần một tuần bằng ô tô hoặc cùng với một thị nữ bằng tàu hỏa. Khi ở Paris, họ dành thời gian cưỡi ngựa ở trường dạy hoặc chơi quần vợt với bạn bè. Năm 1933, Alfonso XIII chuyển đến Rapallo và vì cuộc sống quá tách biệt ở Lausanne, Beatriz cùng em gái cùng cha chuyển đến Ý. Trước sự nài nỉ của hai con gái, Alfonso XIII chuyển đến Roma và thuê một căn nhà cho hai chị em ở

Năm 1934, một bi kịch ập đến với cả gia đình. Beatriz, bấy giờ đang trải qua kỳ nghỉ hè ở Pörtschach am Wörthersee ở Áo, lái một chiếc ô tô và ngồi cạnh là em trai Gonzalo. Vì cố gắng tránh một người đi xe đạp băng qua đường của hai người, Vương nữ đã đâm xe vào tường. Vụ tai nạn ban đầu có vẻ không nghiêm trọng, nhưng Gonzalo vì mắc bệnh máu khó đông nên bị xuất huyết trong và qua đời vào rạng sáng ngày hôm sau là ngày 13 tháng 8 năm 1934.

Hôn nhân và hậu duệ

Vào thời điểm em trai qua đời, Beatriz đang mong chờ đến ngày cưới của mình. Khi đến thăm Ostia, Vương nữ được giới thiệu với một quý tộc người Ý là Alessandro Torlonia, Thân vương thứ 5 xứ Civitella-Cesi. Alessandro Torlonia được thừa kế khối tài sản lớn từ cha mình vào năm 1933, là con trai của Marino, Thân vương thứ 4 xứ Civitella-Cesi và Mary Elsie Moore, một nữ thừa kế người Mỹ. và Beatriz phải từ bỏ quyền kế vị ngai vàng. Alfonso XIII, nhận ra rằng mối nguy về căn bệnh máu khó đông và tình cảnh sống lưu vong của gia đình sẽ khiến các con gái của ông khó tìm được người chồng có dòng dõi vương giả nên đã đồng ý cho mối hôn sự này.

Đám cưới diễn ra vào ngày 14 tháng 1 năm 1935 tại Nhà thờ Gesù. Tại đám cưới, Beatriz mặc một chiếc đầm cưới có phần đuôi váy dài 20 foot, đội một coronet hình hoa cam để cố định mạng che mặt. Hôn lễ ghi nhận sự có mặt của Quốc vương Alfonso XIII, Quốc vương và Vương hậu Ý và khoảng 52 vị vương tử mang dòng máu vương giả. Hàng nghìn người Tây Ban Nha đã đến từ Tây Ban Nha để ủng hộ vương thất lưu vong đã khiến sự kiện mang tính chính trị. Tuy nhiên, Vương hậu Victoria Eugenie và người anh cả Alfonso Pío, Bá tước xứ Covadonga, những người có quan hệ không tốt với Nhà vua, đều không tham dự lễ cưới. Sau buổi lễ, cặp đôi trẻ được Đức Giáo Hoàng Piô XI tiếp đón.

Vương nữ Beatriz của Tây Ban Nha và Alessandro Torlonia có bốn người con, 11 cháu và 19 chắt:

  • Sandra Torlonia (14 tháng 2 năm 1936 – 31 tháng 12 năm 2014), kết hôn với Bá tước Clemente Lequio di Assaba vào ngày 20 tháng 6 năm 1958 và có hai đứa con: Alessandro Lequio di Assaba (17 tháng 6 năm 1960), kết hôn với Antonia Dell'Atte vào ngày 12 tháng 10 năm 1987 và ly hôn vào năm 1991. Họ có một con trai. Alessandro tái hôn với María Palacios Milla vào ngày 15 tháng 11 năm 2008 và có một con gái. Alessandro cũng có một đứa con trai ngoại hôn với Ana García Obregón. ** Clemente Lequio di Assaba (2 tháng 4 năm 1988) Alejandro Lequio di Assaba (23 tháng 6 năm 1992 - 13 tháng 5 năm 2020) * Ginevra Lequio di Assaba (17 tháng 8 năm 2016) * Desideria Lequio di Assaba (19 tháng 9 năm 1962), kết hôn với Bá tước Oddone Tournon vào ngày 11 tháng 9 năm 1986 và có hai con trai: Bá tước Giovanni Tournon (3 tháng 9 năm 1991) *** Bá tước Giorgio Tournon (17 tháng 2 năm 1994)
  • Marco Torlonia, Thân vương thứ 6 xứ Civitella-Cesi (2 tháng 7 năm 1937 – 5 tháng 12 năm 2014), kết hôn với Orsetta Caracciolo dei principi di Castagneto vào ngày 16 tháng 9 năm 1960. Hai người có một con trai và hai cháu. Marco tái hôn với Philippa McDonald vào ngày 9 tháng 11 năm 1968 và ly hôn vào năm 1975. Họ có một con gái và ba cháu. Marco sau đó tái hôn lần nữa với Blažena Svitáková vào ngày 11 tháng 11 năm 1985 và có một con gái và hai cháu trai.
  • Marino Torlonia (sinh ngày 13 tháng 12 năm 1939 - 28 tháng 12 năm 1995) qua đời khi chưa lập gia đình và không có con.
  • Olimpia Torlonia (sinh ngày 27 tháng 12 năm 1943), kết hôn với Paul-Annick Weiller vào ngày 16 tháng 6 năm 1965 và có sáu người con: Beatrice Aliki Victoria Weiller (23 tháng 3 năm 1967), kết hôn với Đại sứ Brasil là André Aranha Corrêa do Lago (em trai của Pedro Corrêa do Lago) vào ngày 23 tháng 6 năm 1990. Hai vợ chồng có bốn người con: ** Paul-Annik Weiller Corrêa do Lago (24 tháng 1 năm 1996) Helena Weiller Corrêa do Lago (8 tháng 6 năm 1997) Antonio Weiller Corrêa do Lago (29 tháng 5 năm 1999) Victoria Weiller Corrêa do Lago (27 tháng 12 năm 2000) Sibilla Sandra Weiller (12 tháng 6 năm 1968), kết hôn với Guillaume Marie của Luxembourg vào ngày 8 tháng 9 năm 1994 và có bốn người con: ** Đại Công tôn Paul-Louis xứ Nassau (4 tháng 3 năm 1998) Đại Công tôn Léopold xứ Nassau (2 tháng 5 năm 2000) Đại Công tôn nữ Charlotte xứ Nassau (2 tháng 5 năm 2000) Đại Công tôn Jean xứ Nassau (13 tháng 7 năm 2004) Paul Alexandre Weiller (12 tháng 2 năm 1971 – 10 tháng 4 năm 1975), qua đời khi mới 4 tuổi. Laura Daphne Lavinia Weiller (23 tháng 1 năm 1974 - 5 tháng 3 năm 1980), qua đời khi mới 6 tuổi. Cosima Marie Elizabeth Edmee Weiller (18 tháng 1 năm 1984). Domitilla Louise Marie Weiller (14 tháng 6 năm 1985).

Cuộc sống sau này

Infanta Beatriz sống cùng chồng tại Palazzo Torlonia, một ngôi nhà phố thời kỳ Phục hưng đầu thế kỷ 16 trên Via della Conciliazione ở Roma. Khi Quốc vương Alfonso XIII qua đời năm 1941 và tình hình ở Ý trở nên xấu đi trong Chiến tranh thế giới thứ hai, Vương nữ Beatriz Isabel và gia đình cùng các anh chị em của Vương nữ đến Lausanne và trải qua phần còn lại của cuộc chiến gần bên mẹ của là Vương hậu Victoria Eugenie. Sau chiến tranh, Beatriz trở về Ý và sống tại đây cho đến cuối đời.

Năm 1950, khi đang ở cùng em trai Juan ở Estoril, Bồ Đào Nha, Beatriz được Francisco Franco cho phép đến thăm Tây Ban Nha. Ngày 25 thàng 8 năm 1950, Beatriz trở lại Tây Ban Nha lần đầu tiên kể từ khi rời đi gần hai mươi năm trước đó. Vương nữ đến Tây Ban Nha đến cùng chồng và con gái Sandra từ Lisboa và ở tại khách sạn Ritz thuộc Madrid để thăm Cung điện la Granja, nơi Vương nữ được sinh ra, và Nhà thờ-Thánh đường Đức Mẹ Cột Trụ ở Zaragoza. Infanta Beatriz được tiếp đón với sự ủng hộ chế độ quân chủ mạnh mẽ đến nỗi chỉ sau một tuần, trong chuyến thăm dài hơn ban đầu, chính phủ chỉ cho Vương nữ 24 giờ để rời khỏi đất nước.

Mặc dù gia đình đã cố gắng dàn xếp một cuộc hôn nhân cho con gái của Beatriz là Sandra với Baudouin của Bỉ, nhưng Sandra lại kết hôn với Clemente Lequio, một quan phu có một con trai vào năm 1958. Clemente Lequio sau đó được phong tước hiệu "Bá tước Lequio di Assaba" vào năm 1963 bởi Umberto II của Ý. Kết hôn với người mẫu Ý Antonia Dell'Atte, nàng thơ của Giorgio Armani vào cuối thập niên 1980s, Alessandro Lequio nhanh chóng trở thành nhân vật được chú ý trong giới "jet set" và báo lá cải Tây Ban Nha. sau khi ly hôn với Antonia, Alesssandro Lequio bắt đầu mối quan hệ với Ana Obregón, một nữ diễn viên và người dẫn chương trình truyền hình người Tây Ban Nha. Trong số sáu người con của hai vợ chồng có Sibilla là Đại Công tử phu nhân của Luxembourg với tư cách là vợ của Đại Công tử Guillaume Marie của Luxembourg. Vương nữ đến thăm Tây Ban Nha lần cuối vào năm 2001 để đến với em dâu María de las Mercedes của Hai Sicilie và quay trở lại Cung điện Magdalena, gần Santander, nơi 70 năm trước Beatriz đã trải qua kỳ nghỉ hè 17 năm liên tiếp cho đến năm 1930.

Vương nữ qua đời tại nhà riêng ở Palazzo Torlonia, Roma vào ngày 22 tháng 11 năm 2002, thọ 93 tuổi 5 tháng. Beatriz là người con hợp pháp cuối cùng còn sống của Alfonso XIII và Victoria Eugenie của Battenberg cũng như là người cháu hợp pháp cuối cùng còn sống của Alfonso XII của Tây Ban Nha.

Huân chương

  • : Người sở hữu Huân chương bậc Dame Grand Cross thứ 1.094 của Huân chương Vương thất của Vương hậu María Luisa.

Vương huy

File:Coat of Arms of Spanish Infantas (1700-1931), Ornaments as single women.svg|Vương huy được sử dụng trước khi kết hôn File:Coat of Arms of Infanta Beatriz of Spain, Princess of Civitella-Cesi.svg|Vương huy được sử dụng khi là Thân vương phi xứ Civitella-Cesi File:Coat of Arms of Widow Infantas (1977-2002).svg|Vương huy được sử dụng dưới thời Juan Carlos I của Tây Ban Nha

Gia phả

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Beatriz của Tây Ban Nha** hay **Beatriz de Borbón y Battenberg** (tiếng Tây Ban Nha: Beatriz de España; tiếng Anh: _Beatrice of Spain_; tiếng Scotland: _Beatrice o Spain_; tiếng Ý: _Beatrice di Borbone-Spagna_; tiếng Đức:
**Beatriz** (, ; 7 –13 tháng 2 năm 1373 – ) là người con hợp pháp duy nhất còn sống của Fernando I của Bồ Đào Nha và Leonor Teles, và là Vương hậu Castilla
**Victoria Eugenie Julia Ena của Battenberg** (tiếng Anh: _Victoria Eugenie of Battenberg_; tiếng Đức: _Victoria Eugénie von Battenberg_; tiếng Ba Lan: _Wiktoria Eugenia Battenberg_; tiếng Tây Ban Nha: _Victoria Eugenia de Battenberg_; tiếng Pháp: _Victoire
**_Bóng hình của gió_** () là một cuốn tiểu thuyết ra mắt năm 2001 của nhà văn Tây Ban Nha Carlos Ruiz Zafón và là một trong những cuốn sách bán chạy toàn cầu. Tác
**Beatriz Teresa Missiego Campos** (sinh ngày 16 tháng 1 năm 1945 tại Lima, Peru), được biết đến với nghệ danh **Betty Missiego** () là ca sĩ người Peru, mang thêm quốc tịch Tây Ban Nha
**Bồ Đào Nha** (tiếng Bồ Đào Nha: _Portugal_, ), quốc hiệu là **Cộng hòa Bồ Đào Nha** (, ) là một quốc gia nằm ở phía Tây Nam của khu vực châu Âu, trên bán
**Ronaldo Luís Nazário de Lima** (; sinh ngày 18 tháng 9 năm 1976), thường được biết đến với tên gọi **Ronaldo**, là một doanh nhân kiêm cựu cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Brasil
nhỏ|Beatriz Parra (2017) **Beatriz Parra Durango** (sinh năm 1940) là một giọng nữ cao cổ điển của Ecuador. ## Giáo dục và giáo dục sớm Parra Durango được sinh ra ở Guayaquil. Mẹ bà là
**Madrid Open 2022** (được tài trờ bởi Mutua) là một giải quần vợt chuyên nghiệp thi đấu trên mặt sân đất nện ngoài trời tại Park Manzanares ở Madrid, Tây Ban Nha từ ngày 28
**Garbiñe Muguruza Blanco** (, sinh ngày 8 tháng 10 năm 1993 tại Caracas, Venezuela) là một nữ vận động viên quần vợt người Tây Ban Nha. Tính tới thời điểm hiện tại, cô đã có
**_Giấc mơ Lọ Lem_** (tựa gốc tiếng Tây Ban Nha: **_Lola... Érase una vez_**) là một bộ phim truyền hình dành cho thanh thiếu niên của México được hãng Televisa sản xuất. Phim kể về
**_Femme Fatale_** là album phòng thu thứ bảy của ca sĩ người Mỹ Britney Spears, phát hành ngày 25 tháng 3 năm 2011 bởi Jive Records. Đây là album cuối cùng của cô hợp tác
**Vương tộc Trastámara** (tiếng Tây Ban Nha, tiếng Aragón và tiếng Catalan: _Casa de Trastámara_; tiếng Anh: _House of Trastámara_) là một triều đại từng cai trị Vương quyền Castilla và sau đó mở rộng
**Nữ hoàng Trái tim** (tiếng Tây Ban Nha: _Reina de Corazones_) là một bộ phim truyền hình thuộc thể loại telenovela của hãng truyền hình RCTV. ## Diễn viên *Emma Rabbe... _Marlene Paez/Sara_ *Roberto Mateos...
nhỏ|Một góc nhìn lãng mạn về thời khắc đoàn thám hiểm của [[Christopher Columbus đặt chân lên châu Mỹ (Dióscoro Puebla, 1862).]] **Phát hiện ra châu Mỹ** là hội nghị lịch sử được đánh dấu
**_21_** là album phòng thu thứ hai của nữ ca sĩ kiêm sáng tác nhạc người Anh Adele, phát hành lần lượt ngày 24 tháng 1 năm 2011 ở châu Âu bởi hãng đĩa XL
**Isabel của Castilla** (tiếng Tây Ban Nha: _Isabel de Castilla_; tiếng Anh: _Isabella of Castile_; 1355 - 23 tháng 12 năm 1392) là con gái của Pedro I của Castilla và tình nhân María của
**Carlos III của Navarra** (tiếng Basque: _Karlos III.a Nafarroakoa_; tiếng Tây Ban Nha: _Carlos III de Navarra_; tiếng Pháp: _Charles III de Navarre_ 1361 - 8 tháng 9 năm 1425), còn được gọi là **Carlos
**_Encanto: Vùng đất thần kỳ_** (tựa gốc tiếng Anh: **_Encanto_**) là bộ phim hoạt hình máy tính thể loại nhạc kịch-kỳ ảo ra mắt vào năm 2021, được sản xuất bởi Walt Disney Animation Studios
**Nhà Bragança** (tiếng Bồ Đào Nha: _Casa de Bragança_; tiếng Anh: _House of Braganza_) là một hoàng tộc sản sinh ra các hoàng đế, thân vương và công tước gốc Bồ Đào Nha trị vì
**Laura Robson** (sinh ngày 21 tháng 1 năm 1994) là một vận động viên quần vợt người Anh. Cô chính thức bắt đầu thi đấu trong hệ thống giải trẻ của Liên đoàn quần vợt
Tổ chức theo dõi nhân quyền là một trong những tổ chức nhân quyền quốc tế tố cáo chính quyền Cuba vi phạm nhân quyền có hệ thống, bao gồm các hình thức tra tấn,
**Petronila Angélica Gómez** (31 tháng 1 năm 1883 - 1 tháng 9 năm 1971) là một giáo viên, doanh nhân và nhà báo từ Cộng hòa Dominican, người đã thành lập tổ chức nữ quyền
Kể từ ngày 10 tháng 1 năm 2019, Venezuela đã trải qua một cuộc khủng hoảng tổng thống. Tổng thống đương nhiệm Nicolás Maduro tái đắc cử làm tổng thống Venezuela đã bị một số
**Sân vận động Quốc gia** () của Peru là một sân vận động đa năng nằm ở Lima, Peru. Sức chứa hiện tại của nó là 40.000 chỗ ngồi theo tuyên bố của Liên đoàn
**_María la del Barrio_** là một bộ phim truyền hình thuộc thể loại telenovela của México được tạo ra bởi Vivian Pestalozzi. Bộ phim được trình chiếu trên Canal de las Estrellas từ ngày 14
**Isabel Andreu de Aguilar** (nhũ danh **Isabel Andreu y Blanco**; 15 tháng 11 năm 1887 tại Fajardo - 7 tháng 4 năm 1948) là một nhà văn, nhà giáo dục, nhà từ thiện, nhà đấu
**_Đơn giản, tôi là Maria_** (tiếng Tây Ban Nha: _Simplemente María_) là một bộ phim truyền hình thuộc thể loại telenovela do México sản xuất và phát sóng vào khoảng giữa năm 1989 và 1990.
**Amalia Beatriz** " **Amira** " **Yoma** (sinh ngày 18 tháng 8 năm 1952) là một cố vấn chính trị và chủ nhà hàng người Argentina. Bà được biết đến nhiều nhất với vai trò là
**_Vencer el pasado_** (cách điệu thành **_Vencer el p@sado_**; tiếng Anh: **_Overcoming the Past_**) là một telenovela của Mexico được công chiếu lần đầu trên Las Estrellas vào ngày 12 tháng 7 năm 2021. Bộ
**Chuyện tình Marina** là một bộ phim thuộc thể loại Telenovela tiếng Tây Ban Nha của hãng phim Telemundo nổi tiếng. Bộ phim khởi quay vào ngày 16 tháng 10 năm 2006 và đóng máy
**_Enfermeras_** là một bộ phim truyền hình dài tập về y tế của Colombia được sản xuất bởi Ana María Pérez được công chiếu vào ngày 23 tháng 10 năm 2019 trên RCN Televisión. Loạt
**_Vencer el desamor_** là một telenovela của México được phát sóng trên Las Estrellas từ ngày 12 tháng 10 năm 2020 đến ngày 19 tháng 2 năm 2021. Bộ truyện được sản xuất bởi Rosy
**_Huyền thoại Pelé_** là một bộ phim tiểu sử của Mỹ do Jeff Zimbalist và Michael Zimbalist đạo diễn kiêm viết kịch bản. Phim kể về quãng thời gian từ thơ ấu đến thời niên
**Cầu lông** hay **vũ cầu** là môn thể thao dùng vợt thi đấu giữa 2 vận động viên (đấu đơn) hoặc 2 cặp vận động viên (đấu đôi) trên 2 nửa của sân cầu hình
**Thibaut I của Navarra** (, ; 30 tháng 5, 1201 - 8 tháng 7, 1253), còn được gọi là **Thibaut IV xứ Champagne** (), **Thibaut Thi nhân** ( hay **Thibaut Di tử** (), là Bá
**Giải vô địch bóng đá nữ U-17 thế giới 2014** là lần thứ 4 của giải đấu bóng đá dành cho thanh thiếu niên nữ dưới 17 tuổi. được tổ chức tại Costa Rica từ
**Leticia Noemí De León** (tên diễn viên, Cachita Galán; Buenos Aires, 29 tháng 3 năm 1943 - Parque Patricios, 2 tháng 12 năm 2004) là một ca sĩ người Argentina. bà được biết đến với
Có tất cả mười hai đội tuyển tham gia tranh tài môn **khúc côn cầu trên cỏ nữ** tại **Thế vận hội Mùa hè 2016** ở Rio de Janeiro. Mỗi đội cử mười sáu vận
**Madrid Open 2023** (được tài trờ bởi Mutua) là một giải quần vợt chuyên nghiệp thi đấu trên mặt sân đất nện ngoài trời tại Park Manzanares ở Madrid, Tây Ban Nha từ ngày 25
Paula Badosa là nhà vô địch, đánh bại Victoria Azarenka trong trận chung kết, 7–6(7–5), 2–6, 7–6(7–2). Đây là danh hiệu WTA 1000 đầu tiên của Badosa. Với chức vô địch giải đấu, Badosa trở
**Taliana Maria Vargas Carrillo** (sinh ngày 20 tháng 12 năm 1987 tại Santa Marta, Colombia) là Hoa hậu Colombia 2007 và Á hậu 1 Hoa hậu Hoàn vũ 2008 Hoa hậu Hoàn vũ 2008 được
nhỏ|Gisele Bündchen đã tham dự vòng chung kết thế giới của Elite Model Look năm 1994, nơi cô lọt vào Top 6 nhưng cuối cùng không giành chiến thắng **Elite Model Look** là một sự
**Giải quần vợt Úc Mở rộng 2023** là một giải quần vợt Grand Slam được diễn ra tại Melbourne Park, từ ngày 16–29 tháng 1 năm 2023. Đây là lần thứ 111 Giải quần vợt
() là nhân vật hư cấu trong loạt manga và anime _Naruto_ do Kishimoto Masashi tạo ra. Sasuke là thành viên của tộc Uchiha, một gia tộc ninja khét tiếng và là một trong những
**Giải quần vợt Wimbledon 2022** là một giải quần vợt Grand Slam diễn ra tại All England Lawn Tennis and Croquet Club ở Wimbledon, Luân Đôn, Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland. Novak
nhỏ|Quyền bầu cử của phụ nữ trên thế giới vào năm 1908 nhỏ| Cuộc diễu hành Phổ thông đầu phiếu, [[thành phố New York, ngày 6 tháng 5 năm 1912 ]] Phổ thông đầu phiếu
**Giải quần vợt Úc Mở rộng 2022** là một giải quần vợt Grand Slam được diễn ra tại Melbourne Park, từ ngày 17–30 tháng 1 năm 2022. Đây là lần thứ 110 Giải quần vợt
"**We Don't Talk About Bruno**" (chuyển ngữ tiếng Việt: **"Xin đừng nhắc gì tới Bruno"**) là một bài hát trong bộ phim hoạt hình-máy tính âm nhạc _Encanto: Vùng đất thần kỳ_ của hãng phim
**Fany Puyesky Mitnik** (23 tháng 7 năm 1939 – 15 tháng 10 năm 2010) là một nữ luật sư, nhà văn và nhà viết kịch được gọi là "nhà nữ quyền đầu tiên" của Uruguay.