✨Lịch sử Bỉ
Lịch sử Bỉ có từ trước khi thành lập nước Bỉ hiện đại năm 1830. Lịch sử Bỉ đan xen với lịch sử các nước láng giềng là Hà Lan, Đức, Pháp và Luxembourg. Trong hầu hết chiều dài lịch sử, vùng đất Bỉ hiện nay từng thuộc về một lãnh thổ lớn hơn (ví dụ như Đế quốc Caroling), hoặc bị chia thành các quốc gia nhỏ (nổi bật nhất là Công quốc Brabant, Bá quốc Vlaanderen, Lãnh địa thân vương-giám mục Liège và Bá quốc Luxembourg). Do có vị trí chiến lược và là nơi giao chiến của nhiều đội quân, nên kể từ Chiến tranh Ba mươi Năm (1618-1648), nước Bỉ thường được gọi là"chiến trường của châu Âu". Bỉ cũng được chú ý với tư cách là quốc gia châu Âu nằm trên ranh giới tiếng Pháp gốc Latinh và tiếng Hà Lan thuộc nhóm German.
Quá trình hình thành nước Bỉ, cũng như các nước lân cận trong vùng Benelux, bắt nguồn từ Mười bảy tỉnh thuộc Hà Lan Bourgogne. Các tỉnh này hợp nhất dưới quyền Nhà Valois-Bourgogne, và cuối cùng tuyên bố độc lập với cả Pháp và Đức, nhờ một hậu duệ của dòng họ này là Karl V, Hoàng đế La Mã Thần Thánh - ông tuyên bố độc lập cho vùng này trong Sắc lệnh 1549. Chiến tranh Tám mươi Năm (1568 – 1648), dẫn đến chia rẽ giữa nước Cộng hòa Hà Lan ở phía bắc, và miền nam các Vùng đất thấp (từ đó hình thành Bỉ và Luxembourg). Vùng lãnh thổ phía nam tiếp tục thuộc quyền trị vì của gia tộc Habsburg - hậu duệ của nhà Burgundy, ban đầu có tên gọi là"Hà Lan Tây Ban Nha". Cuộc xâm lược của Pháp dưới thời Louis XIV dẫn tới việc mất quyền kiểm soát vùng Hauts-de-France về tay nước Pháp, trong khi khu vực còn lại cuối cùng trở thành vùng"Hà Lan Áo". Chiến tranh Cách mạng Pháp khiến Bỉ nhập thành một phần của Pháp vào năm 1795, kết thúc thời kì bán độc lập của khu vực trước đây thuộc về giáo hội Công giáo. Sau thất bại của nước Pháp năm 1814, Vương quốc Liên hiệp Hà Lan mới được thành lập, và cuối cùng lại được chia nhỏ một lần nữa trong Cách mạng Bỉ 1830–1839, thành lập nên ba nhà nước hiện đại là Bỉ, Hà Lan và Luxembourg.
Các cảng và ngành công nghiệp dệt của Bỉ từng có vai trò quan trọng trong thời Trung Cổ, và nước Bỉ hiện đại là một trong những quốc gia đầu tiên trải qua cách mạng công nghiệp, đem lại phồn vinh vào thế kỷ XIX, song cũng hình thành sự phân rẽ chính trị giữa thương nhân theo chủ nghĩa tự do và công nhân theo chủ nghĩa xã hội. Nhà vua xây dựng đế quốc thực dân cá nhân của mình tại Congo thuộc Bỉ, song chính phủ nắm quyền sau một vụ bê bối lớn vào năm 1908. Nước Bỉ giữ thế trung lập, nhưng do vị trí chiến lược mở đường sang Pháp nên Bỉ trở thành mục tiêu xâm lược của Đức vào năm 1914 và 1940. Điều kiện sống trong thời kì bị chiếm đóng vô cùng khắc khổ. Trong thời kì hậu chiến, Bỉ là quốc gia đi đầu trong việc hàn gắn châu Âu, là thành viên nòng cốt lập nên tổ chức tiền thân của Liên minh châu Âu. Bruxelles hiện là điểm đặt trụ sở của NATO và là thủ đô (không chính thức) của Liên minh châu Âu. Các thuộc địa đã giành độc lập vào đầu thập niên 1960.
Xét về mặt chính trị, quốc gia này đã từng phân hóa về tôn giáo, và trong vài thập kỉ gần đây, Bỉ phải đối mặt với những chia rẽ mới, liên quan đến sự khác biệt về ngôn ngữ và sự phát triển kinh tế không đồng đều. Sự tương phản này thường xuyên hiện hữu, và dẫn đến cuộc cải tổ sâu rộng vào thập niên 1970, chuyển từ nước Bỉ đơn nhất trước đây thành quốc gia liên bang và liên tiếp xảy ra khủng hoảng trong chính phủ. Nước Bỉ hiện nay được chia thành ba vùng, vùng Vlaanderen (nói tiếng Hà Lan) ở phía Bắc, vùng Wallonie (nói tiếng Pháp) ở phía Nam, và Bruxelles sử dụng cả hai thứ tiếng ở giữa. Cũng có một bộ phận dân số nói tiếng Đức sống tại khu vực dọc biên giới Đức, và tiếng Đức là ngôn ngữ chính thức thứ ba tại Bỉ. Kinh tế Bỉ rất phát đạt và hội nhập sâu rộng trong khu vực châu Âu.
Trước thời kì độc lập
Tiền sử
phải|nhỏ| [[Dao làm từ đá lửa được phát hiện trong hang đá tại Bỉ]] Trên vùng đất thuộc Bỉ, hóa thạch của người Neanderthal được phát hiện tại Engis vào năm 1829-30 và một số vùng khác, một số hóa thạch có niên đại tối thiểu 100.000 năm TCN.
Kỹ thuật canh tác thời đồ đá mới sớm nhất tại miền bắc châu Âu, được gọi là văn hoá đồ gốm đường vạch (LBK), đã lan đến khu vực phía đông nước Bỉ, đây là điểm cực tây bắc của nền văn minh này (tính từ điểm xuất phát tại khu vực Đông Nam Âu). Quá trình mở rộng này dừng lại ở vùng Hesbaye phía đông nước Bỉ vào khoảng năm 5000 TCN. Nền văn minh đồ gốm đường vạch LBK tại Bỉ nổi tiếng về các bức tường phòng thủ xây bao quanh các ngôi làng, điều này không phải lúc nào cũng cần thiết vì những người săn bắn hái lượm thường có liên hệ gần gũi với nhau.
Các trường phái gốm Limburg và gốm La Hoguette lan rộng tới tây bắc nước Pháp và Hà Lan, nhưng cũng có lúc người ta cho rằng các kĩ thuật này bắt nguồn từ kĩ thuật làm gốm của cộng đồng LBK sống ở phía đông Bỉ và đông bắc Pháp, và là sản phẩm của những người săn bắt và hái lượm. Nền văn minh đồ đá mới bắt đầu muộn hơn một chút, được tìm thấy ở vùng trung Wallonie, được gọi là"Groupe de Blicquy", có thể là đại diện cho hậu duệ của những người khai hoang LBK. Một di tích khảo cổ đáng chú ý tại khu vực này là các mỏ đá lửa thời đại đồ đá mới tại Spiennes. Nền văn minh Seine-Oise-Marne mở rộng tới vùng Ardennes, và kết hợp với các di chỉ cự thạch tại đây (ví dụ như di chỉ Wéris), nhưng không phân tán rộng khắp trên toàn bộ lãnh thổ Bỉ. Về phía bắc và phía đông Bỉ, tại Hà Lan, người ta cho rằng một nhóm văn minh bán định cư từng tồn tại, được gọi là tổ hợp Vlaardingen-Wartburg-Stein, có thể đã phát triển từ các nền văn minh Swifterbant và Michelsburg đề cập ở trên. Xu hướng này tiếp diễn tới cuối thời đại đồ đá mới và giai đoạn đầu thời đại đồ đồng. Trong giai đoạn cuối thời đại đồ đá mới, đã tìm được bằng chứng của các nền văn minh Đồ có sọc nổi và Chuông-Vại ở phía nam của Hà Lan, nhưng những nền văn hóa này dường như cũng không có ảnh hướng lớn trên toàn bộ nước Bỉ.
Dân số Bỉ bắt đầu tăng lên đều đặn từ cuối thời đại đồ đồng từ khoảng năm 1750 TCN. Ba nền văn minh châu Âu xuất hiện nối tiếp nhau và có thể có liên hệ trực tiếp. Đầu tiên, nền văn minh Cánh đồng bình tro cốt xuất hiện (ví dụ như các nấm mồ được tìm thấy ở Ravels và Hamont-Achel trong vùng Campine). Sau đó, khi bước vào thời đại đồ sắt là nền văn minh Hallstatt và nền văn minh La Tène. Tất cả các nền văn minh này đều có liên hệ trực tiếp với ngữ hệ Ân - Âu, đặc biệt là ngữ tộc Celt vốn có liên hệ chặt chẽ với nền văn hóa La Tène, và có thể là cả Halstatt. Điều này là do các ghi chép cổ Hy Lạp và La Mã (Roma) tại khu vực nơi nền văn minh này định cư đều ghi lại tên địa danh và tên người theo tiếng Celt.
Tuy nhiên một giả thuyết có thể xảy ra là tại Bỉ, đặc biệt là tại khu vực phía bắc, các nền văn minh Hallstatt và La Tène được tầng lớp tinh hoa mới đem tới, và có thể ngôn ngữ chính của dân cư không phải là tiếng Celt. Từ năm 500 TCN các bộ lạc người Celt định cư tại khu vực này và buôn bán với dân cư vùng Địa Trung Hải. Từ khoảng năm 150 TCN, đồng tiền xu đầu tiên được sử dụng, do ảnh hưởng từ việc giao thương với khu vực Địa Trung Hải.
Giai đoạn Celt và La Mã
phải|nhỏ|Tỉnh [[Gallia Belgica thuộc La Mã vào khoảng năm 120]] Khi Julius Caesar đến vùng này, theo như ghi chép trong cuốn De Bello Gallico, dân cư ở Bỉ, đông bắc Pháp và Rheinland của Đức được gọi là người Belgae (nước Bỉ hiện đại được đặt tên theo tộc người này), và họ được coi là nhánh phía bắc của dân tộc Gaul. (Khu vực Luxembourg, bao gồm tỉnh Luxembourg thuộc Bỉ, là nơi định cư của người Treveri, họ có thể không được coi hoàn toàn là người Belgae.). Hiện vẫn còn nhiều tranh cãi về các đặc điểm khác biệt giữa người Belgae ở phía Bắc, người Celt ở phía nam, và người Germani sống qua sông Rhine.
Caesar nói rằng người Belgae khác với những người Gaul khác về ngôn ngữ, luật lệ và phong tục, và ông cũng nói rằng họ có tổ tiên Germani, nhưng ông không đi sâu vào chi tiết. Dường như rõ ràng là văn hóa và ngôn ngữ Celt có ảnh hưởng rất mạnh đối với người Belgae, đặc biệt là những người sống tại khu vực thuộc nước Pháp hiện đại. Mặt khác, các nhà ngôn ngữ đề xuất rằng có bằng chứng về việc dân cư phía bắc nước Bỉ từng sử dụng một ngôn ngữ hệ Ấn-Âu có liên hệ song riêng biệt với nhóm Cel và German, và trong cộng đồng người Belgae phía bắc, ngữ tộc Celt có lẽ chưa bao giờ đóng vai trò ngôn ngữ phổ thông của đại đa số. Xét trên lãnh thổ nước Bỉ hiện đại, Caesar đã ghi chép lại rằng, nhóm đồng minh phía bắc của người Belgae, từ phía tây đến phía đông bao gồm người Menapii, người Nervii, and người Germani cisrhenani, là những tộc người kém phát triển hơn về kinh tế song thiện chiến hơn, tương tự như tộc người Germani phía đông sông Rhine. Người Menapii và người Germani sống trong các khu rừng gai thấp, đảo và đầm lầy; còn người Nervi sống ở khu vực trung tâm nước Bỉ cố tình trồng những hàng rào rậm rạp để ngăn không cho kị binh xâm nhập. Cũng có rất ít bằng chứng khảo cổ cho thấy các điểm định cư lớn hay các dấu hiệu giao thương tại khu vực này. Theo Tacitus, sử gia chắp bút sau đó một thế hệ, người Germani cisrhenani (bao gồm cả tộc người Eburones) trên thực tế là bộ tộc ban đầu được gọi tên Germani, và các cách dùng khác đều là biến thể từ tên gọi của bộ tộc này, mặc dù trong thời của Tacitus, bộ tộc này đã được đổi sang tên gọi là người Tungri.
Các nhà ngôn ngữ học hiện đại sử dụng từ"germanic"để chỉ các ngôn ngữ thuộc nhóm này, nhưng người ta không biết chắc liệu người _Germani _thuộc Bỉ có sử dụng nhóm ngôn ngữ German hay không, và tên của tộc người này cũng như tên riêng của người trong bộ tộc mang dấu vết của ngữ tộc Celt rất rõ ràng. Điều này cũng đúng với bộ tộc bên kia sông Rhine thời kì này, hai bộ tộc này thậm chí còn có thể liên quan trực hệ với nhau. Các nhà khảo cổ cũng khó tìm được bằng chứng về việc di cư từ phía đông sông Rhine mà Caesar đã ghi chép lại, và nói chung, người ta cũng thường nghi ngờ không sử dụng dẫn chứng từ Caesar vì các đánh giá của ông có thể có mục tiêu chính trị. Nhưng các ghi chép khảo cổ đem lại ấn tượng rằng, tộc người Germani thuộc Bỉ đã có mức dân số ổn định từ thời kì Cánh đồng bình tro cốt, với một nhóm tinh hoa mới nhập cư - nhóm này được Caesar quan tâm hơn. trái|nhỏ|Bức tường thành La Mã còn tồn tại ở [[Tongeren, trước đây là thành phố Atuatuca Tongrorum]] Người Belgae phía Tây và phía Nam phát triển rực rỡ trong khu vực tỉnh La Mã có tên gọi Gallia Belgica, cùng với người Treveri. Gallia Belgica ban đầu bao gồm sáu thủ phủ cấp vùng, bốn trong số đó ngày nay thuộc về Pháp: Nemetacum (Arras), Divodurum (Metz), Bagacum (Bavay) và Durocorturum (Reims). Một thủ phủ là Augusta Treverorum (Trier) thuộc về Đức, gần Luxembourg. Chỉ còn một phủ phủ là Atuatuca Tongrorum (Tongeren) thuộc nước Bỉ ngày nay.
Góc đông bắc của tỉnh này, bao gồm Tongeren và khu vực của người Germani trước đây, được kết hợp với biên giới quân sự dọc sông Rhine để thành lập một tỉnh mới, gọi là vùng Hạ Germania. Các thành phố thuộc vùng này bao gồm Ulpia Noviomagus (Nijmegen thuộc nước Hà Lan hiện đại), Colonia Ulpia Trajana (Xanten thuộc nước Đức hiện đại) và thủ phủ Colonia Agrippina (Köln thuộc nước Đức). Antwerpen cũng đón chào nhiều thương nhân nước ngoài, đáng chú ý nhất là các thương nhân Bồ Đào Nha buôn hạt tiêu và gia vị.
Trong nghệ thuật, thời kì Phục Hưng khu vực này có đại diện tiêu biểu là hội họa Nguyên thủy Vlaanderen, một nhóm họa sĩ hoạt động đa phần tại khu vực phía Nam các Vùng đất thấp trong thời kì từ thế kỷ thứ XV đến đầu thế kỷ XVI (ví dụ như Johannes Van Eyck và Rogier Van der Weyden), và các nhạc sĩ Pháp-Vlaanderen (ví dụ như Guillaume Dufay). Các bức tranh thảm treo tường dệt tay của Vlaanderen, và trong thế kỷ XVI và XVII là thảm treo tường Bruxelles, được treo trong các lâu đài trên khắp châu Âu. Hoàng đế La Mã Karl V ban hành Sắc lệnh năm 1549, thành lập khu vực thường được gọi dưới cái tên là Mười bảy tỉnh, hay Belgica Regia theo tên chính thống bằng tiếng Latin; khu vực này được coi là một thực thể riêng, nằm ngoài quyền của Đế quốc La Mã thần thánh cũng như của nước Pháp. Vùng này bao gồm toàn bộ nước Bỉ, vùng Đông Bắc Pháp ngày nay, Luxembourg ngày nay, và Hà Lan ngày nay, ngoại trừ khu vực Lãnh địa thân vương-giám mục Liège.
Cách mạng Hà Lan
Khu vực phía Bắc vùng Belgica Regia, bao gồm bảy tỉnh và sau này lập thành Cộng hòa Hà Lan, ngày càng ngả theo đạo Tin Lành (tức Thần học Calvin). Trong khi đó, khu vực rộng lớn hơn được gọi là 't Hof van Brabant và bao gồm mười tỉnh phía nam vẫn đa phần theo Công giáo. Sự phân giáo này, cùng với những khác biệt văn hóa khác đã tồn tại từ thời cổ đại, đã dẫn đến sự ra đời của Liên hiệp Atrecht trong khu vực Bỉ, và ngay sau đó là Liên hiệp Utrecht ở khu vực phía Bắc. Khi vua Felipe II, con trai Karl V đăng cơ làm quốc vương Tây Ban Nha, ông đã nỗ lực phế bỏ đạo Tin Lành. Nhiều vùng thuộc Belgica Regia đã khởi nghĩa, cuối cùng dẫn đến cuộc Chiến tranh Tám mươi Năm giữa Tây Ban Nha và Cộng hòa Hà Lan.
Đối với phần phía nam các Vùng đất thấp, cuộc chiến kết thúc vào năm 1585 khi Antwerpen thất thủ. Trong cùng năm đó, các tỉnh phía bắc giành độc lập trong bản Đạo luật Bội đạo (Plakkaat van Verlatinghe), cho ra đời Liên hợp bảy tỉnh Cộng hòa Hà Lan. Ông lợi dụng sự chia rẽ hàng ngũ của đối phương, giữa dân Vlaanderen nói tiếng Hà Lan và dân Wallonie nói tiếng Pháp, dùng biệt tài thuyết phục để lợi dụng sự chia rẽ và xúi giục bất đồng.
Nhờ vậy, ông đã đưa các tỉnh vùng Wallonie trở lại trung thành với quốc vương. Bằng Hiệp ước Arras năm 1579, ông bảo đảm được sự ủng hộ của 'Phe bất bình', theo như cách nói của các nhà quý tộc Công giáo của miền Nam. Bảy tỉnh phía Bắc dưới quyền kiểm soát của phái Calvin,đáp trả bằng cách lập ra Liên hiệp Utrecht, quyết tâm đoàn kết với nhau để đánh trả Tây Ban Nha. Farnese củng cố căn cứ của mình tại Hainaut và Artois, sau đó chuyển quân đánh Brabant và Vlaanderen. Các thành phố nối tiếp nhau quy hàng: Tournai, Maastricht, Breda, Brugge và Gent lần lượt phải mở cổng thành. Tranh Adoration of the Magi (1624) của [[Peter Paul Rubens|Rubens]]
Thế kỷ XVII và XVIII
Trong thế kỷ XVII, Antwerpen tiếp tục bị người Hà Lan phong toả, nhưng trở thành một trung tâm lớn của châu Âu về công nghiệp và nghệ thuật. Các bức họa baroque của Brueghels, Peter Paul Rubens và Van Dyck ra đời trong thời kì này.
Chiến tranh giữa Pháp và Cộng hòa Hà Lan
Dưới thời Louis XIV (1643-1715), nước Pháp theo đuổi chính sách bành trướng, đặc biệt ảnh hưởng mạnh tới Bỉ. Nước Pháp thường xuyên nắm quyền kiểm soát các lãnh thổ tại phía nam các Vùng đất thấp, đối đầu với rất nhiều đối thủ bao gồm Hà Lan và Áo. Đã xảy ra Chiến tranh Ủy thác (1667 - 1668), Chiến tranh Pháp-Hà Lan (1672 - 1678), Chiến tranh Tái thống nhất (1683 - 1684), và Chiến tranh Chín Năm (1688 - 1697). Các cuộc chiến tranh này được tiếp nối bằng cuộc Chiến tranh Kế vị Tây Ban Nha (1701 - 1714).
Khi Carlos II của Tây Ban Nha qua đời vào năm 1700, hai vương triều của họ hàng ở nước ngoài tranh nhau giành ngai vàng Tây Ban Nha, đó là Nhà Bourbon đang trị vì nước Pháp, và Nhà Habsburg đang nắm quyền hoàng đế của Đế quốc La Mã Thần Thánh cũng như nắm giữ nhiều vùng lãnh thổ tại khu vực Trung Âu. Nhà Habsburg của nước Áo nhận được sự ủng hộ của nhóm đồng minh dẫn đầu là Anh Quốc, Cộng hòa Hà Lan và một số nhà nước theo đạo Tin Lành khác tại khu vực Bắc Âu, còn nước Pháp được sự ủng hộ của Bayern. Đa phần các trận chiến diễn ra trên đất Bỉ, người đứng đầu quân đội liên minh tại đó là John Churchill, Công tước Marlborough thứ nhất.
Sau chiến thắng của nước Áo và các đồng minh theo Hiệp ước Rastatt, các vùng lãnh thổ thuộc Bỉ và Luxembourg ngày nay (ngoại trừ các vùng đất thuộc quyền cai quản của Thân vương-giám mục Liège) được chuyển giao cho gia tộc quân chủ Habsburg của Áo trong khi vương triều Bourbon thành công trong việc thừa kế đất Tây Ban Nha. Khu vực này được gọi tên Latin là Belgium Austriacum từ năm 1705 đến năm 1795. Louis XIV qua đời vào năm 1715.
Cách mạng Brabant
Cách mạng Bỉ trong những năm 1789-90 diễn ra trùng thời điểm với Cách mạng Pháp - bắt đầu vào năm 1789. Phong trào này đòi hỏi quyền độc lập khỏi sự cai trị của các Vùng đất thấp thuộc Áo. Quân nổi dậy Brabant dưới quyền chỉ huy của Jean-André van der Mersch đã đánh bại người Áo tại trận chiến Turnhout và thành lập Các nhà nước Bỉ Liên hiệp cùng với Lãnh địa thân vương-giám mục Liège. Quốc gia mới chia thành các bè phái, giữa phái cấp tiến"Vonckists"đứng đầu là Jan Frans Vonck và phái bảo thủ hơn là"Statists"thuộc về Henri Van der Noot. Tầng lớp thương nhân hoạt động trên diện rộng nói chung ủng hộ phái Statists, trong khi phái Vonckists thu hút các thương nhân cỡ nhỏ và thành viên của các hiệp hội thương nghiệp. Họ đòi quyền độc lập từ tay người Áo, nhưng tỏ ra bảo thủ hơn trong các vấn đề về xã hội và tôn giáo. Cho tới tháng 11 năm 1790, cuộc cách mạng đã bị dẹp lui và nền quân chủ của nhà Habsburg đã giành lại quyền lực.
Thời kì Pháp đô hộ
nhỏ|Binh lính Pháp tham gia trận chiến tại Fleurus, Bỉ trong [[Chiến tranh Cách mạng Pháp, năm 1794]] Sau các chiến dịch năm 1794 trong Chiến tranh Cách mạng Pháp, Pháp xâm chiếm và sáp nhập vùng Belgium Austriacum vào năm 1795, kết thúc thời kì cai trị của nhà Habsburg. Nước Bỉ được chia thành chín tỉnh liên hiệp (départements) và trở thành một phần chính thức thuộc Pháp. Lãnh địa thân vưong-giám mục Liège bị giải thể. Lãnh thổ vùng này được chia nhỏ, nằm trên địa phận các tỉnh (départements) Meuse-Inférieure và Ourte. Nước Áo xác nhận mất khu vực Belgium Austriacum theo Hiệp ước Campo Formio năm 1797.
Những nhà cầm quyền mới được gửi tới từ Paris. Đàn ông Bỉ bị đẩy vào các cuộc chiến tranh của Pháp và bị đánh thuế nặng. Hầu như tất cả mọi người đều theo Công giáo, nhưng giáo hội bị kiềm chế. Sự chống đối mạnh mẽ nổi lên ở mọi lĩnh vực, khi phái dân tộc chủ nghĩa của Bỉ xuất hiện và phản đối sự cai trị của nước Pháp. Tuy nhiên hệ thống luật pháp của Pháp vẫn được áp dụng, với quyền bình đẳng trước pháp luật, và việc loại bỏ phân chia giai cấp. Nước Bỉ lúc này có bộ máy chính quyền được lựa chọn theo công trạng, nhưng cách làm này không được ưa chuộng lắm.
Cho đến ngày thành lập Chế độ Tổng tài vào năm 1799, giáo hội Công giáo vẫn bị kiềm chế sát sao dưới tay người Pháp. Đại học Leuven đầu tiên bị đóng cửa vào năm 1797 và các nhà thờ bị cướp bóc. Trong thời kì đầu người Pháp cai trị, nền kinh tế Bỉ hoàn toàn tê liệt do thuế má phải trả bằng đồng vàng và bạc trong khi hàng hóa mà người Pháp mua lại được trả bằng đồng tiền assignat hầu như vô giá trị. Trong thời kì bóc lột có hệ thống này, khoảng 800.000 người Bỉ đào thoát khỏi miền nam các Vùng đất thấp. Cuộc chiếm đóng của người Pháp tại Bỉ dẫn đến việc chèn ép ngôn ngữ Hà Lan hơn nữa trên toàn quốc, bao gồm việc loại bỏ tiếng Hà Lan khỏi vai trò ngôn ngữ hành chính. Với khẩu hiệu"một quốc gia, một ngôn ngữ", tiếng Pháp trở thành ngôn ngữ duy nhất được chấp nhận trong đời sống công cộng, những như trong các hoạt động kinh tế, chính trị và xã hội.
Các biện pháp của chính phủ Pháp kế nhiệm, đặc biệt là chế độ cưỡng ép tòng quân hàng loạt vào năm 1798 cho quân đội Pháp bị khiến dân chúng phẫn uất ở khắp mọi nơi, đặc biệt là các vùng thuộc Vlaanderen, nơi chế độ hà khắc này đã kích nổ cuộc Chiến tranh Nông dân. Cuộc đàn áp tàn bạo đối với Chiến tranh Nông dân đã đánh dấu bước khởi đầu cho Phong trào Vlaanderen hiện đại.
Vào năm 1814, quân đội Đồng Minh đã đánh đuổi Napoléon và chấm dứt thời kì Pháp cai trị. Kế hoạch ban đầu là kết hợp Bỉ và Hà Lan dưới quyền kiểm soát của Hà Lan. Napoléon chớp nhoáng quay lại nắm quyền với triều đại Một Trăm Ngày vào năm 1815, nhưng hoàn toàn bị đánh bại tại trận chiến Waterloo, phía Nam Bruxelles.
Kinh tế
Nước Pháp xúc tiến thương mại và chủ nghĩa tư bản, dọn đường cho giai cấp tư sản và nhanh chóng phát triển các ngành sản xuất và khai khoáng. Do đó, về mặt kinh tế, tầng lớp quý tộc suy yếu dần trong khi tầng lớp thương nhân trung lưu tại Bỉ thịnh vượng do có cơ hội tham gia vào thị trường lớn, mở đường cho vai trò tiên phong của nước Bỉ sau năm 1815 trong cuộc cách mạng công nghiệp trên toàn châu lục.
Godechot nhận ra rằng sau khi sáp nhập, cộng đồng doanh nhân của Bỉ ủng hộ chế độ mới, không giống như tầng lớp nông dân giữ thái độ thù nghịch. Việc sáp nhập mở ra các thị trường mới tại Pháp để trao đổi buôn bán len và các mặt hàng khác từ Bỉ. Các chủ ngân hàng và thương nhân giúp đầu tư về tài chính và tiếp vận cho quân đội Pháp. Người Pháp xóa bỏ lệnh cấm thương mại đường thủy trên sông Scheldt do Hà Lan ban hành trước đây. Thành phố Antwerpen nhanh chóng trở thành một cảng biển lớn của nước Pháp với mậu dịch thế giới. Đồng thời Bruxelles cũng phát triển.
Vương quốc Liên hiệp Hà Lan
Sau thất bại của Napoléon trong trận Waterloo vào năm 1815, các đại cường quốc trong phe chiến thắng (Anh, Áo, Phổ và Nga) cùng đồng thuận tại Đại hội Wien về việc sáp nhập khu vực Belgium Austriacum trước đây với khu vực Liên hợp Bảy Tỉnh trước đây, lập nên Vương quốc Liên hiệp Hà Lan, để giữ vai trò là quốc gia vùng đệm chống lại các cuộc xâm lược của Pháp có thể xảy ra trong tương lai. Quốc gia này được đặt dưới quyền cai trị của một nhà vua theo đạo Tin Lành là Willem I. Hầu hết các nhà nước nhỏ và thần quyền nằm trong Đế quốc La Mã thần thánh đều được trao lại cho các nhà nước lớn hơn trong thời kì này, điều này cũng bao hàm việc Lãnh địa thân vương-giám mục Liège nay trở thành một bộ phận chính thức của Vương quốc Liên hiệp Hà Lan.
Willem I là một vị vua theo chế độ quân chủ chuyên chế thời kì Khai sáng, nắm quyền hành từ năm 1815 đến năm 1840 và gần như có quyền hành pháp vô hạn, Hiến pháp được viết bởi các nhà quý tộc do ông lựa chọn. Là một vị vua chuyên chế nên ông không gặp bất cứ khó khăn trong việc chấp thuận một số thay đổi bắt nguồn từ biến đổi xã hội 25 năm trước, bao gồm quyền bình đẳng của tất cả mọi người trước pháp luật. Tuy nhiên, ông phục hồi hệ thống đẳng cấp xã hội dưới hình thức tầng lớp chính trị, và đưa nhiều người lên tầng lớp quý tộc. Quyền bầu cử vẫn bị giới hạn, và chỉ có những người thuộc tầng lớp quý tộc mới có quyền được ứng cử hay đề cử vào Thượng nghị viện.
Willem I theo thuyết thần học Calvin và không dễ dàng chấp nhận việc đa số người dân theo Công giáo trong Vương quốc Liên hiệp Hà Lan mới thành lập này. Ông công bố"Bộ luật cơ bản của Hà Lan", trong đó một số điều luật được cải biên. Bộ luật mới này hoàn toàn lật đổ trật tự vốn có tại phía nam các Vùng đất thấp, đàn áp giới tăng lữ theo lệnh, loại bỏ đặc quyền của giáo hội Công giáo, bảo đảm mọi tín ngưỡng tôn giáo đều có quyền được bảo vệ như nhau, cũng như bảo đảm quyền dân sự và chính trị công bằng cho mọi thần dân của nhà vua. Hành động này phản ánh tinh thần của cuộc Cách mạng Pháp, và các linh mục Công giáo ở miền Nam không hài lòng khi nhà vua làm điều này, họ vốn đã ghét Cách mạng Pháp.
Willem I chủ động khuyến khích hiện đại hóa nền kinh tế. Tuy nhiên, vị trí của ông trong vai trò một vị quốc vương có những mâu thuẫn tư tưởng nhất định; ông thực sự nắm trong tay quyền tối cao, nhưng quyền lực của ông lại được chia sẻ với một cơ quan lập pháp được bầu cử, một phần do nhà vua và một phần do các công dân giàu có thực hiện, tuân thủ dưới một Hiến pháp do đích thân nhà vua đưa ra. Chính phủ nằm trong tay các bộ trưởng quốc gia. Các tỉnh cũ chỉ được thành lập lại theo tên cũ mà thôi. Chính phủ hiện nay về bản chất là đơn nhất, và tuân theo quyền lực ban ra từ trung ương. 15 năm đầu tiên từ khi vương quốc thành lập, đã có nhiều tiến bộ và thành tựu, như quá trình công nghiệp hóa phát triển nhanh chóng ở phía nam, tại đó cuộc cách mạng công nghiệp cho phép các thương nhân và lực lượng lao động kết hợp trong ngành công nghiệp dệt mới, sử dụng năng lượng từ các mỏ than đá tại địa phương. Chỉ có rất ít hoạt động công nghiệp ở các tỉnh phía bắc, nhưng hầu hết các thuộc địa ở nước ngoài đều đã được giành lại, và ngành thương nghiệp lợi nhuận cao đã được phục hồi sau 25 năm gián đoạn. Tự do kinh tế kết hợp với chủ nghĩa độc tài quân chủ ôn hoà đẩy nhanh tốc độ hội nhập của Hà Lan trước tình hình mới trong thế kỷ XIX. Đất nước này phát triển thịnh vượng cho đến khi khủng hoảng nổ ra liên quan đến các tỉnh phía nam.
Bất ổn tại các tỉnh phía nam
Những người theo đạo Tin Lành nắm quyền kiểm soát quốc gia mới thành lập này, mặc dù họ chỉ chiếm một phần tư dân số. Trên lý tuyết, những người theo Công giáo có đầy đủ các quyền theo pháp luật, nhưng trên thực tế tiếng nói của họ không ai để tâm. Chỉ một số ít người theo Công giáo nắm vị trí cao trong nhà nước hoặc quân đội. Nhà vua đòi hỏi các trường ở phía nam ngừng dạy các học thuyết Công giáo theo như truyền thống vốn có, bất chấp việc tất cả mọi người tại đó đều theo Công giáo. Về mặt xã hội, người Wallonie nói tiếng Pháp phẫn uất mạnh mẽ trước chính sách của nhà vua đặt tiếng Hà Lan là ngôn ngữ chính thức của chính phủ. Cũng có làn sóng bất mãn ngày càng tăng do nhà vua đã không nhạy cảm đối với trong những khác biệt trong xã hội. Theo nhà sử học Schama, đã xuất hiện thái độ thù nghịch ngày càng tăng đối với chính phủ Hà Lan,"ban đầu họ thực hiện các sáng kiến một cách hiếu kì, sau đó là lo sợ và cuối cùng là với thái độ hung bạo và thù địch không thể chối cãi".
Sự tự do chính trị ở phía Nam cũng tạo nên mối bất bình riêng, đặc biệt đối với phương pháp thực hiện mang tính độc tài của nhà vua, ông dường như không quan tâm đến vấn đề vùng miền, mà chỉ thẳng tay bác bỏ đề xuất xây dựng trường đào tạo giáo viên dạy tiếng Pháp ở khu vực Liège nói tiếng Pháp. Cuối cùng, tất cả các khu vực miền nam đều phàn nàn về những bất công trong việc đề cử đại diện tại các cơ quan lập pháp quốc gia. Miền nam thực hiện công nghiệp hóa nhanh hơn và giàu có hơn miền mắc, dẫn đến bức xúc về thái độ cao ngạo và sức chi phối chính trị của miền Bắc.
Cuộc bùng nổ Cách mạng tháng Bảy tại Pháp vào năm 1830 trở thành dấu hiệu cho khởi nghĩa. Ban đầu mục đích của khởi nghĩa là để giành lại quyền tự trị cho nước Bỉ, theo như cách người ta gọi các tỉnh miền Nam ngày nay. Và cuối cùng, phe cách mạng bắt đầu đòi hỏi quyền được độc lập hoàn toàn.
Thời kì độc lập
phải|nhỏ|Chương Cách mạng Bỉ năm 1830, tác phẩm của Egide Charles Gustave Wappers (1834), tại bảo tàng Nghệ thuật Cổ đại tại [[Bruxelles]] Cuộc Cách mạng Bỉ nổ ra vào tháng 8 năm 1830 khi đám đông bị kích động bởi màn trình diễn của Auber, mang tên La Muette de Portici tại nhà hát opera _La Monnaie _tại Bruxelles, họ tràn ra đường phố và hát những bài ca ái quốc. Những trận ẩu đả bạo lực trên đường phố nổ ra nhanh chóng, khi tình trạng vô chính phủ bao trùm Bruxelles. Phe tư bản tự do ban đầu đi đầu trong cuộc cách mạng chớm nở, nay thất kinh trước cảnh bạo lực và sẵn sàng thỏa hiệp với phía Hà Lan.
Cuộc Cách mạng nổ ra do một số lý do. Trên phương diện chính trị, người dân Bỉ cảm thấy rõ ràng họ không có đủ quyền đại diện khi bầu cử Hạ viện tại Hà Lan và không ưa Thân vương xứ Oranje (sau là Willem II của Hà Lan) vón là đại diện của Willem I tại Bruxelles. Người Wallonie nói tiếng Pháp cũng cảm thấy như bị khai trừ khỏi một quốc gia đa số nói tiếng Hà Lan. Đồng thời cũng có những mối bất bình đáng kể về tôn giáo trong cộng đồng người Bỉ theo Công giáo trong một quốc gia bị kiểm soát bởi người Hà Lan theo đạo Tin Lành.
Nhà vua cho rằng cuộc chống đối sẽ tự động chìm đi. Ông đợi cho phe đối phương đầu hàng, tuyên bố ân xá cho tất cả những người tham gia cách mạng, chỉ trừ người ngoại quốc và những kẻ cầm đầu. Khi biện pháp này không hiệu quả, ông bắt đầu đưa quân đội vào. Quân đội Hà Lan đã lọt được qua Cổng thành Schaerbeek và tiến vào Bruxelles, nhưng đội quân tiên phong đã bị chặn lại tại Công viên Bruxelles dưới làn đạn bắn tỉa. Quân đội hoàng gia ở những khu vực khác cũng gặp phải sự chống chọi quyết liệt của đội quân cách mạng tại các điểm phòng thủ tạm thời. Theo dự đoán, chỉ có không hơn 1.700 quân khởi nghĩa (theo miêu tả của Đại sứ Pháp là một đám"hỗn tạp vô tổ chức"
Phe tư bản theo chủ nghĩa tự do đã bị đẩy ra khỏi thế cân bằng ngay từ giai đoạn đầu của cuộc khởi nghĩa, nay thành lập một chính phủ lâm thời dưới quyền của Charles Rogier để điều đình với người Hà Lan, chính thức tuyên bố độc lập cho nước Bỉ vào ngày 4 tháng 10 năm 1830. Đại hội quốc dân Bỉ được lập nên để lập ra Hiến pháp. Dưới hiến pháp mới, nước Bỉ là một quốc gia độc lập, có chủ quyền, dưới chế độ quân chủ lập hiến. Tuy nhiên, Hiến pháp đã giới hạn đáng kể quyền bầu cử chỉ trong tầng lớp đại tư bản nói tiếng Pháp, và giới tăng lữ, dù tiếng Pháp không phải ngôn ngữ của đa số dân chúng. Giáo hội Công giáo đã giành được tự do đáng kể, thoát khỏi sự can thiệp của nhà nước.
Cuộc chiến với Hà Lan kéo dài thêm tám năm nữa, nhưng vào năm 1839 hai nước đã kí Hiệp ước London. Theo Hiệp ước 1839, Luxembourg không thuộc về nước Bỉ, mà vẫn thuộc quyền sở hữu của Hà Lan cho tới khi do khác biệt về luật thừa kế khiến Luxembourg trở thành một Đại Công quốc độc lập. Bỉ cũng mất vùng Đông Limburg, Zeeuws Vlaanderen và Flanders thuộc Pháp cùng Eupen: bốn vùng lãnh thổ mà Bỉ coi là có bằng chứng quyền sở hữu trong lịch sử. Hà Lan giữ lại hai vùng được nhắc đến ban đầu, trong khi vùng Vlaanderen thuộc Pháp - vốn được sáp nhập vào thời vua Louis XIV vẫn nằm trong quyền sở hữu của Pháp, và vùng Eupen vẫn thuộc về Bang liên Đức, song sau này sẽ được chuyển qua cho Bỉ để bồi thường sau Chiến tranh thế giới thứ nhất.
Tại Hội nghị London, Anh cũng bảo đảm nước Bỉ sẽ giữ thế trung lập, đây là biện minh của Anh trong việc tham gia vào Chiến tranh thế giới thứ nhất.
Từ thời kì độc lập đến Thế chiến thứ nhất
Cách mạng công nghiệp
nhỏ|Tranh vẽ cảnh sản xuất thép tại Ougrée, tác phẩm của nghệ sĩ nổi tiếng thế kỷ XIX Constantin Meunier Hầu hết xã hội Bỉ có tính truyền thống cao độ, đặc biệt là ở các làng nhỏ và khu vực nông thôn, và chất lượng giáo dục ở mức thấp. Ít người kì vọng rằng nước Bỉ, một pháo đài bảo vệ truyền thống vốn ì trệ và là nơi văn hóa ngủ yên, lại có thể tiên phong cuộc cách mạng công nghiệp trên toàn châu lục. Tuy nhiên, nước Bỉ trở thành nước đứng thứ hai sau Anh tiến hành cách mạng công nghiệp, tạo bước đà vận động cho toàn châu Âu, trong khi bỏ lại Hà Lan tụt hậu phía sau.
Công nghiệp hóa diễn ra tại vùng Wallonie (vùng nói tiếng Pháp ở phía Nam của Bỉ), bắt đầu từ giữa thập niên 1820, và đặc biệt là từ sau năm 1830. Than đá ở vùng này có sẵn và rẻ, đây là yếu tố chính thu hút các doanh nhân. Nhiều công xưởng như lò cao luyện than cốc, cũng như lò luyện gang pútdlinh và xưởng cán thép, được xây dựng ở các vùng khai thác than quanh khu vực Liège và Charleroi. Đi đầu trong quá trình này là một người Anh nhập cư tên là John Cockerill. Các nhà máy của ông tại Seraing tích hợp tất cả các giai đoạn sản xuất, từ nghiên cứu thiết kế kĩ thuật, tới cung cấp nguyên liệu thô, ngay từ năm 1825.
Công nghiệp lan rộng tới Sillon industriel ("vùng công nghiệp hóa"), các thung lũng sông Haine, Sambre và Meuse. Tới năm 1830 khi sắt trở nên quan trọng trong công nghiệp, thì ngành công nghiệp than của Bỉ đã được thiết lập vững chắc từ lâu, và sử dụng động cơ hơi nước để bơm. Than đá được bán cho các xưởng và các công ty xe lửa tại địa phương, đồng thời cũng xuất khẩu cho Pháp và Phổ.
Ngành công nghiệp dệt dựa vào vải sợi bông và lanh, cung cấp việc làm cho một nửa lực lượng lao động ngành công nghiệp trong suốt thời kì công nghiệp hóa. Gent là thành phố công nghiệp đứng đầu tại Bỉ cho tới tận thập niên 1880, khi trung tâm phát triển chuyển đến Liège, với ngành công nghiệp thép đặt tại vùng này.
Wallonie có nhiều mỏ than đá giàu trữ lượng trên nhiều khu vực tại vùng này, và các lớp than đá gấp khúc tự nhiên, nghĩa là có thể tìm thấy than ở tương đối nông. Ban đầu không cần tới các mỏ than sâu, do đó có rất nhiều các hoạt động nhỏ. Tồn tại hệ thống luật phức tạp để nhượng quyền, thông thường nhiều lớp than sẽ có nhiều chủ khác nhau. Về sau các doanh nhân bắt đầu khai thác sâu dần thêm (nhờ sáng chế máy bơm hơi nước). Vào năm 1790, mỏ than có độ sâu lớn nhất là 220 m. Tới năm 1856, độ sâu trung bình tại khu vực phía tây của Mons đã là 361 m, vào năm 1866 thì lên tới 437 m và một số hố khai thác đã chạm tới các mức 700 và 900 m; một hố đã xuống tới độ sâu 1.065 m, có lẽ là mỏ than đá sâu nhất tại châu Âu thời bấy giờ. Nổ khí ga hầm lò là vấn đề hết sức nghiêm trọng, và nước Bỉ có tỉ lệ tử nạn cao. Cho tới cuối thế kỷ XIX, các lớp than đã cạn kiệt và ngành công nghiệp thép phải nhập khẩu một phần than từ vùng Ruhr.
Than giá rẻ và sẵn tiện đã thu hút nhiều công xưởng sản xuất kim loại và thủy tinh, cả hai ngành này đều cần một lượng lớn than đá, nên khu vực xung quanh các mỏ than trở thành khu công nghiệp lớn. Khu vực Sillon industriel (Thung lũng công nghiệp), và đặc biệt là vùng Pays Noir (xứ đen) quanh Charleroi, là trung tâm ngành thép cho đến tận Chiến tranh thế giới thứ hai.
Đường sắt
phải|nhỏ|Đầu máy xe lửa chạy hơi nước đầu tiên do Bỉ sản xuất, có tên gọi "The Belgian"- Người Bỉ ("Le Belge") được làm ra vào năm 1835 Nước Bỉ là mô hình tiêu biểu cho thấy giá trị của việc sử dụng đường sắt để tăng tốc cho cách mạng công nghiệp. Sau năm 1830, quốc gia mới thành lập quyết định khuyến khích phát triển công nghiệp. Nhà nước đầu tư một hệ thống đường sắt vắt chéo, nối liền các thành phố, bến cảng và các khu vực khai mỏ lớn, và nối sang các nước láng giềng. Nước Bỉ do đó trở thành trung tâm đường sắt của khu vực này. Hệ thống này được xây dựng cực kì chất lượng theo tiêu chuẩn của Anh, do đó lợi nhuận và lương ở mức thấp thấp, nhưng hệ thống cơ sở hạ tầng cần thiết cho việc phát triển công nghiệp nhanh chóng được hoàn thiện. Léopold I cho xây dựng tuyến đường sắt đầu tiên tại lục địa châu Âu vào năm 1835, nối giữa Bruxelles và Mechelen. Toa tàu đầu tiên sử dụng đồng cơ Stephenson nhập khẩu từ Anh. Việc phát triển các đường ray xe lửa nhỏ hơn trên toàn nước Bỉ, đặc biệt là tuyến đường Liège-Jemappes, được khởi công với việc đấu thầu hợp đồng cho các công ty tư nhân,"trở thành hình mẫu cho việc mở rộng đường sắt địa phương trên toàn các vùng đất thấp".
Tới thập niên 1900, Bỉ là quốc gia xuất khẩu lớn về tàu điện và các thiết bị đường sắt khác, cũng như một lượng lớn các nguyên liệu cho ngành đường sắt. Tại Nam Mỹ, 3.800 km đường ray nằm dưới quyền sở hữu của các công ty Bỉ, cùng với hơn 1.500 km tại Trung Quốc.
Các doanh nghiệp quan trọng khác bao gồm Cockerill-Sambre (thép), các nhà máy hóa chất của Ernest Solvay, và công ty sản xuất súng cầm tay Fabrique Nationale de Herstal.
Chủ nghĩa tự do và Công giáo
Nền chính trị Bỉ theo lời của Clark"bị khuynh đảo bởi cuộc đối đầu giữa hai nhóm chính trị, được biết đến với tên phe Công giáo và phe chủ nghĩa tự do. Nói một cách bao quát nhất, những người theo Công giáo đại diện cho các thành phần khá sùng đạo, bảo thủ và nông thôn trong xã hội, trong khi những người theo chủ nghĩa tự do đại diện cho các thành phần trung lưu thế tục hơn, tiến bộ hơn, và thành thị hơn". Trước khi chủ nghĩa xã hội du nhập trong thập niên 1890, cả đất nước gần như phân đôi giữa Đảng Công giáo bảo thủ và Đảng Tự do thế tục. Những người theo chủ nghĩa tự do chống đối lại giáo hội và muốn giảm thiểu quyền lực của Nhà thờ. Mâu thuẫn lên tới đỉnh điểm trong giai đoạn"Chiến tranh Học đường lần thứ Nhất"giai đoạn 1879-1884, khi đó phe Tự do cố gắng bổ sung quan điểm thế tục nhiều hơn trong giáo dục tiểu học và phe Công giáo bị phản pháo kịch liệt. Chiến tranh Học đường lần thứ Nhất mở ra một giai đoạn Đảng Công giáo chiếm ưu thế trong nền chính trị Bỉ. Giai đoạn này kéo dài gần như liên tục cho tới tận năm 1917.
Mâu thuẫn tôn giáo cũng lan rộng tới cả giáo dục đại học, khi các trường đại học thế tục như Đại học Tự do Bruxelles cạnh tranh với các trường Công giáo như trường Đại học Công giáo Leuven.
Mâu thuẫn về ngôn ngữ
Đại đa số người dân sống ở phía Bắc nước Bỉ nói tiếng Hà Lan và các ngôn ngữ vùng Hạ Franconia khác, trong khi những người sống ở phía Nam sử dụng phương ngữ miền Bắc nước Pháp (langues d'oïl) ví dụ như tiếng Pháp, tiếng Wallonie và tiếng Picard. Tiếng Pháp trở thành ngôn ngữ chính thống của chính phủ sau khi chính thức tách khỏi Hà Lan vào năm 1830 và đời sống văn hóa của Bỉ bị chi phối đặc biệt từ ảnh hưởng của Pháp, điều này càng được củng cố vì miền Nam đẩy mạnh công nghiệp hóa và vượt trội về kinh tế. Tiếng Vlaanderen bị"giáng cấp xuống chỉ còn tiếng nói của với một nền văn hóa hạng hai". Một bộ phận dân chúng Vlaanderen phản ứng lại trước tình trạng này, cảm thấy bất bình trước sự bất công bằng giữa ngôn ngữ của mình so với tiếng Pháp. Điều này xảy ra một phần là do bản sắc Vlaanderen định hình và phát triển, khi người dân ngày một nhận thức rõ rệt hơn về văn hóa và lịch sử Vlaanderen từ những năm 1840. Các chiến thắng của Vlaanderen, ví dụ như trận chiến Đinh thúc ngựa vàng vào năm 1302 được làm lễ kỉ niệm, và một phong trào văn hóa Vlaanderen đã ra đời, đi đầu là các danh nhân như Hendrik Conscience. Vào khoảng cùng giai đoạn đó, một phong trào văn hóa vùng Wallonie cũng xuất hiện, dưới sự lãnh đạo của Jules Destrée (1863-1936) và dựa trên lòng trung thành với ngôn ngữ tiếng Pháp. Phổ thông đầu phiếu sẽ khiến cộng đồng Pháp ngữ trở thành một nhóm thiểu số về chính trị, do đó phong trào văn hóa Wallonie tập trung vào việc bảo vệ ngôn ngữ Pháp tại khu vực nơi dân cư nói tiếng Pháp chiếm đa số, và không tranh luận việc mở rộng sử dụng tiếng Hà Lan tại các vùng nói tiếng Vlaanderen.
Vlaanderen đã đạt được mục tiêu về bình đẳng ngôn ngữ, (đặc biệt là tại trường học và tòa án) khi yêu cầu thông qua và ban hành một loạt các điều khoản luật vào những năm 1920 và 1930. Tiếng Hà Lan trở thành ngôn ngữ của chính phủ, giáo dục và tòa án tại các tỉnh phía Bắc, bao gồm Oost-Vlaanderen và West-Vlaanderen, Antwerpen, Limburg, và phía Đông Brabant. Tiếng Pháp vẫn là ngôn ngữ chính thức tại vùng Wallonie; còn Bruxelles từng trải qua một cuộc chuyển đổi lớn về ngôn ngữ sang tiếng Pháp, nay chính thức trở thành khu vực song ngữ. Trong khi đó, một phong trào ly khai nhỏ tại Vlaanderen đã xuất hiện; và người Đức đã ủng hộ phong trào này trong chiến tranh, và tới những năm 1930 phong trào chuyển sang xu hướng phát xít. Trong Chiến tranh thế giới thứ Hai, phong trào này đã cộng tác với Phát xít Đức.
Nước Bỉ không phải quốc gia tham chiến trong Chiến tranh Pháp-Phổ 1870–71, nhưng lại ở rất gần khu vực chiến tranh nên quân đội Bỉ được động viên. Tuy nhiên thỏa thuận quốc tế năm 1839 nhằm bảo đảm nước Bỉ giữ thế trung lập vẫn chưa bị xâm phạm.
Sau xung đột này, đã có những cuộc thảo luận về hiện đại hóa quân đội. Hệ thống Thay thế (với hệ thống này, những người Bỉ giàu có khi bị gọi đi lính có thể trả tiền thay thế) đã bị xóa bỏ và thực thi một hệ thống nghĩa vụ quân sự cải tiến hơn. Những cải tiến này dưới sự lãnh đạo của Jules d'Anethan dưới sức ép từ vua Léopold II, đã chia rẽ nền chính trị của Bỉ. Những người theo Công giáo hợp nhất với phe theo chủ nghĩa Tự do dưới trướng của Frère-Orban để phản đối những thay đổi này, và cuộc cải tổ cuối cùng đã thất bại khi chính phủ dưới quyền d'Anethan sụp đổ do một vụ bê bối không liên quan. Và cuối cùng quân đội cũng được cải tổ. Hệ thống năm 1909 tiến hành nghĩa vụ quân sự bắt buộc kéo dài tám năm đối với phục vụ tại ngũ, và năm năm đối với lực lượng dự bị. Hệ thống này khiến quân đội của Bỉ tăng vọt lên tới hơn 100.000 quân được huấn luyện tốt. Đảng Công nhân Bỉ được thành lập vào năm 1885 tại Bruxelles. Đảng này ban hành Hiến chương Quaregnon vào năm 1894 kêu gọi kết thúc chủ nghĩa tư bản và thực hiện cải tổ triệt để toàn xã hội. Tuy Đảng Công nhân Bỉ không được bầu vào chính phủ cho tới tận cuối thế kỷ XX, song Đảng đã gây ra áp lực đáng kể lên các tiến trình chính trị, thông qua việc trực tiếp tham gia vào các hoạt động chính trị, đồng thời cũng thông qua việc tổ chức các cuộc tổng bãi công.
Trong giai đoạn cuối thế kỷ XIX, các cuộc Tổng bãi công trở thành một khía cạnh tất yếu của tiến trình chính trị. Bắt đầu từ năm 1892 cho tới năm 1961, đã có 20 cuộc bãi công lớn, trong đó có 7 cuộc tổng bãi công. Trong số đó rất nhiều cuộc bãi công có mục tiêu chính trị rõ ràng, ví dụ như cuộc Tổng bãi công năm 1893 đã giúp giành được quyền phổ thông đầu phiếu.
Trong một vài trường hợp, các cuộc Tổng bãi công tại Bỉ leo thang và biến thành bạo lực. Vào năm 1893, binh lính đã xả súng vào đám đông biểu tình và làm thiệt mạng một số người. Karl Marx đã viết,"Có tồn tại một và chỉ một quốc gia trên thế giới văn minh, tại đó mỗi cuộc biểu tình đều nhiệt thành và vui tươi song trở thành cái cớ để chính quyền tàn sát tầng lớp lao động. Đất nước duy nhất được ban phúc lành như vậy chính là nước Bỉ!"
Tuy nhiên, nước Bỉ xây dựng hệ thống phúc lợi xã hội đặc biệt sớm, một phần là do các công đoàn. Đã đặt ra luật trả tiền bồi thường khi bị ốm vào năm 1894, bảo hiểm hưu trí tự nguyện vào năm 1900 và bảo hiểm thất nghiệp vào năm 1907, được thực hiện phổ biến trên toàn quốc nhanh hơn nhiều so với các nước láng giềng.
Quyền bầu cử
phải|nhỏ|Bức tranh"Xả súng tại Mons"trong cuộc biểu tình năm 1893 khi người Borains bị đội quân Bảo vệ dân sự Garde Civique xả súng trong khi biểu tình ủng hộ bỏ phiếu phổ thông. Vào năm 1893 chính phủ từ chối đề xuất bỏ phiếu phổ thông cho các công dân nam. Cảm thấy bị xúc phạm, Công đảng Bỉ dẫn đầu một cuộc Tổng Bãi Công; cho tới ngày 17 tháng 4, đã có hơn 50.000 người tham gia bãi công. Những cuộc đối đầu bạo lực nổ ra với Vệ binh dân sự Garde Civique trên toàn quốc, ví dụ như tại Mons, ở đó một số người tham gia bãi công đã thiệt mạng. Bạo lực ngày một leo thang. Chính phủ nhanh chóng lùi bước, và thông qua việc bỏ phiếu phổ thông, nhưng làm giảm sức ảnh hưởng của cuộc bỏ phiếu bằng cách tạo ra các lá phiếu bổ sung dựa vào tài sản sở hữu, trình độ giáo dục và tuổi tác. Những người Công giáo bảo thù chiếm 68% số ghế vẫn nắm giữ quyền lực, trong khi những người theo chủ nghĩa tự do giảm còn 13% số ghế, và những người theo chủ nghĩa xã hội nắm phần còn lại.
Giống như nhiều quốc gia khác, quyền bỏ phiếu của phụ nữ được ban hành sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, tuy nhiên tại Bỉ, những giới hạn cuối cùng chỉ được xóa bỏ vào năm 1948.
Văn hóa
Văn hóa nghệ thuật và văn học tại Bỉ bắt đầu sôi động trở lại vào thế kỷ XIX. Đặc biệt là tại khu vực Wallonie với phong trào văn học và phê bình nghệ thuật tiếng Pháp mới La Jeune Belgique.
Một thành phần cốt yếu của chủ nghĩa dân tộc của Bỉ là quá trình nghiên cứu khoa học về lịch sử quốc gia. Phong trào này được lãnh đạo bởi Godefroid Kurth (1847-1916), một sinh viên của nhà sử học người Đức Ranke. Kurth giảng dạy phương pháp tiếp cận lịch sử hiện đại cho sinh viên của mình tại Đại học Liège. Nhà sử học lỗi lạc nhất của nước Bỉ là Henri Pirenne (1862-1935), người đã chịu ảnh hưởng của phương pháp này khi còn là sinh viên của Kurth.
phải|nhỏ|Cổng Cinquantenaire, xây dựng năm 1905 Cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, những công trình đồ sộ quy mô lớn theo chủ nghĩa lịch sử và trường phái tân cổ điển chiếm trọn cảnh quan đô thị tại Bỉ, đặc biệt là các tòa nhà chính phủ, trong khoảng thời gian giữa những năm 1860 và những năm 1890. Được bảo hộ một phần bởi nhà vua Léopold II (vốn được biết đến với cái tên"vua xây dựng"), phong cách này xuất hiện tại Dinh Tư pháp - Palais de Justice (được thiết kế bởi Joseph Poelaert) và cổng Cinquantenaire, cả hai công trình này đều tồn tại ở Bruxelles.
Tuy nhiên, Bruxelles trở thành một trong các thành phố lớn của châu Âu đối với phát triển phong cách Art Nouveau vào cuối thập niên 1890. Các kiến trúc sư như Victor Horta, Paul Hankar, và Henry van de Velde trở nên đặc biệt nổi tiếng nhờ các thiết kế của họ, phần nhiều trong số đó vẫn tồn tại đến ngày nay ở Bruxelles. Bốn toà nhà do Horta thiết kế được liệt kê trong danh sách các di sản thế giới của UNESCO. Tuy vật, tác phẩm vĩ đại nhất của Horta là Maison du Peuple bị phá hủy vào năm 1960.
Đế quốc Bỉ
Stanard bác bỏ quan điểm thông thường của nhiều người, cho rằng nước Bỉ là"Đế quốc bất đắc dĩ". Ông lập luận rằng"người dân bình thường dần trở nên hiểu và ủng hộ thuộc địa. Người Bỉ không chỉ ủng hộ đế chế một cách rõ rệt, mà nhiều người còn theo chủ nghĩa đế quốc toàn tòng, với bằng chứng là đã có rất nhiều chiến dịch tuyên truyền ủng hộ Congo được biết đến rộng rãi, kéo dài và được đón nhận nồng nhiệt".
nhỏ|Tranh biếm họa của Anh năm 1906 có tên gọi Punch, miêu tả vua [[Leopold II (vua Bỉ)|Leopold II là một con rắn bằng cao su đang quấn lấy người đàn ông Congo]] : Bài viết chính: Nhà nước Tự do Congo và Congo thuôc Bỉ Tại Hội nghị Berlin năm 1884–1885, Congo được trao hoàn toàn vào tay vua Léopold II của Bỉ, ông đặt tên lãnh địa là Nhà nước Tự do Congo, với mục tiêu ban đầu là trở thành khu vực mậu dịch tự do quốc tế, mở cửa cho tất cả các thương gia châu Âu. Nhà vua Léopold là cổ đông chính của Công ty thương mại Bỉ, có trụ sở thương mại tại khu vực Hạ Congo trong giai đoạn giữa năm 1879 và 1884. Cuối cùng quyền lực được chuyển giao cho nước Bỉ vào năm 1908, dưới áp lực nặng nề của công luận quốc tế sau khi có nhiều báo cáo về việc sai phạm và lạm dụng người lao động bản xứ. Lãnh thổ Congo rộng gần 2,4 triệu km², lớn hơn 80 lần diện tích nước Bỉ. Các dự án phát triển đầu tiên diễn ra trong giai đoạn Nhà nước Tự do, như đường ray xe lửa chạy từ Léopoldville tới bờ biển, mất tới vài năm để hoàn thành.
Giai đoạn Nhà nước Tự do Congo mang nhiều tai tiếng, nhất là về các vụ tàn sát bạo lực diễn ra dưới thời kì này. Nhà nước này ở vị thế là một nhà kinh doanh, (quốc gia được điều hành bởi một công ty tư nhân do chính Leopold sở hữu), do đó nhà nước nhắm tới kiếm được càng nhiều tiền càng tốt từ việc xuất khẩu hàng thô từ lãnh địa. Tài sản cá nhân của vua Leopold đã tăng lên đáng kể nhờ việc thu nhập từ cao su tại Congo, trước đây mặt hàng này chưa từng được sản xuất hàng loạt với số lượng lớn như vậy, để phục vụ cho thị trường lốp xe đang nổi lên nhanh chóng. Trong suốt giai đoạn 1885-1908, đã có tới tám triệu người Congo chết do bị bóc lột và bệnh tật trong khi tỉ lệ sinh cũng sụt giảm. Tuy nhiên những ước tính này chỉ là đại khái, và không có con số chính thức nào cho thời kì đó.
Để thực hiện luật hạn ngạch cao su, tổ chức Force Publique (FP) được thành lập. Mặc dù tổ chức Force Publique trên danh nghĩa là lực lượng quân đội (lực lượng này sau này sẽ tham gia chiến đấu cả trong Chiến tranh thế giới thứ nhất và thứ nhất), song vào thời kì Nhà nước tự do Congo thì nhiệm vụ chính của lực lượng này là áp đặt luật hạn ngạch cao su tại các khu vực nông thôn. Việc tống giam và hành hình theo trình tự sơ sài là điều phổ biến. Hình phạt chặt chân tay cũng đôi khi được lực lượng Force Publique thực hiện để thực thi luật hạn ngạch.
Sau khi xuất hiện các báo cáo từ các hội truyền giáo, bùng nổ các chiến dịch bức xúc về đạo đức trước tình hình này, đặc biệt là tại Anh và Mỹ. Tổ chức tái thiết Congo, điều hành bởi Edmund Dene Morel, đóng vai trò cực kì quan trọng trong chiến dịch, họ đã công bố rất nhiều tiểu luận và sách in bán rất chạy (bao gồm cả cuốn Red Rubber), những sản phẩm truyền thông này đã tiếp cận được đông đảo công chúng. Leopold đã bổ nhiệm và chu cấp tài chính cho một nhóm điệp vụ do chính nhà vua lập ra, để giải quyết những lời đồn đại về Nhà nước Tự do Congo, nhưng cuối cùng chính nhóm điệp vụ lại xác nhận tình trạng này, và bắt đầu điều tra về các vụ bạo hành.
Nghị viện Bỉ từ lâu đã từ chối không nhận thuộc địa, do sợ gánh nặng tài chính. Vào năm 1908, Nghị viện Bỉ buộc phải phản hồi lại sức ép từ quốc tế, và sáp nhập Nhà nước Tự do Congo như đề xuất của những người thực hiện chiến dịch. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Bỉ bị Liên Hợp Quốc chỉ trích do không có tiến triển gì trên mặt trận chính trị, như các quốc gia thực dân khác đang làm. Mặc dù có nhiều chiến dịch tuyên truyền trong nước Bỉ, song chỉ một số ít người Bỉ thể hiện quan tâm đến thuộc địa, rất ít người tới thuộc địa, và tinh thần nhiệt tình ủng hộ đế quốc chưa bao giờ thực sự lan rộng. Chính phủ giới hạn việc người Congo định cư trong nước Bỉ.
Các quyền chính trị không được trao cho người dân châu Phi cho tới tận năm 1956, khi tầng lớp trung lưu phát triển (được gọi là Évolué) được nhận quyền bầu cử và nền kinh tế vẫn khá kém phát triển dẫu có của cải từ khoáng sản tại Katanga. Trong vòng 18 tháng, kể từ ngày 1 tháng 1 năm 1959, đã xảy ra tình trạng bất ổn về chính trị và cảm giác ái quốc Phi châu trở nên rõ rệt hơn, tạo nên ảnh hưởng khiến chính phủ Bỉ giải quyết vấn đề độc lập cho thuộc địa vào năm 1960.
Tại Hội nghị bàn tròn về vấn đề độc lập, nước Bỉ yêu cầu xây dựng quá trình độc lập từ từ trong vòng 4 năm, nhưng sau một loạt các cuộc nổi loạn vào năm 1959, quyết định được đưa ra là đẩy nhanh tiến độ độc lập trong vòng vài tháng. Tình hình lộn xộn khiến nước Bỉ tách mình khỏi Congo gây ra ly khai tại tỉnh Katanga giàu có được chống lưng bởi phương Tây và cả cuộc nội chiến kéo dài được biết đến với cái tên Khủng hoảng Congo.
Tô giới Bỉ tại Thiên Tân, Trung Quốc được lập ra vào năm 1902. Bỉ đầu tư ít và không tiến hành định cư, tuy nhiên việc này cũng đem lại một hợp đồng cung cấp đèn điện và hệ thống tàu điện. Vào năm 1906, Thiên Tân trở thành thành phố đầu tiên tại Trung Quốc có hệ thống giao thông công cộng hiện đại. Cung cấp điện, thắp đèn và kinh doanh tàu điện là các thương vụ đầu tư mạo hiểm có lãi lớn. Tất cả các toa xe lửa đều do ngành công nghiệp của Bỉ cung cấp, và cho tới năm 1914, mạng lưới này cũng đã lan rộng tới các tô giới xung quanh của Áo, Pháp, Ý, Nhật và Nga.
Sau thất bại của Đức trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, Bỉ nhận ủy thác của Hội quốc Liên và chịu trách nhiệm cho vùng Ruanda-Urundi. Thuộc địa này được cai quản tương tự như cách cai quản của các nhà cầm quyền Đức trước đó, tiếp tục thực hiện các chính sách như thẻ nhân dạng theo dân tộc. Vào năm 1959, có thể nhận thấy rõ các phong trào hướng tới xu hướng độc lập tại vùng lãnh thổ này, và cuộc biến động gây ra bởi PARMEHUTU, một đảng chính trị của người Hutu là bằng chứng rõ ràng nhất. Vào năm 1960, cuộc Khởi nghĩa Rwanda xảy ra và nước Bỉ đã thay đổi kế hoạch bổ nhiệm các tộc trưởng và phó tộc trưởng, để đưa người Hutu lên nắm các vị trí này.
Ruanda-Urundi giành độc lập vào năm 1962 và 2 vùng trong khu vực là Rwanda và Burundi chủ động chia tách.
Chiến tranh thế giới thứ nhất
nhỏ|250x250px|Một tay súng máy của Bỉ trên tiền tuyến vào năm 1918, đang nhả đạn khẩu súng máy [[Chauchat.]] Khi Ch