✨Léopold I của Bỉ

Léopold I của Bỉ

Léopold I của Bỉ (16 tháng 12 năm 1790 - 10 tháng 12 năm 1865) là Quốc vương đầu tiên của Vương quốc Bỉ, sau khi Bỉ tuyên bố tách khỏi Hà Lan vào ngày 21 tháng 7 năm 1831. Ông là cha của Quốc vương Léopold II của Bỉ và Charlotte của Bỉ, Hoàng hậu México - vợ của Hoàng đế Maximiliano I của México. Bên cạnh đó, ông còn là cậu và là nhà cố vấn của Nữ vương Victoria I của Liên hiệp Anh.

Léopold được sinh ra tại thị trấn Coburg thuộc Công quốc Sachsen-Coburg-Saalfeld, Đế quốc La Mã Thần thánh (ngày nay là Bayern, Đức), và qua đời tại thị trấn Laeken của Vương quốc Bỉ. Khi mới sinh ra, ông đã được mang tước hiệu "Công tử xứ Sachsen-Coburg-Saalfeld". Sau này, tước hiệu của ông được đổi thành "Công tử xứ Sachsen-Coburg và Gotha" và "Công tước xứ Sachsen" sau khi anh trai của ông, Ernst III xứ Sachsen-Coburg-Saalfeld nhận thêm lãnh thổ Coburg nhưng mất đi Saalfeld, và trở thành Ernst I xứ Sachsen-Coburg và Gotha.

Leopold là em trai của Ernst I xứ Sachsen-Coburg và Gotha, vì thế ông là chú ruột của Albrecht xứ Sachsen-Coburg và Gotha, chồng của Nữ vương Victoria. Ông cũng là em trai của Ferdinand, chồng của Mária Antónia Koháry xứ Csábrág và Szitnya, nữ thừa kế duy nhất của Nhà Koháry, một trong 3 chủ đất giàu có nhất Vương quốc Hungary, và họ đã tạo ra Vương tộc Sachsen-Coburg và Gotha-Koháry, trị vì Vương quốc Bồ Đào Nha và Vương quốc Bulgaria. Vì thế, các vương tộc trị vì 4 vương quốc Bỉ, Bồ Đào Nha, Bulgaria và Anh đều có phát tích từ ông và các anh ruột của ông.

Thiếu thời

Léopold là con trai út của Công tước Franz xứ Sachsen-Coburg-Saalfeld và Auguste Reuß xứ Ebersdorf. Khi Gotha được sáp nhập với Sachsen-Coburg sau khi tách khỏi Sachsen-Gotha-Altenburg và Saalfeld bị sáp nhập với Sachsen-Meiningen vào năm 1826, Công tước Franz xứ Sachsen-Coburg-Saalfeld trở thành "Công tước xứ Sachsen-Coburg và Gotha".

Năm 1795, khi còn rất nhỏ, Léopold đã được chỉ định trở thành Thượng tá của Trung đoàn Vệ binh Hoàng gia Izmaylovsky ở Nga. Bảy năm sau, ông được nâng lên cấp bậc Thiếu tướng. Khi quân của Napoléon chiếm đóng Công quốc Sachsen-Coburg vào năm 1806, Léopold đã hành quân đến Paris. Khi đó, Hoàng đế Napoléon I của Pháp đề nghị ông giữ chức phụ tá sĩ quan, nhưng ông đã từ chối. Thay vào đó, ông trở thành sĩ quan của Lực lượng kỵ binh Hoàng gia Nga. Sau đó, ông tòng quân chống lại Napoléon I và đã tạo được tên tuổi vẻ vang trong trận Kulm với vai trò chỉ huy của đội quân áo giáp. Năm 1815, ở tuổi 25, Léopold đã đạt cấp bậc Trung tướng của Lực lượng quân đội Hoàng gia Nga.

thumb|Léopold và Charlotte xứ Wales Ngày 2 tháng 5 năm 1816, tại dinh thự Carlton ở Luân Đôn, Anh, ông đã tổ chức lễ thành hôn với Vương tôn nữ Charlotte Augusta xứ Wales - con gái hợp pháp duy nhất của Hoàng tử nhiếp chính Anh (sau này là Vua George IV của Anh). Do đó, ông được xếp thứ 2 trong danh sách kế vị ngai vàng hoàng gia Anh, được ban tước hiệu Thống chế và Hiệp sĩ Garter. Ngày 5 tháng 11 năm 1817, Công chúa Charlotte qua đời vì sinh non. Nếu bà còn sống, bà sẽ trở thành Nữ hoàng Anh sau cái chết của cha mình là Vua George IV; và Léopold sẽ trở thành Hoàng thân Anh chứ không phải là Vua Bỉ. Mặc dù Charlotte đã qua đời, nhưng Nhiếp chính vương tử vẫn phong tặng cho Léopold kính xưng Royal Highness vào ngày 6 tháng 4 năm 1818.

Từ năm 1828 đến 1829, Léopold đã vướng vào tin đồn tình cảm với nữ diễn viên Caroline Bauer - một người có vẻ ngoài rất giống với Công chúa Charlotte. Caroline đã đến Anh cùng với mẹ và sống tại dinh thự Longwood, chỉ cách dinh thự Claremont vài cây số. Nhưng đến giữa năm 1829, họ không còn liên lạc với nhau, Caroline cùng với mẹ trở về Berlin. Nhiều năm sau, trong cuốn hồi ký xuất bản sau cái chết của mình, Caroline đã tuyên bố rằng bà và Léopold đã từng có một cuộc hôn nhân không môn đăng hộ đối, và ông đã trao cho bà tước hiệu "Nữ Bá tước Montgomery". Tuy nhiên, ông đã ly hôn với bà sau khi biết được ông có thể sẽ trở thành Vua của Hy Lạp. Thế nhưng, con trai của Huân tước von Stockmar đã phủ nhận chuyện này vì không có một tài liệu nào ghi chép về cuộc hôn nhân giữa Léopold và nữ diễn viên.

Lời đề nghị trở thành Vua Hy Lạp

Sau khi cuộc chiến tranh giành độc lập Hy Lạp kết thúc, Léopold đã trở thành ứng viên sáng giá và quyền lực nhất cho ngôi vị Vua của nhà nước Hy Lạp mới. Tuy nhiên, vào ngày 21 tháng 5 năm 1830, ông đã từ chối lời đề nghị này. Ông nói rằng ông không muốn một vị vua cai trị đất nước nhờ vào thế lực bên ngoài của các nước đồng minh, và nhấn mạnh quyền hạn của Hy Lạp đối với một số khu vực (ở Acarnania và Aetolia) đã đầu hàng Thổ Nhĩ Kỳ. Sau đó, ngai vàng của Hy Lạp đã thuộc về Vương tử Otto của Bayern theo Hội nghị Luân Đôn diễn ra năm 1832.

Vua Bỉ

thumb|Xu bạc 5franc với mặt trước là vua Leopold I, đúc năm 1833

Sau khi Bỉ giành độc lập, chính thức thoát khỏi sự cai trị của Hà Lan vào ngày 4 tháng 10 năm 1830, Quốc hội Bỉ đã đưa ra một số ứng viên phù hợp, trong đó có Leopold, để trở thành Vua của quốc gia này. Vào ngày 26 tháng 6 năm 1831, Léopold đã được chọn để trở thành vị vua đầu tiên của Vương quốc Bỉ. Ông đã làm lễ tuyên thệ trước Hiến pháp bên ngoài nhà thờ Thánh Jacques-sur-Coudenberg tại Cung điện Coudenberg ở thủ đô Bruxelles vào ngày 21 tháng 7 năm 1831. Ngày này cũng được chọn làm ngày Quốc khánh Bỉ.

thumb|Vua Léopold I, Vương hậu Louise-Marie, Thái tử Léopold, Hoàng tử Philippe và Công chúa Marie-Charlotte Chưa đầy một tháng sau, vào ngày 2 tháng 8 năm 1831, Hà Lan tiến hành xâm lược Bỉ. Cuộc giao tranh liên tục diễn ra, kéo dài trong vòng 8 năm. Đến năm 1839, hai nước đã cùng nhau ký Hiệp ước Luân Đôn, thiết lập nền độc lập cho Bỉ.

Ngày 9 tháng 8 năm 1832, lễ cưới giữa Louise Marie của Orléans và Léopold I đã được diễn ra tại cung điện Château de Compiègne ở Pháp. Do Léopold I là người theo đạo Tin Lành nên lễ cưới của họ được tổ chức theo cả nghi thức Công giáo lẫn Kháng Cách.

Với việc khai trương tuyến đường sắt nối liền Bruxelles và Mechelen vào ngày 5 tháng 5 năm 1835, hy vọng của Léopold I về việc xây dựng một tuyến đường sắt đầu tiên ở lục địa châu Âu đã trở thành hiện thực.

Năm 1840, cháu gái của ông, Nữ vương Victoria I của Liên hiệp Anh - con gái của chị gái ông là VIctoire xứ Sachsen-Coburg-Saalfeld - đã kết hôn với cháu trai của ông, Albrecht xứ Sachsen-Coburg và Gotha - con trai của anh trai ông là Ernst I xứ Sachsen-Coburg và Gotha. Ngay cả trước và sau khi lên ngôi, Nữ vương Victoria vẫn luôn khen ngợi rằng Léopold là một người có tầm ảnh hưởng sâu sắc đến bà vào những ngày đầu trị vì.

Năm 1842, Léopold I đã cố gắng khắc phục điều kiện làm việc của lao động nữ và trẻ em nhưng không thành công. Ở châu Âu lúc bấy giờ đang nổi lên một làn sóng phong trào cách mạng, sau khi cha vợ của ông là Vua Louis-Philippe I của Pháp bị phế truất vào năm 1848. Tuy nhiên, vào thời điểm đó, Bỉ vẫn giữ được thái độ trung lập, phần lớn là nhờ vào tài ngoại giao của Léopold I.

Ngày 11 tháng 10 năm 1850, Léopold I một lần nữa mất đi người đầu ấp tay gối là Vương hậu Louise Marie sau khi bà qua đời vì bệnh lao ở tuổi 38.

thumb|Lễ tang của Vua Léopold I

Vào ngày 10 tháng 12 năm 1865, Vua Léopold I qua đời tại Laeken ở tuổi 74. Ông được an táng tại Hầm mộ Hoàng gia thuộc Nhà thờ Đức Mẹ đồng trinh ở Laeken, Bruxelles, Bỉ.

Con cái

Léopold kết hôn với Vương tôn nữ Charlotte Augusta xứ Wales, nhưng bà đã qua đời khi sinh non đứa con đầu lòng. Léopold sau này tái hôn với Vương nữ Louise Marie của Orléans và có với nhau 4 người con: *Louis Philippe* Léopold Victor Ernest (24 tháng 7 năm 1833 – 16 tháng 5 năm 1834) Léopold Louis Philippe Marie Victor (9 tháng 4 năm 1835 – 17 tháng 12 năm 1909), sau này trở thành Vua Léopold II của Bỉ Philippe Eugène Ferdinand Marie Clément Baudouin Léopold Georges (24 tháng 3 năm 1837 – 17 tháng 11 năm 1905), kết hôn với Công chúa Maria Luise của Hohenzollern-Sigmaringen Charlotte** Amélie Augustine Victoire Clémentine Léopoldine (7 tháng 6 năm 1840 – 19 tháng 1 năm 1927), kết hôn với Vua Maximiliano I của México

Bên cạnh đó, Léopold I còn có hai người con trai với người hầu gái, Arcadie Meyer (nhũ danh Claret) là George và Arthur. George sinh năm 1849, còn Arthur sinh năm 1852. Theo lời yêu cầu của Léopold I, vào năm 1862, hai người con trai của ông đã được cháu trai của ông là Công tước Ernst II xứ Sachsen-Coburg và Gotha ban cho tước hiệu "Freiherr (tạm dịch Huân tước) von Eppinghoven". Năm 1863, Arcadie cũng được ban cho tước hiệu "Nữ Nam tước von Eppinghoven".

Tước hiệu

thumb|Vương huy dạng chữ của Léopold I *16 tháng 12 năm 1790 – 12 tháng 11 năm 1826:* His Serene Highness Hoàng tử Léopold của Sachsen-Coburg-Saalfeld, Công tước xứ Sachsen 6 tháng 4 năm 1818 – 12 tháng 11 năm 1826: His Royal Highness Hoàng thân Léopold của Sachsen-Coburg-Saalfeld, Công tước xứ Sachsen (Ở Anh) 12 tháng 11 năm 1826 – 21 tháng 7 năm 1831: His Serene Highness (His Royal Highness ở Anh) Hoàng tử Léopold của Sachsen-Coburg và Gotha, Công tước xứ Sachsen 21 tháng 7 năm 1831 – 10 tháng 12 năm 1865:** His Majesty Vua Bỉ

Tổ tiên

Tác phẩm văn học

  • J. L. THONISSEN, La Belgique sous le règne de Leopold Ier, 3 Vol., Leuven, 1861.
  • Theodore JUSTE, Léopold Ier, roi des Belges, 2 vol., Bruxelles, 1868.
  • Erich von STOCKMAR, Denkwürdigkeiten aus den Papieren des Freihern Christian Friedrich von Stockmar, Brunswick, 1872.
  • SAINT-RENE TAILLANDIER, Le roi Léopold et la reine Victoria. Récits d'histoire contemporaine, Paris, 1878.
  • C. BUFFIN, La jeunesse de Léopold Ier, Bruxelles, 1914.
  • E. C. CORTI & C. BUFFIN, Léopold Ier, oracle politique de l'Europe, Bruxelles, 1927.
  • Louis de LICHTERVELDE, Léopold Ier et la formation de la Belgique contemporaine, Bruxelles, 1929.
  • Hippolyte D'URSEL, La cour de Belgique et la cour de France de 1832 à 1850, Paris, 1933.
  • Carlo BRONNE, Leopold Ier et son Temps, Bruxelles, 1942.
  • Carlo BRONNE, Jules Van Praet, Ministre de la Maison du Roi, Bruxelles, 1943.
  • Carlo BRONNE, Lettres de Léopold Ier, Bruxelles, 1943.
  • A. SIMON, Lorsque mourut Leopold Ier, in: Revue Générale Belge, 1947.
  • A. SIMON, La politique religieuse de Léopold Ier, Bruxelles, 1853.
  • L. DE GUCHTENEERE, Leopold Ier et la démocratie, Leuven, 1955.
  • A. SIMON, Leopold Ier et les partis en Belgique, 1961.
  • Theo LUYKX, Politieke geschiedenis van België, Brussel, 1964.
  • A. SIMON, Leopold 1er, in: Biographie nationale de Belgique, T. XXXII, Bruxelles, 1964, col. 364–430.
  • P. VERMEIR, Leopold I. Mens, Vorst, Diplomaat, Dendermonde, Deel I, 1965 – Deel II, 1967.
  • Theo ARONSON, De Coburgs van België, geschiedenis van een vorstenhuis, Diogenes, 1970.
  • Jean STENGERS, Les rois des Belges. Pouyvoir et influence de 1831 à ce jour, Bruxelles – Leuven, 1992
  • Gerty COLIN, Rois et reines de Belgique, 1993.
  • Alphonse VANDENPEEREBOOM, La fin d'un règne. Notes et souvenirs, Gent, 1994.
  • Gustaaf JANSSENS & Jean STENGERS (dir.), Leopold I et Leopold II. Les archives Goffinet, Bruxelles, Koning Boudewijnstichting, 1997.
  • G. KIRSCHEN, Léopold avant Léopold Ier, Brussel, 1998, (ISBN 2-87106-200-5)
  • Henriette CLAESSENS, Leven en liefdes van Leopold I, Lannoo, 2002.
  • Marleen BODEN, De opvoeding van Belgische prinsen en prinsessen in de negentiende eeuw, licentiaatsverhandeling, Katholieke Universiteit Leuven, 2001
  • Olivier DEFRANCE, Léopold Ier et le clan Cobourg, Éditions Racine, Bruxelles, 2004 (ISBN 978-2-87386-335-7)
  • Frédéric MARCHESANI, Léopold Ier, roi diplomate (1850–1865), Éditions Luc Pire, Bruxelles, 2007 (ISBN 978-287415-852-0)
  • Gita DENECKERE, Leopold I. De eerste koning van Europa, De Bezige Bij, Antwerpen, 2011
👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Léopold I của Bỉ** (16 tháng 12 năm 1790 - 10 tháng 12 năm 1865) là Quốc vương đầu tiên của Vương quốc Bỉ, sau khi Bỉ tuyên bố tách khỏi Hà Lan vào ngày
**Léopold II của Bỉ** (tiếng Pháp: _Léopold Louis Philippe Marie Victor_, tiếng Hà Lan: _Leopold Lodewijk Filips Maria Victor_; 9 tháng 4 năm 1835 – 17 tháng 12 năm 1909) là vị vua thứ hai
**Maximiliano I của México** (tiếng Đức: _Ferdinand Maximilian Joseph Maria von Habsburg-Lothringen_; tiếng Tây Ban Nha: _Fernando Maximiliano José María de Habsburgo-Lorena_; 6 tháng 7 năm 1832 - 19 tháng 6 năm 1867) là một
**Léopold III của Bỉ** (3 tháng 11 năm 1901 - ngày 25 tháng 9 năm 1983) là vua Bỉ từ năm 1934 cho tới năm 1951, khi ông thoái vị nhường ngôi cho người thừa
**Charlotte của Bỉ** (Marie Charlotte Amélie Augustine Victoire Clémentine Léopoldine; 7 tháng 6 năm 1840 – 19 tháng 1 năm 1927), được biết đến với tên theo tiếng Tây Ban Nha là **Carlota**, bà sinh
**Louis-Philippe của Bỉ** (24 tháng 7 năm 1833 - 16 tháng 5 năm 1834) là con trai lớn của Vua Léopold I của Bỉ và người vợ thứ hai là Vương nữ Louise Marie của
**Vương tử Philippe của Bỉ, Bá tước xứ Flandre** (24 tháng 3 năm 1837 - 17 tháng 11 năm 1905) là con trai của Vua Léopold I của Bỉ và người vợ thứ hai là
**Albert I** (08 tháng 4 năm 1875 - 17 tháng 2 năm 1934) là vua của Bỉ từ năm 1909 đến năm 1934. Đây là một thời kỳ sôi động trong lịch sử của Bỉ,
**Leopold I** (Tiếng Đức: _Leopold Ignaz Joseph Balthasar Franz Felician_; Tiếng Hungary: _I. Lipót_; 9 tháng 6 năm 1640 - 5 tháng 5 năm 1705) là Hoàng đế La Mã Thần thánh, Vua của Hungary,
**Richard I** (8 tháng 9 năm 1157 – 6 tháng 4 năm 1199) là Quốc vương nước Anh từ 6 tháng 7 năm 1189 cho tới khi mất. Ông cũng là Công tước của Normandy,
**Alexandre của Bỉ** (tiếng Pháp: _Alexandre Emmanuel Henri Albert Marie Léopold_, tiếng Hà Lan: _Alexander Emanuel Hendrik Albert Maria Leopold_; 18 tháng 7 năm 1942 – 29 tháng 11 năm 2009) là con trai của
**Ferdinand I của Bulgaria** (Tiếng Bulgaria: ; 26/02/1861 - 10/09/1948),, tên khai sinh là **Ferdinand Maximilian Karl Leopold Maria von Sachsen-Coburg und Gotha**, là vị Vương công thứ hai của Thân vương quốc Bulgaria từ
**Joséphine-Charlotte của Bỉ** (11 tháng 10 năm 1927 – 10 tháng 1 năm 2005) là con gái của Léopold III của Bỉ và Astrid của Thụy Điển. Joséphine-Charlotte còn là Đại công tước phu nhân
**Louise Marie của Orléans** (3 tháng 4 năm 1812 – 11 tháng 10 năm 1850), tên đầy đủ là _Louise Marie Thérèse Charlotte Isabelle_, là _Vương nữ của Orléans_ và là Vương hậu Bỉ. Bà
**Rudolf của Áo** (_Rudolf Franz Karl Josef_; 21 tháng 8 năm 1858 – 30 tháng 1 năm 1889) là người con thứ ba và là con trai duy nhất của Hoàng đế Franz Joseph I
**Carol I của România** (Tiếng Anh: Charles I, 20 tháng 4 năm 1839 - 10 tháng 10 năm 1914), là vị quân chủ thứ 2 của România từ năm 1866 đến khi qua đời vào
thumb|Quyền kế vị ngai vàng thuộc về các hậu duệ hợp pháp của [[Léopold I của Bỉ|Vua Léopold I.]] Tình đến năm 2014, có tất cả 14 người được liệt kê vào **Danh sách kế
**Ferdinand I** (_Ferdinand Viktor Albert Meinrad_; 24 tháng 8 năm 1865 – 20 tháng 7 năm 1927), biệt danh là Întregitorul ("Người thống nhất"), là Vua của Romania từ năm 1914 cho đến khi qua
**Leopold II** (tiếng Đức: _Peter Leopold Josef Anton Joachim Pius Gotthard_; tiếng Ý: _Pietro Leopoldo Giuseppe Antonio Gioacchino Pio Gottardo_; tiếng Anh: _Peter Leopold Joseph Anthony Joachim Pius Godehard_; 5 tháng 5 năm 1747 1
**Trận nước Bỉ** hay **Chiến dịch nước Bỉ** là một phần trong trận chiến nước Pháp, cuộc tấn công lớn của Đức Quốc xã tại Tây Âu trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Cuộc
**Lịch sử Bỉ** có từ trước khi thành lập nước Bỉ hiện đại năm 1830. Lịch sử Bỉ đan xen với lịch sử các nước láng giềng là Hà Lan, Đức, Pháp và Luxembourg. Trong
**Leopold** (tiếng Đức: _Karl Leopold I. Friedrich von Baden_; 29 tháng 8 năm 1790 - 24 tháng 4 năm 1852) là Đại công tước đời thứ 4 của xứ Baden, ông trị vì từ năm
**Elisabeth Gabriele của Bayern** (25 tháng 7 năm 1876 – 23 tháng 11 năm 1965), tên đầy đủ là _Elisabeth Gabriele Valérie Marie_, là vợ của Albert I của Bỉ. Bà là Vương hậu Bỉ
**Leopold của Liên hiệp Anh, Công tước xứ Albany** (_Leopold George Duncan Albert_; 7 tháng 4 năm 1853 - 28 tháng 3 năm 1884) là con thứ tám và là con trai út của Victoria
**François I** (tiếng Pháp) hay **Franz I** (tiếng Đức) (8 tháng 12 năm 1708 – 18 tháng 8 năm 1765)), còn được gọi là **François Étienne** (tiếng Pháp) hoặc **Franz Stephan** (tiếng Đức), là Hoàng
**Marie Henriette của Áo** (23 tháng 8 năm 1836 – 19 tháng 9 năm 1902), tên đầy đủ là _Marie Henriette Anne_, là vợ của vua Léopold II của Bỉ. Bà là Vương hậu Bỉ
**Franz I xứ Sachsen-Coburg-Saalfeld** (tên đầy đủ: _Franz Friedrich Anton, Herzog von Sachsen-Coburg-Saalfeld_; 15 tháng 7 năm 1750 – 9 tháng 12 năm 1806), là một trong những công tước có chủ quyền thuộc dòng
**Friedrich I**, còn viết là **Frederic** (đọc là **Frêđêrich**) (11 tháng 7 năm 1657 – 25 tháng 2 năm 1713) là một thành viên của Nhà Hohenzollern. Ông là Tuyển hầu tước xứ Brandenburg (1688
**Anton I của Sachsen** (tiếng Đức: _Anton I. von Sachsen_; 27 tháng 12 năm 1755 – 6 tháng 6 năm 1836) là Quốc vương Sachsen từ Vương tộc Wettin. Anton I được biết đến với
Dom **Fernando II** (tiếng Đức: _Ferdinand II_; tiếng Anh: _Ferdinand II_) (29 tháng 10 năm 1816 – 15 tháng 12 năm 1885) là một Thân vương người Đức của Nhà Sachsen-Coburg và Gotha-Koháry, và là
**Mihai I của România** (tiếng România: _Mihai I al României_ ; 25 tháng 10 năm 1921 – 5 tháng 12 năm 2017) là vị vua cuối cùng của Vương quốc România, trị vì từ ngày
**Louis Philippe I của Pháp** (Ngày 6 tháng 10 năm 1773 – 26 tháng 8 năm 1850) là vua của Pháp từ năm ngày 6 tháng 11 năm 1830 đến ngày 24 tháng 2 năm
**Alexandra của Đan Mạch** (Tên đầy đủ: Alexandra Caroline Marie Louise Charlotte Julia; 1 tháng 12 năm 1844 – 20 tháng 11 năm 1925) là Vương hậu Vương quốc Liên hiệp Anh và các quốc
**Ludovico I của Etruria** (tiếng Tây Ban Nha: _Luis I de Etruria_;tiếng Pháp: _Luis I d'Étrurie_; 5 tháng 7 năm 1773 – 27 tháng 5 năm 1803) là vị vua đầu tiên trong hai vị
**Friedrich August I của Sachsen** (tiếng Đức: Friedrich August I. von Sachsen; tiếng Ba Lan: Fryderyk August I; 23/12/1750 - 5/5/1827) là thành viên của Nhà Wettin, người cai trị Tuyển đế hầu quốc Sachsen
**Francesco I của Hai Sicilia** (tiếng Ý: Francesco Gennaro Giuseppe Saverio Giovanni Battista; 19 tháng 8 năm 1777 – 8 tháng 11 năm 1830) là Vua của Vương quốc Hai Sicilia từ 1825 đến 1830
**Dona Maria Leopoldine của Áo** (22 tháng 1 năm 1797 – 11 tháng 12 năm 1826) là Hoàng hậu đầu tiên của Đế quốc Brasil với tư cách là vợ của Hoàng đế Dom Pedro
**Leopold, Công tước xứ Lorraine** (11 tháng 9 năm 1679 - 27 tháng 3 năm 1729) ông còn có biệt danh là **Leopold tốt bụng**, là quân chủ cai trị Công quốc Lorraine, Bar và
**Louis XIV của Pháp** (; 5 tháng 9 năm 16381 tháng 9 năm 1715), còn được gọi là **Louis Đại đế** (, ) hay **Vua Mặt Trời** (, ), là một quân chủ thuộc Nhà
**Victoria của Liên hiệp Anh** (Alexandrina Victoria; 24 tháng 5 năm 1819 – 22 tháng 1 năm 1901) là Nữ vương Vương quốc Liên hiệp Anh từ ngày 20 tháng 6 năm 1837 cho đến
**Margarita Teresa của Tây Ban Nha** (tiếng Tây Ban Nha: _Margarita Teresa de España_, tiếng Đức: _Margarethe Theresia von Spanien_; tiếng Anh: _Margaret Theresa of Spain_; 12 tháng 7 năm 1651 – 12 tháng 3
**Sofia Wilhelmina của Thụy Điển** (_Sofia Wilhelmina Katarina Maria Lovisa Charlotta Anna_; 21 tháng 5 năm 1801 – 6 tháng 7 năm 1865), là một vương nữ Thụy Điển thuộc Vương tộc Holstein-Gottorp, con gái
**Victoire xứ Sachsen-Coburg-Saalfeld** (17 tháng 8 năm 1786 - 16 tháng 3 năm 1861), là một Công nữ người Đức của Công quốc Sachsen-Coburg-Saalfeld, từng là Vương phi xứ Leiningen với tư cách là vợ
**Maria Christina** (đôi khi được viết là **_Marie Christine_**) **Johanna Josepha Antonia** (sinh ngày 13 tháng 5 năm 1742 - mất ngày 24 tháng 6 năm 1798), còn được gọi là **Maria Christina của Áo**
**Đế quốc thực dân Bỉ** gồm ba thuộc địa của Bỉ từ năm 1901 đến năm 1962 là: Congo thuộc Bỉ (nay là Cộng hòa Dân chủ Congo, Rwanda và Burundi. Đế quốc này không
**María Luisa của Tây Ban Nha hay María Luisa de Borbón y Wettin** (tiếng Tây Ban Nha: _María Luisa de España_, tiếng Đức: _Maria Ludovica von Spanien_; 24 tháng 11 năm 1745 – 15 tháng
**Karl VI của Thánh chế La Mã** (; 1 tháng 10 năm 1685 – 20 tháng 10 năm 1740) là Hoàng đế La Mã Thần thánh từ 1711 đến 1740. Ông đã kế thừa ngai
**Maria Antonia Josepha của Áo** (tiếng Đức: _Maria Antonia Josepha von Österreich_; tiếng Tây Ban Nha: _María Antonia Josefa de Austria_; tiếng Anh: _Maria Antonia Josepha of Austria_; 18 tháng 1 năm 1669 – 24
Đây là **danh sách vị quân chủ Bỉ** từ năm 1831, sau khi Bỉ tuyên bố độc lập và tách khỏi sự lệ thuộc của Vương quốc Hà Lan Thống nhất trong cuộc Cách mạng
**Ludwig IV** còn gọi là **Ludwig der Bayer** (5 tháng 4 1282 ở München - 11 tháng 10, 1347 tại Puch gần Fürstenfeldbruck), xuất thân từ nhà Wittelsbach, là Vua La Mã Đức từ năm