✨Lịch sử Chelsea F.C.
Đây là chủ đề về Lịch sử của Chelsea Football Club, một câu lạc bộ bóng đá Anh có trụ sở tại Fulham, Tây Luân Đôn. Về thông tin chung của câu lạc bộ, xem tại Chelsea F.C.
Được thành lập năm 1905, Chelsea nhanh chóng có được danh tiếng từ việc ký hợp đồng với những cầu thủ có tiếng và thu hút được đông đảo khán giả tới sân, nhưng lại không thể giành được một danh hiệu lớn nào trong 50 năm đầu tiên. Họ có ba mươi trong số bốn mươi mùa giải đầu tiên chơi bóng tại First Division, mặc dù thường xuyên kết thúc ở giữa bảng xếp hạng hoặc cuộc chiến chống xuống hạng. Lần gần nhất Chelsea tới gần với thành công là tại FA Cup; họ là á quân năm 1915 và để thua trong các trận bán kết 1911, 1920, 1932, 1950 và 1952. Sự ngụp lặn cuối cùng cũng được phá vỡ bởi huấn luyện viên Ted Drake, người đã đưa ra một loạt thay đổi tại câu lạc bộ và dẫn dắt Chelsea vô địch quốc gia năm 1955.
Giai đoạn 1963–72 chứng kiến Chelsea thường xuyên tranh chấp các danh hiệu lần đầu tiên trong lịch sử, mặc dù họ một vài lần bất thành. League Cup lần đầu năm 1965, FA Cup năm 1970 và UEFA Cup Winners' Cup năm 1971; họ cũng giành ngôi á quân FA Cup năm 1967 và á quân League Cup 1972. Những vấn đề bắt đầu xảy ra ở thập niên kế tiếp, chủ yếu là do tham vọng phát triển sân Stamford Bridge, đưa câu lạc bộ gần như đến bờ vực phá sản, trước khi hồi sinh dưới thời John Neal vào giữa những năm 1980 khi câu lạc bộ vô địch Second Division để trở lại với giải đấu cao nhất.
Sự hồi sinh tiếp tục dưới thời Ruud Gullit và Gianluca Vialli từ 1996 tới 2000 chứng kiến Chelsea vô địch FA Cup năm 1997 và 2000, League Cup và UEFA Cup Winners' Cup năm 1998, và giành quyền tham dự Champions League lần đầu trong lịch sử; câu lạc bộ luôn nằm trong sáu đội đứng đầu Premier League trong suốt 20 năm từ mùa 1995–96. Năm 2003, Chelsea được mua lại bởi tỉ phú người Nga Roman Abramovich, mở ra một kỷ nguyên thành công hiện tại. José Mourinho dẫn dắt đội bóng dành hai chức vô địch quốc gia, một FA Cup và hai League Cup trong ba mùa giải. Câu lạc bộ bổ sung thêm một chiếc FA Cup năm 2009, và sau đó là Cú đúp danh hiệu VĐQG và FA Cup năm 2010. Dưới sự quản lý của cựu cầu thủ Roberto Di Matteo, câu lạc bộ giành chiếc FA Cup thứ bảy năm 2012, trước khi giành danh hiệu UEFA Champions League đầu tiên.
Trước 1905
Năm 1896, Henry Augustus "Gus" Mears, một doanh nhân mê bóng đá, cùng với anh trai, Joseph Mears, dự định mua Stamford Bridge Athletics Ground ở Fulham, Tây Luân Đôn, với ý định tổ chức các trận bóng đá hàng đầu tại đó, mặc dù họ phải chờ tới tận năm 1904 mới giành được quyền sử dụng, khi người chủ trước qua đời. Họ đã thất bại trong việc thuyết phục Fulham Football Club sử dụng sân bóng làm sân nhà của họ sau những bất đồng về tiền thuê, vì thế Mears quyết định bán cho Great Western Railway Company, những người muốn sử dụng khu đất ở đây để khai thác than. Người đồng nghiệp của Mears là Fred Parker đã rất khó nhọc trong việc thuyết phục ông. Parker sau đó đã kể lại những gì xảy ra tiếp đó:
Trong một khoảnh khắc, Mears đã đổi ý và quyết định nghe theo lời khuyên của Parker tự thành lập một câu lạc bộ để thi đấu tại Stamford Bridge.
Những năm đầu (1905–15)
thumb|Đội hình Chelsea năm 1905. Chelsea Football Club được thành lập ngày 10 tháng 3 năm 1905 tại quán rượu The Rising Sun, (bây giờ là The Butcher's Hook) đối diện với cổng chính của sân ngày nay trên đường Fulham Road. Do đã có một đội mang tên Fulham trong quận, tên của quận bên cạnh, Metropolitan Borough of Chelsea, đã được lựa chọn sau khi những cái tên London FC, Kensington FC và Stamford Bridge FC bị bác bỏ. Áo màu xanh được lựa chọn bởi Mears, giống màu xe ngựa của Lord Chelsea, cùng với quần trắng và tất xanh đậm.
Chelsea ban đầu cân nhắc việc tham dự Southern League, nhưng đã bị từ chối do phản đối của Fulham và Tottenham Hotspur, nên họ đành gia nhập Football League. Đơn gia nhập của họ được thông qua tại Đại hội cổ đông Football League ngày 29 tháng 5 năm 1905; bài phát biểu của Parker là cực kỳ quan trọng, nhấn mạnh về sự ổn định tài chính của câu lạc bộ mới, một sân vận động mới ấn tượng và các cầu thủ ngôi sao như William "Fatty" Foulke, thủ môn nặng 22 stone người giành một chức vô địch quốc gia và hai FA Cup cùng với Sheffield United.
Tiền vệ quốc tế 28 tuổi người Scotland John Robertson được thuê làm cầu thủ kiêm huấn luyện viên. Câu lạc bộ bắt đầu với việc tuyển mộ những cầu thủ từ các câu lạc bộ khác; cùng với Foulke, Chelsea ký hợp đồng với cặp tiền đạo Jimmy Windridge và Bob McRoberts từ Small Heath, và Frank Pearson từ Manchester City. Chelsea trận đấu đầu tiên tại giải quốc gia là chuyến làm khách tới Stockport County ngày 2 tháng 9 năm 1905. Họ để thua 1–0. Trận đấu sân nhà đầu tiên là gặp Liverpool trong một trận gia hữu. Họ thắng 4–0. Robertson cũng là người ghi bàn thắng chính thức đầu tiên cho Chelsea, trong chiến thắng 1–0 trước Blackpool.
thumb|Chelsea đánh bại West Brom trên sân [[Stamford Bridge (sân vận động)|Stamford Bridge vào tháng 9 năm 1905.]] Chelsea xuất sắc kết thúc ở vị trí thứ 3 tại Second Division ngay trong muà giải đầu tiên của họ, nhưng Robertson dần nhận thấy vị trí của mình bị ảnh hưởng do sự can thiệp của ban lãnh đạo. Ông mất quyền lựa chọn nhân sự vào tháng 11 năm 1905, và tới tháng Giêng 1907 ông chuyển tới Glossop. Thư ký của câu lạc bộ William Lewis nắm quyền tạm thời và đưa đội bóng lên hạng vào cuối màu giải nhờ những bàn thắng của Windridge và George "Gatling Gun" Hilsdon. Sau này trở thành người đầu tiên trong số tiền đạo thành công chơi cho Chelsea; ông ghi 5 bàn trong mùa ra mắt và 27 bàn trong mùa giải lên hạng trên con đường trở thành cầu thủ đầu tiên ghi được 100 bàn thắng cho câu lạc bộ.
thumb|Toàn bộ đội Chelsea cho mùa giải 1911–12. Lewis sau đó được kế nhiệm bởi David Calderhead, người dẫn dắt Chelsea trong 26 năm tiếp theo. Những mùa đầu câu lạc bộ không được thành công cho lắm, lên xuống hạng giữa hạng Nhất và hạng Nhì. Họ xuống hạng vào mùa 1909–10, lên hạng mùa 1911–12 và lại kết thúc ở vị trí thứ 19 mùa 1914–15, mùa giải cuối cùng của bóng đá Anh trước khi tạm dừng do Thế chiến thứ nhất. Câu lạc bộ lẽ ra là phải xuống hạng, nhưng khi trở lại năm 1919 giải đấu mở rộng lên 22 đội nên Chelsea lại được lựa chọn cho First Division.
Năm 1915, dưới cái bóng của Thế chiến thứ nhất, Chelsea lần đầu vào chung kết FA Cup, còn được gọi lại chung kết "Khaki" Cup, do một lượng lớn binh lính mang đồng phục dự khán trận đấu. Trận đấu gặp Sheffield United được tổ chức trong một không khí ảm đạm trên sân Old Trafford ở Manchester để tránh đổ vỡ ở Luân Đôn. Chelsea, trừ tiền đạo nghiệp dư hàng đầu của họ, Vivian Woodward, những người còn lại được giữ nguyên vị trí cho trận chung kết, họ dường như mất bình tĩnh trong trận này và bị vượt trội trong phần lớn trận đấu. Sai lầm của thủ môn Jim Molyneux giúp United mở tỉ số trước khi kết thúc hiệp một, the Blues cần cự cho tới 6 phút cuối cùng của trận chung kết, khi đối thủ của họ ghi thêm hai bàn thắng ấn định tỉ số 3–0.
Mặc dù vận mệnh đội bóng sóng gió, nhưng Chelsea là một trong những đội có cổ động viên tốt nhất cả nước, người hâm mộ bọ thu hút bởi lối đá tấn công đẹp mắt và những cầu thủ ngôi sao, đặc biệt là tiền vệ Ben Warren và tiền đạo Bob Whittingham. Câu lạc bộ có lượng trung bình khán giả tới sân cao nhất nước Anh mùa 1907–08, 1909–10, 1911–12, 1912–13 và 1913–14. Với 67,000 khán giả trong trận đấu tại giải quốc gia gặp Manchester United vào ngày Good Friday 1906, đã thiết lập kỷ lục của Luân Đôn khi đó. 55,000 khán giả tới sân trong trận derby Luân Đôn tại giải đấu cao nhất, gặp Woolwich Arsenal, một kỷ lục tại First Division. 77,952 là số khán giả có mặt trên sân tại vòng 4 FA Cup gặp Swindon ngày 13 tháng 4 năm 1911.
Giữa hai cuộc chiến
1919–20, mùa giải đầu tiên sau chiến tranh là một mùa giải thành công nhất của Chelsea thời điểm ấy. Với 24 bàn thắng của tiền đạo Jack Cock, một cầu thủ mới của câu lạc bộ, họ kết thúc ở vị trí thứ ba tại giải quốc gia – đó là thành tích tốt nhất của một câu lạc bộ Luân Đôn – và lọt tới bán kết FA Cup, chỉ chịu thua trước đội vô địch Aston Villa, qua đó để lỡ mất cơ hội được thi đấu chung kết trên sân Stamford Bridge. Câu lạc bộ xuống hạng sau đó vào mùa 1923–24 và tới bốn trong năm mùa tiếp theo bỏ lỡ cơ hội lên hạng khi kết thúc ở các vị trí thứ năm, thứ ba, thứ tư rồi lại thứ ba. Những thời gian phục vụ dài của những trụ cột như Willie Ferguson, Tommy Law và Andy Wilson, Chelsea cuối cùng cũng lên lại First Division vào mùa 1929–30, sau đó thì trụ lại ở đó 32 năm tiếp theo.
thumb|Đội hình Chelsea FC trong chuyến du đấu tại [[Argentina năm 1929.]] Với việc lên hạng năm 1930, câu lạc bộ chi ra £25,000 ($49,000) cho ba cầu thủ có tên tuổi người Scotland Hughie Gallacher, Alex Jackson và Alec Cheyne. Gallacher là một trong những tài năng lớn nhất của thời cầu thủ này, được biết đến với khả năng săn bàn và là đội trưởng của Newcastle vô địch mùa 1926–27. Ông và Jackson đều là thành viên của Wembley Wizards (có cả Law), khi tuyển Scotland đã hạ Anh 5–1 trên sân Wembley vào năm 1928.
Tuy nhiên, mặc dù đội bóng có để lại những điểm nhấn, như chiến thắng 6–2 trước Manchester United và một chiến thắng 5–0 trước Sunderland, nhưng không một ai trong số bộ ba này đáp ứng đúng với nhu cầu mà câu lạc bộ mong muốn. Gallacher là cầu thủ ghi bàn hàng đầu của Chelsea trong cả bốn mùa, ghi được tất cả 81 bàn, nhưng thời gian ông ở Tây Luân Đôn liên tiếp dính tới những rắc rối cá nhân, bị treo giò dài hạn bởi thói vô kỷ luật bao gồm cả một án treo giò hai tháng vì chửi trọng tài. Jackson và Cheyne phải cạnh tranh cho vị trí ở câu lạc bộ và không thể tìm lại những vinh quang đã giành được trước đó. Bộ ba này thi đấu chưa tới 300 trận trong thời gian họ ở lại câu lạc bộ và tới năm 1936 tất cả tời đi để lại một mất mát đáng kể về mặt tàu chính cho câu lạc bộ. Nỗi thất vọng của họ mang những sai sót của Chelsea trong suốt một thập kỷ, trong đó là những kết quả và phong độ không xứng với tên tuổi của các cầu thủ chơi tại câu lạc bộ. Số tiền bỏ ra dường như là dành cho những cầu thủ không phù hợp đặc biệt là hàng tấn công, trong khi ấy lại bỏ dở đi hàng phòng ngự.
FA Cup là danh hiệu gần nhất mà câu lạc bộ có thể chạm tới. Năm 1932, có những chiến thắng ấn tượng trước Liverpool và Sheffield Wednesday, trước khi bị loại bởi Newcastle United ở bán kết. Tommy Lang đưa Newcastle vươn lên dẫn trước 2–0, trước khi Gallacher gỡ lại một bàn cho Chelsea. The Blues sau đó vây hãm khung thành của United trong hiệp hai, nhưng không thể xuyên thủng được mành lưới Geordies đã vào chung kết và nâng cao chức vô địch.
Calderhead ra đi năm 1933 và được thay thế bởi Leslie Knighton, nhưng việc bổ nhiệm cho thấy một chút thay đổi trong vận mệnh của Chelsea. Trong một thập niên đó câu lạc bộ mang về những cầu thủ như Tommy Law, Sam Weaver, Syd Bishop, Harry Burgess, Dick Spence và Joe Bambrick, tất cả đều là cầu thủ quốc tế, nhưng chỉ kết thúc ở vị trí cao nhất là thứ tám tại giải quốc gia. Trớ trêu thay, hai cầu thủ đáng tin cậy nhất của câu lạc bộ trong suốt thập niên đó lại không mất một đồng phí chuyển nhượng nào: thủ mônVic Woodley, người có 19 lần liên tiếp khoác áo đội tuyển Anh, và tiền đạo trung tâm George Mills, cầu thủ đầu tiên ghi 100 bàn tại giải quốc gia cho Chelsea. Họ từng thoát xuống hạng sau hai lần hơn đội xuống hạng hai điểm vào các mùa 1932–33 và 1933–34, và chỉ hơn một điểm mùa 1938–39. Một giải đấu cúp được cho là hứa hẹn năm 1939, khi vượt qua Arsenal và Sheffield Wednesday, nhưng cuối cùng lại để thua Grimsby Town trên sân nhà tại tứ kết.
Câu lạc bộ tiếp tục là một trong những câu lạc bộ có cổ động viên tốt nhất. Trong chuyến viếng thăm của Arsenal ngày 12 tháng 10 năm 1935 có 82,905 khán giả tới sân Stamford Bridge, hiện vẫn đang là kỷ lục của câu lạc bộ và cao thứ hai trong lịch sử giải quốc gia Anh. Có tới gần 50,000 khán giả tới xem trận ra mắt trên sân nhà của Gallacher và Jackson. Năm 1939, sau khi không thể đưa câu lạc bộ tới thành công trên sân đấu, Knighton ra đi. Ông được thay thế bởi cựu huấn viên Queens Park Rangers người Scotland, Billy Birrell.
Nam 1937, Chelsea tranh tài tại giải đấu "Arts et Techniques dans la Vie moderne" ở Paris đối đầu với những câu lạc bộ hàng đầu thời điểm đó, Austria Wien, Bologna và Slavia Prague, qua đó trở thành câu lạc bộ Anh đầu tiên tham dự một giải đấu quốc tế. Chelsea lọt vào tới chung kết giải, nơi họ để thua nhà vô địch Italia Bologna.
Thế chiến, Dynamo và hệ thống đào tạo trẻ mới (1940–52)
Birrell được bổ nhiệm làm huấn luyện viên Chelsea một thời gian ngắn trước Thế chiến thứ hai. Sau ba trận đấu mùa 1939–40, bóng đá đỉnh cao bị tạm ngừng ở Anh trong thời kì xung đột, điều đó có nghĩa tất cả các trận đấu vào thời chiến đều diễn ra không chính thức. Chelsea tranh tài ở một chuỗi các giải khu vực, giống như các đội bóng khác, đội hình của họ bị suy giảm nghiêm trọng do chiến tranh (chỉ có hai thành viên của Chelsea mùa giải 1938–39 thi đấu lại). Câu lạc bộ vì thế ra sân với những cầu thủ "khách mời", phần lớn là những người có tiếng như Matt Busby, Walter Winterbottom và Eddie Hapgood. Họ cũng tranh tài tại Football League War Cup, họ có trận ra mắt trên sân Wembley, để thua 1–3 trước Charlton Athletic trong trận chung kết năm 1944, và đánh bại Millwall 2–0 một năm sau đó trước 80,000 khán giả. Sau trận đấu, John Harris trở thành đội trưởng Chelsea đầu tiên nâng cúp trên sân Wembley, nhận cúp từ Thủ tướng Winston Churchill.
Tháng 10, 1945, khi thế chiến vừa kết thúc, các cơ quan bóng đá Anh tìm cách để chào mừng sự trở lại của các trận đấu thời bình. Như là một đại sứ thiện chí, Dinamo Moskva, đương kim vô địch Liên Xô, thực hiện chuyến du đấu ở Vương quốc Anh và thi đấu trên sân nhà của một vài câu lạc bộ, trong đó có Chelsea. Trận đấu diễn ra vào ngày 13 tháng 11 tại Stamford Bridge Chelsea mặc chiếc áo sọc đỏ lạ mắt do có màu áo cùng màu với mùa áo xanh của Dynamo. Trước khi trận đấu diễn ra, các cầu thủ Dynamo đã tặng những bó hoa cho các cầu thủ đối phương. Các cầu thủ Nga đã gây bất ngờ cho người xem bằng tài năng và sự ngoan cường bằng việc ngược dòng từ 0–2 rồi gỡ hòa 3-3 sau khi bị dẫn lại 2–3. Ước tính có tới 100,000 người đã có mặt để theo dõi, với hàng ngàn người vào sân một cách bất hợp pháp. Đó là số lượng khán giả lớn nhất từng ghi nhận tại Stamford Bridge. Khán giả theo dõi trận đấu ở bất cứ chỗ nào có thể, cả trên đường đua chó và trên nóc khán đài. thumb|Đội hình Chelsea FC tháng 11 năm 1947 Sau chiến tranh, Chelsea tiếp tục chi tiêu mạnh, và lại mua về ba tiền đạo lớn khác, lần này là Tommy Lawton, Len Goulden và Tommy Walker, với giá khoảng £22,000. Bộ ba này đạt được cả hai mục tiêu là bàn thắng và sự giải trí – Lawton thiết lập một kỷ lục mới của câu lạc bộ ghi 26 bàn trong 34 trận đấu tại giải quốc gia mùa 1946–47 Chính sách này đã cung cấp nòng cốt cho đội một của Chelsea trong ba thập niên tiếp theo, những cầu thủ như Jimmy Greaves, Bobby Smith, Peter Osgood, Peter Bonetti, Ray Wilkins, Ron Harris, Bobby Tambling, Alan Hudson, Terry Venables và John Hollins.
Ted Drake: Hiện đại hóa và chức vô địch (1952–61)
Năm 1952, cựu tiền đạo Arsenal và đội tuyển Anh Ted Drake được bổ nhiệm làm huấn luyện viên. Một trong nhữg "huấn luyện viên áo vest" đầu tiên người luôn bắt tay các cầu thủ và chúc họ "mọi điều tốt nhất" trước mỗi trận đấu, Drake tiến hành hiện đại hóa câu lạc bộ, cả trong và ngoài sân cỏ. Một trong những động thái đầu tiên là loại bỏ hình ảnh người hưu trí Chelsea ra khỏi cuốn thông tin trận đấu và biệt danh cũ của câu lạc bộ cũng không còn nữa. Kể từ đó họ được biết đến là the Blues. Họ cũng cho ra mắt mẫu biểu trưng mới "sư tử đứng chồm hai chân trước".
Ông cải thiện chương trình tập luyện, đưa việc tập với bóng vào các buổi tập luyện, một phương pháp huấn luyện hiếm gặp ở Anh thời điểm đó; hệ thống tìm kiếm và đào tạo trẻ của người tiền nhiệm được mở rộng và ông đã bỏ đi chính sách chuyển nhượng cũ của cầu lạc bộ là mua về những cầu thủ ngôi sao mà thay vào đó là mua những cầu thủ ít nổi nhưng phù hợp từ các hạng đấu thấp hơn.
Chelsea giành được 52 điểm mùa giải đó và trở thành một trong những đội giành chức vô địch với số điểm ít nhất kể từ sau Thế chiến thứ nhất. Trong trận đấu cuối cùng của mùa giải, Chelsea, khi ấy đã là nhà vô địch, được Những đứa trẻ của Busby Manchester United của Matt Busby xếp hàng chào danh dự. Mùa giải đó cũng chứng kiến cú ăn bốn duy nhất, với đội dự bị, 'A' và đội trẻ vô địch những giải đấu mà họ tham dự.
Vô địch Championship nên Chelsea trở thành câu lạc bộ đầu tiên của Anh tham dự mùa mở màn giải European Champions' Cup diễn ra ở mùa giải sau đó. Họ được bốc thăm gặp đội vô địch Thụy Điển Djurgårdens IF ở vòng một. Tuy nhiên Chelsea bị từ chối cho tham dự do sự can thiệp của Football League và FA, rất nhiều thành viên lãnh đạo đã phản đối ý tưởng và cho rằng các giải quốc nội là có địa vị cao nhất, vì thế câu lạc bộ bị thuyết phục rằng phải rút lui. Chelsea đã thi đấu một trận giao hữu tranh chức vô địch Vương quốc Anh không chính thức khi gặp đội vô địch Scotland Aberdeen, trận đó Aberdeen thắng. Chelsea đã trao một chiếc đĩa với biểu trưng của câu lạc bộ cho Aberdeen như là một phần thưởng.
Chelsea đã không thể tiếp tục thành công trong việc cạnh tranh danh hiệu, họ kết thúc thất vọng ở vị trí thứ 16 mùa giải tiếp theo. Đội hình các cầu thủ dần có tuổi kèm theo đó là câu lạc bộ thường chỉ xếp ở giữa bảng xếp hạng; một điểm sáng hiếm hoi trong giai đoạn này là sự xuất hiện của tay săn bàn sáng giá Jimmy Greaves, người ghi được 122 bàn thắng tại giải quốc gia trong bốn mùa giải. Cùng với Greaves, là một loạt các cầu thủ trẻ đầy hứa hẹn khác, còn được gọi là Những chú vịt con của Drake, xuất hiện ở đội một, do thiếu kinh nghiệm nên kết quả thi đấu rất thất thường. Một trong những nỗi thất vọng của câu lạc bộ trong giai đoạn này là bị loại ở FA Cup ngay từ vòng ba bởi đội Fourth Division, Crewe Alexandra, vào tháng 1 năm 1961. Khi Greaves được bán cho Milan vào tháng 6 năm 1961 kết quả thi đấu của câu lạc bộ vàng bết bát khi thiếu đi những bàn thắng của ông. Drake bị sa thải vào tháng 9 sau trận thua 4–0 trước Blackpool cùng với vị trí dưới đáy bảng xếp hạng của Chelsea. Ông được thay thế bởi cầu thủ kiên huấn luyện viên 33 tuổi Tommy Docherty.
Nổi lên (1963–71)
Tommy Docherty
right|thumb|[[Bobby Tambling và Barry Bridges, hai cầu thủ quan trọng của Chelsea những năm 1960, ảnh chụp tại Stamford Bridge năm 2009.]] Thập niên 60 chứng kiến bóng đá và phong cách độc đáo hội tụ ở trái tim của Luân Đôn; với phong cách thời trang King's Road. Các siêu sao của thời kỳ này, như Michael Caine, Steve McQueen, Raquel Welch, Terence Stamp và Richard Attenborough (cựu Chủ tịch đời sống của câu lạc bộ) thường xuyên xuất hiện tại Stamford Bridge khiến đội bóng trở thành một trong những thời trang và quyến rũ nhất trong nước. Một câu lạc bộ Chelsea của những năm 1960 có đầy đủ đẳng cấp và uy tín lần đầu được biết đến là một cái tên lớn, nhưng không thể kết hợp lợi thế ấy với những chiến thắng trên sân, dù một vài lần gần thành công.
Docherty thiết quân luật ở câu lạc bộ, bán đi nhiều cầu thủ lớn tuổi của câu lạc bộ, và thay thế họ bằng một thế hệ mới những tài năng trẻ đầy tài năng qua hệ thống đào tạo trẻ, bổ sung thêm một vài cầu thủ mới một cách khôn ngoan. Tính tới thời gian ông nắm quyền vào tháng Giêng 1962, đội bóng đã có chuẩn bị đầy đủ mọi thứ nhưng phải đối mặt với việc xuống hạng, ông đã sử dụng khoảng thời gian này để thử nghiệm và lên kế hoạch cho tương lai. Chelsea xuống hạng và trong mùa giải nắm quyền toàn mùa đầu tiên Docherty đã đưa đội bóng lên hạng sau khi là á quân Second Division, trong đó có trận thắng 1–0 trước Sunderland (một bàn thắng qua háng của Tommy Harmer) và chiến thắng 7–0 trong ngày thi đấu cuối cùng gặp Portsmouth.
Chelsea trở lại First Division với một đội hình trẻ và mới với Ron "Chopper" Harris không nhượng bộ, thủ môn Peter Bonetti, cầu thủ chạy cánh ghi bàn hàng đầu Bobby Tambling (người ghi 202 bàn là kỉ lục của Chelsea tới năm 2013), tiền vệ John Hollins, hậu vệ Ken Shellito, tiền đạo Barry Bridges, cầu thủ chạy cánh Bert Murray và đội trưởng cầu thủ kiến tạo Terry Venables, tất cả đều là sản phẩm của lò đào tạo trẻ. Cùng với đó, Docherty mua về tiền đạo George Graham, hậu vệ trái Eddie McCreadie và trung vệ thép Marvin Hinton với mức giá tối thiểu để tạo nên đội hình kim cương – Docherty gọi đội hình của ông là "những viên kim cương nhỏ" trong một phim tài liệu trên TV và cái tên đó gắn liền với họ.
Chelsea kết thúc mùa giải ở vị trí thứ năm một cách khó tin trong mùa giải đầu tiên họ trở lại với giải đấu cấp cao nhất, và tiếp đó là khả năng về một "cú ăn ba" giải quốc gia, FA Cup và League Cup, thi đấu với một phong cách bóng đá dựa trên nguồn năng lượng cao, chuyền nhanh và chiến thuật sáng tạo – họ là một trong những đội bóng Anh đầu tiên sử dụng hậu vệ chạy cánh tấn công. Chelsea tăng tốc sớm và tham gia vào cuộc đua tay ba cho chức vô địch quốc gia với Manchester United và Leeds United. League Cup giành được sau chiến thắng 3–2 ở lượt đi trước Leicester City, với một pha solo đáng nhớ của McCreadie nhưng một sự chứng minh khác biệt giữa hai đội, và trận hòa 0–0 khó nhọc trên sân Filbert Street.
Nhưng sự xung đột cũng bắt đầu xuất hiện, Docherty ngày càng xung đột với những người có tính khí mạnh trong phòng thay đồ, đặc biệt là Venables. Đội bóng bị đánh bại bởi ứng cử viên vô địch Manchester United vào tháng 3 và để thua 2–0 tại trận bán kết FA Cup trước Liverpool, mặc dù được đánh giá cao hơn. Họ vẫn leo lên vị trí đầu khi giải đấu chỉ còn bốn vòng. Docherty thiết quân luật với tám cầu thủ chủ chốt (Venables, Graham, Bridges, Hollins, McCreadie, Hinton, Murray và Joe Fascione) vì phá lệnh giới nghiêm trước trận đấu quan trọng với Burnley. Bộ khung của đội bóng lúc này chỉ còn những cầu thủ dự bị và cầu thủ trẻ, họ bị đánh bại 6–2 đóng lại cơ hội cạnh tranh chức vô địch; Chelsea cuối cùng kết thúc ở vị trí thứ ba.
Mùa giải tiếp theo cho thấy phần không kém sôi động, Chelsea cạnh tranh chức vô địch tại giải quốc gia, FA Cup và Fairs Cup. Thi đấu với số lượng trận đấu kỷ lục của câu lạc bộ khi đó 60 trận ở ba giải đấu trong những ngày mà chưa có sự thay đổi cầu thủ trong trận đấu khiến đội bóng bị ảnh hưởng nặng nề bởi lịch thi đấu. Họ kết thúc vị trí thứ năm tại giải quốc gia trong khi đó tại FA Cup, Chelsea có màn trả thù khi đánh bại đương kim vô địch Liverpool tại Anfield trên đường vào bán kết, nơi họ sẽ đối đầu với Sheffield Wednesday, tại Villa Park. Được đánh giá cơ hội cao hơn vào chung kết, đội chơi dưới sức và bị đánh bại 2–0 bởi câu lạc bộ vùng Yorkshire.
Tại Fairs Cup, họ giành chiến thắng Roma (một cuộc gặp gỡ bạo lực, trong đó huấn luyện viên Chelsea bị phục kích bởi cổ động viên Roma), 1860 Munich và Milan (lần cuối việc tung đồng xu được sử dụng sau khi hòa), và kết thúc ở bán kết sau trận thua Barcelona. Hai đội cùng giành chiến thắng 2–0 trên sân nhà và việc tung đồng xu được quyết định để xác định sân diễn ra trận đá lại, trên sân Camp Nou, Barça giành chiến thắng 5–0. Mối quan hệ của Docherty với một vài cầu thủ đi đến điểm dừng, họ quyết định rời bỏ đội bóng. Venables, Graham, Bridges và Murray tất cả đều được bán khi mùa giải kết thúc. Tiền vệ chạy cánh người Scotland Charlie Cooke gia nhập với giá £72,000, và Tommy Baldwin cũng đến như một phần trong vụ chuyển nhượng Graham. Cùng với đó nổi lên những cầu thủ từ đội trẻ trong đó có tiền đạo tuổi teen Peter Osgood.
Những vụ chuyển nhượng của Docherty bước đầu mang đến những hiệu quả. Chelsea, với Osgood là trái tim của đội bóng, đã dẫn đầu bảng xếp hạng vàp tháng 10 năm 1966, nhờ là đội duy nhất bất bại sau mười trận đấu. Nhưng khi Osgood bị gãy chân trong một trận ở League Cup khiến cho động lực đội bóng bị gián đoạn. Để thay thế Osgood, Docherty lập tức ký hợp đồng với tiền đạo Tony Hateley với mức chuyển nhượng kỷ lục của câu lạc bộ £100,000, nhưng sở trường bóng bổng của Hateley không phù hợp với phong cách của Chelsea khiến ông khó khăn trong việc hòa nhập. Họ dần tụt hạng và kết thúc ở vị trí thứ 9. Điểm sáng của mùa giải là việc vào tới trận chung kết FA Cup. Trên đường vào chung kết họ đánh bại Leeds United ở bán kết, trận đấu được nhiều người cho rằng là một trong khởi đầu cho sự đối đầu giữa hai câu lạc bộ. Trong khoảnh khắc đẹp nhất tai Chelsea, Hateley đánh đầu đem về chiến thắng, nhưng trong một trận đấu tranh cãi, Leeds có hai bàn thắng không được công nhận, một do việt vị và một do Peter Lorimer thực hiện đá phạt quá nhanh.
Chelsea gặp Tottenham Hotspur trong trận chung kết FA Cup toàn Luân Đôn đầu tiên, còn được gọi là trận chung kết của người thành thị (Cockney Cup). Đó cũng là lần đầu tiên Chelsea vào chung kết kể từ năm 1915 và cũng là trận chung kết đầu tiên của họ trên sân Wembley. Dẫn đầu đội bóng là, Ron Harris, khi ấy 22 tuổi, là đội trưởng trẻ nhất trong một trận chung kết. Trong một trận đấu không như dự đoán, Chelsea chơi không đúng phong đội nên bàn đánh đầu muộn của Tambling cũng không giúp Chelsea tránh khỏi trận thua 2–1 trước Spurs có bộ đôi Venables và Jimmy Greaves. Docherty sau đó bị sa thảy chỉ một thời gian ngắn khi mùa giải tiếp theo bắt đầu khi đội bóng chỉ thắng có hai trong mười trận đầu mùa, bao gồm cả trận thua 6–2 trên sân nhà trước Southampton, cùng những tin đồn về tình trạng bất ổn trong phòng thay đồ về các khoản tiền thưởng và nhận án phạt 28 ngày cấm chỉ đạo bởi FA.
Dave Sexton
Sau khi Docherty rời đi, trợ lý của ông Ron Suart tạm thời dẫn dắt đội một. Chelsea thua ở trận đấu tiếp theo với tỉ số trước 7–0 trong trận gặp Leeds United, bằng với kỉ lục để thua với khoảng cách lớn nhất (ở mùa 1953–54, họ đã để thua Wolves 8–1). Dave Sexton, cựu huấn luyện viên Chelsea và Leyton Orient, một người bình tĩnh và kín đáo hơn Docherty, được bổ nhiệm làm huấn luyện viên. Cốt lõi đội bóng từ thời Docherty không có sự thay đổi lớn, mặc dù ông thêm chất thép vào hàng phòng ngự sau khi ký hợp đồng với John Dempsey và David Webb, cũng như kú hợp đồng với Ian Hutchinson, cho tiền vệ nhanh nhẹn Alan Hudson ra mắt và gọi lại tiền vệ chạy cánh Peter Houseman. Sexton đã chứng tỏ sự ổn định và dẫn dắt Chelsea hai lần giành vị trí top 6, cũng như tạo được bước đột phá tại Fairs Cup mùa 1968–69, nơi họ bị loại DWS Amsterdam sau khi tung đồng xu.
Mùa giải 1969–70, Osgood và Hutchinson ghi được 53 bàn thắng giúp câu lạc bộ xếp thứ 3 tại giải quốc gia và một lần nữa vào chung kết FA Cup. Đối thủ lần này là Leeds United, đương kim vô địch quốc gia và một trong những đội hàng đầu thời điểm đó. Chelsea hai lần bị dẫn trước trong trận đấu trên mặt sân lầy lội ở Wembley, nhưng hai lần bị gỡ hòa 2–2, đầu tiên là nhờ Houseman và sau đó là pha đánh đầu gỡ hòa muộn (bốn phút trước khi hết giờ) của Hutchinson. Trên đá lại diễn ra trên sân Old Trafford mười lăm ngày sau đó và với chiến thuật không khoan nhượng từ cả hai phía với những kỹ năng và tài năng trên sân. Chelsea một lần nữa bị dẫn trước nhưng lần thứ ba gỡ hòa từ một pha đánh đầu của Osgood sau đường tạt bóng của Cooke. Khi trận đấu bước sang hiệp phụ, Chelsea vươn lên dẫn trước lần đầu tiên Webb sau pha đánh đầu từ quả ném biên của Hutchinson để giành chiến thắng 2–1.
Với chiến thắng tại Cup giúp Chelsea giành quyền tham dự UEFA Cup Winners' Cup lần đầu tiên. Những chiến thắng đơn giản trước Aris và CSKA Sofia đưa họ vào tứ kết, nơi họ đánh bại Club Brugge nhờ màn trở lại ấn tượng. Bị dẫn trước 2–0 sau lượt đi, nhờ một bàn thắng của Osgood 9 phút trước khi kết thúc thời gian chính thức giúp Chelsea gỡ hòa tỉ số sau hai lượt trận. Chung cuộc trận đấu kết thúc với tỉ số 4–0 sau hiệp phụ. Đội bóng đồng hương Anh (và là đương kim vô địch) Manchester City bị loại trong trận bán kết. Trong trận chung kết đầu tiên gặp Real Madrid kết thúc với tỉ số hòa 1–1 nhưng một bàn thắng Dempsey và một bàn khác từ Osgood trong trận đá lại hai ngày sau đó đủ giúp họ có chiến thắng 2–1 và Chelsea dành danh hiệu châu Âu đầu tiên. Ca khúc Blue is the Colour được cho ra mắt năm 1972 với các thành viên của bộ bóng trình bày, đã giành vị trí thứ năm trong Bảng xếp hạng đĩa đơn Vương quốc Anh. Ca khúc trở thành một trong những ca khúc bóng đá Anh nổi tiếng nhất và mãi gắn liền với đội bóng Chelsea thời kỳ đó.
Sa sút (1972–83)
Chức vô địch Cup Winners' Cup là thành công cuối cùng của Chelsea trong thập kỷ đó, nhiều vấn đề nảy sinh khiến câu lạc bộ gần như ngã gục. Từ đầu những năm 1970, kỷ luật của câu lạc bộ bị xuống cấp nghiêm trọng Sexton không hài lòng với một vài cầu thủ trụ cột, nổi bật nhất là Osgood, Hudson và Baldwin về thái độ cũng như lối sống của họ. Tinh thần đội bóng đi xuống kéo theo đó là những kết quả trên sân. Chelsea thiết lập hai kỷ lục trong quá trình bảo vệ chức vô địch Cup Winners' Cup năm 1971–72: chiến thắng 21–0 sau hai lượt trận trước đội bóng của Luxembourg Jeunesse Hautcharage, hiện vẫn là kỷ lục của các giải đấu châu Âu. Cùng với chiến thắng 13–0 trên sân nhà trước Jeunesse, đó là tỉ số cao nhất trong lịch sử của Chelsea. Tuy nhiên, đội bóng bị loại bởi đội bóng ít tên tuổi Åtvidabergs FF sau luật bàn thắng sân khách ở vòng đấu tiếp theo.
Cũng trong mùa giải đó, Chelsea bị loại khỏi FA Cup bởi đội bóng Second Division Leyton Orient dù đã dẫn trước 2–0, và để thua trong trận chung kết League Cup trước đội bóng bị đánh giá thấp hơn Stoke City. Mùa 1972–73 bắt đầu với chiến thắng 4–0 trước Leeds và câu lạc bộ xếp thứ tư trên bảng xếp hạng vào tháng Mười hai, nhưng sau trận thua 3–0 sau hai lượt trận trước Norwich City tại bán kết League Cup thì mùa giải coi như thất bại, Chelsea chỉ thắng 5 trong 21 trận đấu cuối tại giải quốc gia, kết thúc ở vị trí thứ 12. Mùa tiếp theo họ đứng vị trí thứ 17. Sự thù hằn giữa Sexton và Osgood cũng như Hudson lên đến đỉnh điểm sau trận thua 4–2 trên sân nhà trước West Ham United và Ngày tặng quà 1973, sau khi Chelsea đã vươn lên dẫn trước 2–0 sau hiệp một; bộ đôi bị bán vài tháng sau đó. Sexton bị sa thải vào đầu mùa giải 1974–75 sau khởi đầu yếu kếm, và được kế nhiệm bởi người trợ lý, Ron Suart, nhưng cũng không thể cứu vớt được đội bóng và câu lạc bộ bị xuống hạng năm 1975.
Việc xây dựng tiên phong Khán đài phía Đông (vẫn còn trên sân vận động ngày nay) là một phần trong kế hoạch xây dựng sân vận động với 60,000 chỗ ngồi khiến cho câu lạc gặp tai họa. Dự án được miêu tả là "tham vọng nhất từ trước đến nay tại Anh Quốc". Do diễn ra trong đúng cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới và bị chậm trễ do đình công và thiếu nguyên vật liệu, moị chi phí trở lên mất kiểm soát, khiến câu lạc bộ phải chịu món nợ £4 triêu năm 1977. Kết quả là từ tháng 8 năm 1974 tới tháng 6 năm 1978, Chelsea chủ thể mua bất cứ một cầu thủ nào. Sự suy yếu của đội bóng cũng dẫn đến việc giảm số lượng cổ động viên tới sân – những người còn lại lại bị mang tiếng bởi sự bạo lực của một bộ phận cổ động viên Chelsea (ranh giới giữa nhiệt huyết và hooligan rất mong manh trong thời kì đó). Cuối những năm 1970 và những năm 1980 chứng kiến sự tăng cao của hooligan bóng đá tại Anh Quốc; trong vấn nạn rộng rãi đó, phân từ hooligan Chelsea trở lên đặc biệt nổi tiếng và kiến câu lạc bộ tàn lụi trong suốt những năm đó.
Giữa nhưng năm 1970, cổ động viên Chelsea "tham gia vào... nhiều vụ bạo lực, phá hoại và gây rối chung". Tại Luton Town, các cổ động viên Chelsea tràn xuống sân, đập vỡ cửa sổ các các cửa trên đường trở lại ga Luton, rồi đốt pháo trên chuyến tàu Football Special, kết quả là hơn 100 người bị bắt. Các hooligan khiến Bộ trưởng Thể thao Denis Howell cấm các cổ động viên Chelsea tới các trận sân khách tháng 4 năm 1977 – một lệnh tương tự với các cổ động viên Manchester United – dù vậy hàng nghìn cổ động viên Chelsea đã bất chấp lệnh cấm để tới sân xem trận đấu với Wolverhampton Wanderers.
thumb|Khán đài Đông, một trong lý do chính kiến Chelsea gặp vấn đề tài chính những năm 1970 và 1980 Cựu hậu vệ trái Eddie McCreadie trở thành huấn luyện viên trưởng một thời gian ngắn trước khi Chelsea xuống hạng năm 1975, sau một mùa 1975–76 củng cố, đã dẫn dắt đội bóng lên hạng mùa 1976–77 với một đội hình gồm các cầu thủ trẻ, nổi bật nhất là Ray Wilkins và tiền đạo ghi 24 bàn Steve Finnieston, cùng với các cựu binh đã có thời gian dài thành công trước đó Cooke, Harris và Bonetti. Nhưng McCreadie rời đi sau khi tranh chấp hợp đồng với chủ tịch Brian Mears về một chiếc xe công và một cựu cầu thủ khác được bổ nhiệm, lần này là cựu hậu vệ phải Ken Shellito.
Shellito giúp Chelsea trụ lại First Division mùa 1977–78, với điểm sáng của mùa giải là chiến thắng 4–2 trước nhà vô địch châu Âu Liverpool tại FA Cup. Shellito từ chức giữa chừng khi mùa giải sau đó câu lạc bộ chỉ thẳng ba trận tại giải quốc gia trước Giáng sinh. Sự trở lại trong một thời gian ngắn của Osgood cải thiện một chút tình hình. Kế nhiệm Shellito là cựu đội trưởng giành cú đúp danh hiệu cùng Tottenham Hotspur Danny Blanchflower cũng không thể vực dậy đội bóng xuống hạng một lần nữa khi chỉ giành được năm chiến thắng và để thua tới 27 trận, mở ra một thời kỳ tối tăm nhất trong lịch sử Chelsea.
Wilkins, một trong những ngôi sao hiếm hoi còn lại, được bán cho Manchester United và người hùng tuyển Anh tại chung kết World Cup 1966 Geoff Hurst trở thành huấn luyện viên vào tháng 9 năm 1979 với Bobby Gould làm trợ lý. Sự xuất hiện của họ cả thiện phong độ Chelsea ngay lập tứ, một thời gian dài Chelsea đứng đầu bảng xếp hạng Second Division, nhưng sự sa sút ở những vòng đấu cuối khiến Chelsea chỉ giành được vị trí thứ tư, bỏ lỡ suất lên hạng do thua về hiệu số bàn thắng. Mùa giải tiếp theo câu lạc bộ gặp khó trong việc ghi bàn, trong chín trận đấu không ghi được một thắng nào, chỉ thắng có 3 trong số 20 trận và kết thúc ở vị trí thứ 12 mùa 1980–81. Hurst bị sa thải.
Năm 1981, Mears từ chức chủ tịch, kết thúc 76 năm của gia đình ông tại câu lạc bộ. Một trong những động thái cuối cùng của Mears là bổ nhiệm cựu huấn luyện viên Wrexham John Neal làm huấn luyện viên. Một năm sau, Chelsea Football & Athletic Company, ngập trong nợ nần và không thể trả lương cho cầu thủ, một doanh nhân và là cựu chủ tịch Oldham AthleticKen Bates đã mua lại quyền lợi từ gia đình Mears với giá tượng trưng 1 bảng, vì lý do đó vẫn còn tranh chấp, ông đã không mua SB Properties, công ty sở hữu toàn quyền sử Stamford Bridge. Đến thời điểm này, Chelsea đang ở trong một tình trạng tài chính bấp bênh và phải trả 12.000 bảng một tuần. Bates sau đó đã miêu tả thứ mà ông đã mua về như "một câu lạc bộ xã hội có một chút bóng đá thi đấu vào ngày thứ Bảy". Bates ban đầu đồng ý bản hợp đồng 7 năm, nhằm giữ Chelsea ở Stamford Bridge trước khi mọi việc được định đoạt trong tương lai.
Theo Bates, ông và David Mears, cổ đông chính của SB Properties, đã bắt tay thỏa thuận Chelsea thu mua cổ phần của Mears tại SB Properties với giá £450,000. Tuy nhiên Bates sau đó phát hiện ra Mears cũng đã thảo luận với ông chủ của Crystal Palace Ron Noades, nhằm chuyển Chelsea khỏi Stamford Bridge và họ sẽ sử dụng chung sân với Palace tại Selhurst Park. Mears và Lord Chelsea sau đó bán cổ phần của mình tại SB Properties cho nhà phát triển bất động sản Marler Estates, qua đó Marler nắm 70% cổ phần công ty. Ông cũng khởi động chiến dịch "Save the Bridge", với mục tiêu quyên góp £15 triệu để giành quyền sở hữu từ Marler. Marler lần lượt đưa ra một vài những đề án để đưa Chelsea rời khỏi Stamford Bridge. David Bulstrode, chủ tịch của Marler, đề xuất sáp nhập Fulham và Queens Park Rangers, rồi Chelsea sẽ chuyển tới sân của Rangers Loftus Road. Tháng Ba 1986, kế hoạch của Marler tái phát triển lại khu đất Stamford Bridge site à không có Chelsea được đệ trình lên Hội đồng Hammersmith và Fulham; hội đồng đã phủ quyết chính sách khi mà Đảng Lao động giành quyền kiểm soát năm 1986. Tháng Mười hai 1987, trong một "quyết định quan trọng", Bates đưa ra kế hoạch tái phát triển Stamford Bridge thành một sân bóng hiện đại được phê duyệt bởi ủy ban quy hoạch của hội đồng.
Chelsea vẫn nhận được thông báo phải rời Stamford Bridge, khi thời gian thuê hết hạn năm 1989. Bates sau đó tạo ra Chelsea Pitch Owners, một tổ chức phi lợi nhuận của các cổ động viên năm 1997 có toàn quyền sử dụng sân, tên câu lạc bộ và sân bóng để đảm bảo các nhà bất động sản không thể thu mua Stamford Bridge được nữa. Sau này, công việc được bắt đầu với việc cải tạo toàn bộ sân (khán đài Đông), lắp đặt toàn ghế ngồi và đưa khán đài gần sân hơn và có mái che, cuối cùng được hoàn thành vào cuối thiên niên kỷ.
Gây dựng lại (1983–89)
Mùa hè 1983 đánh dấu một bước ngoặt trong lịch sử Chelsea. Huấn luyện viên John Neal thực hiện một loạt bản hợp đồng quan trọng để thay đổi tình hình câu lạc bộ. Tiền đạo Kerry Dixon từ Reading, cầu thủ chạy cánh khéo léo Pat Nevin từ Clyde, tiền vệ Nigel Spackman từ AFC Bournemouth và thủ môn Eddie Niedzwiecki từ Wrexham cùng với đó John Hollins trở lại với tư cách cầu thủ kiêm huấn luyện, tất cả tốn gần £500,000. Dixon cùng với David Speedie, một chữ ký khác của Neal tạo thành một cặp tiền đạo ăn ý và phối hợp tốt với Nevin, họ đã ghi gần 200 bàn thắng trong ba năm.
Một Chelsea hoàn toàn mới bắt đầu mùa giải 1983–84 với chiến thắng 5–0 trước Derby County trong ngày khai mạc và hướng tới suất lên hạng; cùng với đó là những điểm nhấn như chiến thắng 5–3 tại Fulham hay trận thắng 4–0 trước Newcastle United của Kevin Keegan. Sau giai đoạn chững lại giai đoạn Giáng Sinh, Neal đem về cầu thủ chạy cánh Mickey Thomas và Chelsea không để thua thêm bất cứ trận nào mùa giải đó nữa. Dixon ghi được 36 bàn ở mọi mặt trận – thành tích chỉ kém Bobby Tambling và Jimmy Greaves – câu lạc bộ lên hạng sau chiến thắng 5–0 trước đối thủ cũ Leeds United. Đội giành chức vô địch Second Division ở vòng đấu cuối cùng sau trận thắng trên sân Grimsby Town, với sự theo dõi của 10,000 cổ động viên Chelsea di chuyển tới Lincolnshire.
Ngay sau khi trở lại First Division, Chelsea không được coi là ứng cử viên cho suất tham dự cúp châu Âu mùa 1984-85, nhưng họ đã xếp vị trí thứ sáu, mặc dù sự kiện sân Heysel mùa giải đó khiến các câu lạc bộ Anh không được tham dự cúp châu Âu. Họ cũng trên đường vào trận chung kết League Cup thứ ba, được bốc thăm gặp ứng cử viên xuống hạng Sunderland ở bán kết. Tuy nhiên, cựu cầu thủ chạy cánh của Chelsea Clive Walker đã gây ấn tượng giúp đội bóng của ông có chiến thắng 3–2 trên sân Stamford Bridge qua đó giành chiến thắng 5–2 chung cuộc cho Sunderland, trận đấu diễn ra trong một vụ bạo động; trận đấu được tiếp tục với cảnh sát kỵ bịnh và các cổ động viên trên sân, sau đó bạo lực lan cả ra ngoài pjoos. Neal nghie hưu khi kết thúc mùa giải vì lý do sức khỏe, người thay thế ông là Hollins.
Mùa 1984–85 nổi bật với hàng rào điện bao quanh sân Stamford Bridge, đây là phản ứng của chủ tịch Ken Bates trước tình trạng đánh lộn và tràn xuống sân diễn ra thường xuyên. Tuy nhiên hội đồng địa phương không cho phép được sử dụng điện trên hàng rào, và nó bị tháo dỡ trong vài tháng sau đó
Trong mùa giải đầu tiên của Hollins, Chelsea tranh chấp danh hiệu vô địch, đứng đầu bảng vào tháng Hai, nhưng những chấn thương dài hạn của Dixon và Niedzwiecki, cùng với kết quả nghèo nàn, đặc biệt trong giai đoạn Phục sinh, khi mà động bóng nhận tới mười bàn thua chỉ trong hai trận đấu, chấm dứt cơ hội của đội bóng. Chiến thắng 2–1 trước Manchester United tại Old Trafford và tỉ số tương tự trước West Ham tại Upton Park – lại níu kéo thêm cơ hội – khi đó Chelsea kém đội đầu bảng Liverpool ba điểm khi giải đấu còn lại năm vòng. Tuy nhiên chỉ giành được một điểm trong những vòng đấu còn lại khiến đội bóng một nữa kết thúc ở vị trí thứ sáu. Mùa giải đó cũng câu lạc bộ giành Full Members Cup trong lần đầu tiên được tổ chức với chiến thắng 5–4 trước Manchester City trên sân Wembley, nhờ cú hat-trick của Speedie khiến cho cú lội ngược dòng từ 1–5 của đối thủ bất thành.
Sau một khởi đầu mới tươi sáng, phong độ của đội bóng lại đi xuống trở lại, kết thúc ở bị trí thứ 14 ở mùa giải tiếp theo. Tinh thần đội bóng đi xuống khi Hollins và trợ lý Ernie Walley mâu thuẫn với các cầu thủ trụ cột, nổi bật là Speedie và Spackman, những người bị bán ngay sau đó. Hollins bị sa thải vào tháng Ba mùa giải sau đó khi đội bóng đối diện với nguy cơ xuống hạng lần nữa. Bobby Campbell nắm quyền vào tháng Ba nhưng bất lực trong việc cứu Chelsea xuống hạng khi để thua trong trận play-off với Middlesbrough, một trận đấu mà một lần nữa gặp vấn đề trên khán đài và cổ động viên tràn xuống sân khiến sáu trận đấu của mùa giải sau đó cổ động viên bị cấm tới sân. Tuy vậy, câu lạc bộ đã trở lại ngay lập tức dù cho sáu trận đấu đầu tiên của mùa giải mới không giành được bất cứ một chiến thắng nào, câu lạc bộ lên hạng với tư cách nhà vô địch Second Division với 99 điểm, hơn 17 điểm so với đội á quân Manchester City.
Những năm 1990: Trở lại đường đua
Chelsea có sự trở lại ấn tượng tại First Division mùa 1989–90. Campbell cầm một đội hình gồm phần lớn những cầu thủ không tên tuổi nhưng vẫn kết thúc ở vị trí thứ năm trên bảng xếp hạng chung cuộc. Mặc dù lệnh cấm của các câu lạc bộ Anh tại cúp châu Âu được gỡ bỏ năm đó, Chelsea lỡ mất chiếc vé tham dự UEFA Cup do chỉ có một suất dành cho câu lạc bộ Anh tại giải đấu năm đó dành cho á quân giải vô địch quốc gia Aston Villa. Cũng trong mùa giải đó, ông dẫn dắt Chelsea tới chiếc Full Members Cup thứ hai, với chiến thắng 1–0 trước Middlesbrough trong trận chung kết tại Wembley. Mặc dù câu lạc bộ chi ra mua cầu thủ đầu tiên có giá tiền triệu bảng, Dennis Wise và Andy Townsend, mùa giải sau đó lại là một nỗi thất vọng, Chelsea chỉ kết thúc ở vị trí thứ 11 tại First Division và bị loại ra cả hai cúp quốc nội bởi các đối thủ hạng dưới.
Campbell được thăng chức quản lý chung cuối mùa giải đó; người kế nhiệm ông công việc quản lý đội là huấn luyện viên đội một Ian Porterfield, người giúp Chelsea kết thúc vị trí an toàn tại 1991–92 để giành được quyền tham dự mùa giải đầu tiên của Premier League. Porterfield bị sa thải giữa mùa do đội bóng không giành được bất kỳ một chiến thắng nào tại giải quốc gia trong hai tháng mùa 1992–93. Ông được thay thế bởi huấn luyện viên tạm quyền người hùng tại FA Cup 1970, David Webb, người đã giúp câu lạc bộ trụ hạng và kết thúc ở vị trí thứ 11. Webb được thay thế bởi cựu tiền vệ 35 tuổi người Anh Glenn Hoddle, người đã đưa Swindon Town lên hạng Premiership với cương vị cầu thủ kiêm huấn luyện viên.
Mùa giải đầu tiên của Hoddle tại Chelsea là một mùa bóng tệ hại, bị đe dọa bởi nguy cơ xuống hạng, việc trụ lại một phần quan trọng là nhờ vào những bàn thắng của chữ ký trị giá £1.5 triệu Mark Stein. Trong mùa giải đó, Chelsea vào đến chung kết FA Cup, nơi họ đối mặt với nhà vô địch Premiership Manchester United, đội bóng mà Chelsea đánh bại cả hai lần tại giải vô địch quốc gia mùa giải đó với tỉ số 1–0. Sau hiệp một kết thúc với tỉ số 0–0, United hưởng hai quả phạt đền từ trọng tài David Elleray chỉ trong vòng năm phút, cả hai được thực hiện thành công. Chelsea cố gắng tấn công, để lộ ra hàng thủ United giành chiến thắng chung cuộc 4–0. Dù vậy Chelsea vẫn được quyền tham dự UEFA Cup Winners' Cup 1994–95, do United đã có suất tham dự Champions League. Họ đã vào bán kết giải đấu đó, để thua 3–2 sau hai lượt trận trước nhà vô địch Real Zaragoza.
Tương lại của Chelsea tại Stamford Bridge lúc này đã được đảm bảo, Bates và vị giám đốc tỉ phú Matthew Harding luôn có sẵn tiền để câu lạc bộ mua sắm cầu thủ. Mùa hè năm 1995, Chelsea mang về hai cầu thủ nổi tiếng thế giới, huyền thoại người Hà Lan Ruud Gullit, trong một vụ chuyển nhượng tự do từ Sampdoria, và tiền đạo của Manchester United Mark Hughes (£1.5 triệu), cả hai đều có những đóng góp quan trọng vào thành công trong tương lai của đội bóng. Hoddle cũng mang về hậu vệ cánh tài năng người Romania Dan Petrescu với giá £2.3 triệu. Hoddle dẫn dắt Chelsea giành vị trí thứ 11 mùa 1995–96, và một lần nữa vào bán kết FA Cup, và sau đó từ chức để trở thành huấn luyện viên đội tuyển quốc gia Anh.
Phục hưng Ý: Gullit, Vialli và Zola (1996–2000)
thumb|[[Gianfranco Zola]] Gullit được bổ nhiệm làm cầu thủ kiên huấn luyện viên mùa 1996–97, và mang về một vài cầu thủ hàng đầu cho đội bóng, bao gồm nhà vô địch cúp châu Âu tiền đạo của Juventus Gianluca Vialli, trung vệ Pháp Frank Leboeuf và cầu thủ quốc tế người Ý Gianfranco Zola (sự khéo léo của ông làm nên sự phấn khích trên khán đài và được xem là một trong những cầu thủ vĩ đại nhất Chelsea) và Roberto Di Matteo (kỷ lục chuyển nhượng của câu lạc bộ với giá £4.9 triệu). Sau đó là sự gia nhập của tiền vệ mạnh mẽ và sung mãn người Uruguay Gus Poyet và "siêu dự bị" người Na Uy Tore André Flo. Với những cầu thủ như vậy, dưới thời Gullit và những người kế nhiệm ông Chelsea lần nữa trở thành một trong những đội bóng hàng đầu nước Anh và có danh tiếng nhờ lỗi chơi bóng khéo léo, giải trí và hấp dẫn nhờ những cầu thủ kỹ thuật, though the club's inconsistency against supposed "smaller" teams remained.
Gullit đã có mùa giải đầu tiên ấn tượng trên cương vị huấn luyện khi dẫn dắt Chelsea giành vị trí cao nhất kể từ năm 1990 (thứ sáu) và giành chức vô địch FA Cup, kết thúc 26 năm chờ đội một danh hiệu lớn. Trận đấu đáng nhớ nhất trong hành trình là cú lội ngược dòng tại vòng bốn trước Liverpool, nơi mà Chelsea với sự ấn tượng của Hughes, từ tỉ số thua 2–0 khi hết hiệp một đã có chiến thắng 4–2. Chiến thắng 2–0 trước Middlesbrough trong trận chung kết trên sân Wembley với khởi đầu điên cuồng khi Di Matteo ghi bàn chỉ sau 43 giây; Eddie Newton là người ghi bàn thắng còn lại. Chiến thắng là một kết thúc hạnh phúc cho một mùa giải mà bao trùm bởi đau thương khi vị giám đốc nổi tiếng Matthew Harding qua đời vào tháng Mười sau vụ tai nạn máy bay trực thăng sau trận đấu tại League Cup gặp Bolton Wanderers.
Gullit bất ngờ bị sa thải tháng 2 năm 1998, được cho là do tranh chấp hợp đồng, khi câu lạc bộ đang xếp thứ hai tại Premiership, và lọt vào bán kết cả hai giải đấu cúp. Một cầu thủ kiêm huấn luyện viên khác được bổ nhiệm, Vialli 33 tuổi. Vialli bắt đầu sự nghiệp huấn luyện với hai chức vô địch trong hai tháng. League Cup giành được sau chiến thắng 2–0 trước Middlesbrough trên sân Wembley (Di Matteo lại một lần nữa ghi bàn). Chelsea lọt vào chung kết Cup Winners' Cup sau chiến thắng nghẹt thở trước Vicenza tại bán kết. Để thua 1–0 trên sân khách và rồi nhận bàn thua trên sân nhà, Chelsea đã trở lại với chiến thắng 3–1 và đi tiếp, một lần nữa Hughes lại là chất xúc tác. Họ giành chức vô địch Cup Winners' Cup thứ hai sau chiến thắng 1–0 trước VfB Stuttgart trên Sân vận động Råsunda ở Stockholm, Zola ghi bàn trong tình huống chạm bóng đầu tiên cả ông khi vào sân sau 17 giây. Sau đó, Vialli cùng câu lạc bộ đánh bại nhà vô địch châu Âu Real Madrid 1–0 trong trận tranh Super Cup trên sân Stade Louis II ở Monaco.
Mùa giải Premiership 1998–99, Chelsea lần đầu cạnh tranh danh hiệu trong cả mùa giải. Dù thất bại trong trận mở màn với Coventry City, đội bóng bất bại tại giải quốc gia đến tận tháng Giêng và đứng đầu bảng xếp hạng giai đoạn Giáng Sinh. Cơ hội vô địch của họ tan biến sau trận thua trên sân nhà trước West Ham và một chuỗi trận hòa liên tiếp với Middlesbrough, Leicester City và Sheffield Wednesday vào tháng Tư, the Blues kết thúc ở vị trí thứ ba, bốn điểm kém hơn đội vô địch Manchester United. Một mùa giải đầy hứa hẹn kết thúc mà không giành được một danh hiệu nào, hành trình bảo vệ chức vô địch Cup Winners' Cup kết thúc ở bán kết sau khi để thua Mallorca còn hai giải đấu cúp quốc nội tại tứ kết. Vị trí thứ ba tại giải quốc gia vừa đủ để câu lạc bộ lần đầu tiên góp mặt tại Champions League.
Bốn mươi bốn năm sau khi bị từ chối cho tham dự ở mùa giải vô địch đầu tiên, Chelsea lần đầu góp mặt tại giải đấu cấp cao nhất châu Âu tháng 8 năm 1999 và họ đã có một chuỗi phong độ ấn tượng trên đường vào tứ kết gặp Barcelona. Trong đó có trận hòa đấng nhớ trên sân San Siro và Stadio Olimpico trước Milan và Lazio, cũng như chiến thắng 5–0 trước đội bóng Thổ Nhĩ Kỳ Galatasaray tại Sân vận động Ali Sami Yen. Trong trận tứ kết lượt đi gặp Barcelona tại Stamford Bridge, Chelsea vươn lên dẫn trước 3–0, chỉ để lọt lưới một bàn duy nhất vào những phút cuối bởi Luís Figo. Giữ kết quả 2–1 trong trận đấu lượt về trên sân Camp Nou, khi chỉ còn cách bán kết bảy phút, nhưng đội bóng nhận bàn thua thứ ba và để thua 5–1 sau hiệp phụ, chung cuộc để thua 6–4.
Lúc này, Chelsea sở hữu một đội hình đa quốc gia với Zola, Di Matteo, Poyet, thủ thành người Hà Lan Ed de Goey, và bộ ba vô địch World Cup người Pháp Frank Leboeuf, Marcel Desailly và Didier Deschamps. Dưới thời Vialli, Chelsea trở thành đội bóng đầu tiên trong lịch sử bóng đá Anh cho ra sân 11 cầu thủ người nước ngoài, đánh dấu sự quốc tế hóa các trận đấu. Mùa giải 1999–2000 đánh dấu phong độ trái ngược của Chelsea tại giải quốc gia và cúp châu Âu, đội bóng kết thúc thất vọng ở vị trí thứ năm. Vialli đã đưa Chelsea vô địch FA Cup lần thứ hai trong bốn năm mùa giải đó – lần này gặp Aston Villa, Di Matteo lại một lần nữa ghi bàn thắng quyết định – trong trận chung kết cuối cùng được tổ chức tại Wembley trước khi nó được xây dựng mới. Với chiếc Charity Shield giành được vào tháng Tám sau chiến thắng 2–0 trước Manchester United, Vialli trở thành huấn luyện viên thành công nhất Chelsea vào thời điểm ấy.
Claudio Ranieri (2000–2004)
Vialli chi ra gần £26 triệu để mang về những cầu thủ mới trong mùa hè, với cây săn bàn hàng đầu người Hà Lan Jimmy Floyd Hasselbaink và tiền đạo tài năng Iceland Eiður Guðjohnsen, nhưng bị sa thải vào tháng 9 năm 2000 sau khi chỉ thắng một trong năm trận đấu mở màn và, một lần nữa, nổi lên những tin đồn về mâu thuẫn giữa huấn luyện viên và các cầu thủ quan trọng. Ông được thay thể bởi một người Ý khác, Claudio Ranieri, bất chấp những bất đồng về ngôn ngữ, đã đưa đội bóng giành vị trí thứ sáu trong mùa giải đầu tiên. Ranieri từng bước xây dựng lại đội bóng, trẻ hóa đội hình bằng việc bán đi những cầu thủ lớn tuổi, bao gồm Wise và Poyet, và thay thế họ bởi John Terry, William Gallas, Frank Lampard và Jesper Grønkjær.
thumb|[[Roman Abramovich]] Mùa giải thứ hai của Ranieri có nhiều bước tiến triển hơn, chủ yếu là tại các giải đấu cúp, Chelsea vào đến bán kết League Cup và chung kết FA Cup, nhưng đều để thua đội vô địch Arsenal. Thành tích tại giải quốc gia có chút cải thiện dù Chelsea lần nữa lại kết thúc ở vị trí thứ sáu. Với những tin đồn về tình hình tài chính của đội bóng, Ranieri không mua thêm bất cứ một cầu thủ nào. Khiến cho sự kỳ vọng của Chelsea mùa giải 2002–03 hạn chế đi. Tuy nhiên Chelsea vẫn nằm trong nhóm tranh chấp danh hiệu, và có lẽ một trong những trận đấu quan trọng nhất trong lịch sử câu lạc bộ là trận thắng Liverpool 2–1 trong trận đấu cuối cùng của mùa giải qua đó kết thúc ở vị trí thứ tư qua đó dành suất tham dự Champions League cuối cùng trước đội bóng vùng Merseyside.
Với việc câu lạc bộ phải đối mặt với cuộc khủng hoảng tài chính, Bates bất ngờ bán Chelsea F.C. vào tháng 6 năm 2003 với giá £60 triệu. Khi làm như vậy, ông tường trình nhận được lợi nhuận cá nhân £17 triệu từ câu lạc bộ sau khi ông mua câu lạc bộ với giá £1 năm 1982 (cổ phần được giảm xuống dưới 30% qua từng năm). Chủ mới của câu lạc bộ là tỉ phú người Nga Roman Abramovich, người đồng thời gánh số nợ £80 triệu của câu lạc bộ và nhanh chóng thanh toán chúng. Sau đó ông chi