✨Lịch sử Úc

Lịch sử Úc

nhỏ|Úc nhìn qua vệ tinh Lịch sử Úc đề cập đến lịch sử khu vực và nhân dân ở Thịnh vượng chung Úc và những cộng đồng bản địa và thuộc địa tiền thân của nó. Người Úc cổ đại được cho là lần đầu tiên đến đại lục Úc theo đường biển từ Đông Nam Á hải đảo vào khoảng 40.000-70.000 năm trước. Các truyền thống mỹ thuật, âm nhạc, tinh thần mà họ tạo nên nằm trong số những truyền thống tồn tại lâu nhất trong lịch sử nhân loại.

Cư dân đảo ở eo biển Torres đầu tiên với khác biệt về sắc tộc và văn hóa với thổ dân Úc - đến từ Papua New Guinea ngày nay vào khoảng 2.500 năm trước và định cư tại các đảo ở eo biển Torres và bán đảo Cape York nằm ở mũi phía bắc của lục địa Úc.

Cuộc đổ bộ đầu tiên được biết đến của người châu Âu tại Úc là của nhà hàng hải người Hà Lan Willem Janszoon vào năm 1606. Cuối năm đó, nhà thám hiểm người Tây Ban Nha Luís Vaz de Torres đã đi qua nơi mà bây giờ được gọi là eo biển Torres và các đảo liên quan. Sau đó, có hai mươi chín nhà hàng hải người Hà Lan khác khám phá vùng bờ biển phía tây và phía nam vào thế kỷ XVII và đặt tên cho lục địa là Tân Hà Lan. Những người thu hoạch hải sâm Makassar đến bờ biển miền bắc Úc sau năm 1720 nhưng có thể xuất hiện sớm hơn. Những nhà thám hiểm châu Âu nối tiếp nhau khám phá lục địa, đến năm 1770 thì thuyền trưởng James Cook lập bản đồ bờ biển phía đông Úc cho Anh Quốc và trở về với các báo cáo chủ trương thuộc địa hóa tại vịnh Botany (hiện là thành phố Sydney).

Một hạm đội của Anh Quốc đến vịnh Botany vào tháng 1 năm 1788 nhằm thiết lập một thuộc địa hình sự. Trong thế kỷ tiếp theo, người Anh thiết lập các thuộc địa khác trên lục địa và các nhà thám hiểm châu Âu mạo hiểm tiến vào khu vực nội lục. Người Úc bản địa suy yếu đi nhiều và số lượng bị suy giảm do các dịch bệnh lan truyền từ những người thực dân và do xung đột với họ trong giai đoạn này.

Các phong trào tìm vàng và ngành nông nghiệp đem lại sự thịnh vượng cho Úc. Chế độ dân chủ nghị viện tự trị bắt đầu được thiết lập trên toàn bộ sáu thuộc địa của Anh từ giữa thế kỷ XIX. Thông qua trưng cầu dân ý, các thuộc địa chấp thuận thống nhất trong một liên bang vào năm 1901 và nước Úc hiện đại ra đời. Úc chiến đấu bên cạnh Anh trong hai cuộc chiến tranh thế giới và trở thành một đồng minh của Hoa Kỳ trước mối đe dọa từ Đế quốc Nhật Bản trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Giao thương với châu Á gia tăng và một chương trình nhập cư hậu chiến tiếp nhận trên 6,5 triệu người nhập cư từ mọi lục địa. Được hỗ trợ bởi sự nhập cư của người dân từ hơn 200 quốc gia kể từ khi Thế chiến thứ hai kết thúc, dân số Úc đã tăng lên hơn 23 triệu vào năm 2014 và duy trì nền kinh tế quốc gia lớn thứ 12 trên thế giới.

Úc nguyên thủy

thumb|Tranh trên đá tại Ubirr thuộc [[Vườn quốc gia Kakadu|Công viên quốc gia Kakadu. Bằng chứng về mỹ thuật Nguyên trú tại Úc có thể truy nguyên khoảng 30.000 năm.]]

Ta được biết các tổ tiên của người Úc bản địa được cho là đến Úc từ 40.000-70.000 năm trước và có thể là ngay từ 70.000 năm trước. Họ phát triển phương thức sinh hoạt săn bắn và hái lượm, thiết lập các truyền thống tinh thần và mỹ thuật lâu dài và sử dụng kỹ thuật đồ đá. Tại thời điểm tiếp xúc lần đầu với người châu Âu, ước tính dân số bản địa ít nhất là 350.000, trong khi các phát hiện khảo cổ học gần đây cho thấy rằng có thể từng duy trì dân số 750.000 người.

Tuyến đường mà những người định cư tới đã được thảo luận khá nhiều. Họ dường như đến bằng đường biển trong thời kỳ băng hà, khi New Guinea và Tasmania được nối với lục địa. Tuy nhiên, hành trình vẫn cần phải đi qua biển nên có thể xem họ là một trong những thủy thủ đầu tiên trên thế giới. Scott Cane đã viết vào năm 2013 rằng làn sóng đầu tiên có thể được thúc đẩy bởi siêu phun trào ở Hồ Toba. Nếu họ đến vào khoảng 70.000 năm trước, họ có thể đã vượt qua mặt nước từ Timor khi mực nước biển thấp nhưng nếu họ đến muộn hơn, khoảng 50.000 năm trước, một con đường nhiều khả năng sẽ là qua Moluccas đến New Guinea. Do các khu vực có khả năng đổ bộ đã nằm dưới mực nước khoảng 50 mét trong 15.000 năm qua nên không có khả năng xác định thời gian một cách chắc chắn.

thumb|Người đàn ông Kolaia đội chiếc mũ đội đầu trong một buổi lễ phóng hỏa ở sông Forrest, Tây Úc. Các thực hành tôn giáo của [[Thổ dân Úc gắn liền với thời kỳ mộng mơ đã được thực hành trong hàng chục nghìn năm.]]

Những hài cốt loài người sớm nhất được biết đến được phát hiện tại hồ cạn Mungo thuộc vùng tây nam của New South Wales. Các hài cốt phát hiện được tại Mungo được xem là một trong những hài cốt hỏa táng cổ xưa nhất được biết đến trên thế giới, cho thấy bằng chứng về lễ nghi tôn giáo thuở ban đầu của nhân loại. Theo thần thoại của người Úc cổ đại và các khung ảnh vật linh phát triển tại Úc thời nguyên thủy, thời kì mộng mơ là một thời đại thiêng liêng mà khi đó linh hồn tổ tiên đã sáng lập thế gian. Thời kì mộng mơ thiết lập luật lệ và các cấu trúc xã hội và các lễ nghi được thực hiện nhằm đảm bảo tính liên tục của sự sống và đất đai. Nó còn là một đặc điểm nổi bật của mỹ thuật Úc Nguyên trú. Mỹ thuật Nguyên trú được cho là truyền thống mỹ thuật hiện còn tồn tại có niên đại lâu dài nhất trên thế giới. Bằng chứng về mỹ thuật Nguyên trú có thể truy nguyên từ ít nhất là 30.000 năm và được phát hiện trên khắp lục địa Úc (đáng chú ý là tại Uluru và Công viên quốc gia Kakadu ở Lãnh thổ Bắc Úc). Theo các tiêu chí niên đại và sự phong phú, mỹ thuật hang động tại Úc có thể sánh được với Lascaux và hang Altamira tại châu Âu.

Manning Clark cho rằng tổ tiên của những người Úc cổ đại chậm chạp tiếp cận Tasmania, có lẽ là do sự cản trở của băng tuyết ở khu vực đông nam của lục địa. Ông lưu ý rằng người Úc cổ đại không phát triển nông nghiệp có thể là do thiếu các thực vật dạng hạt và động vật phù hợp để thuần hóa. Do đó, dân số vẫn ở mức thấp. Clark nhận định rằng ba thế lực định cư và thương nhân tiềm năng thời tiền châu Âu: người Ấn Độ giáo-Phật giáo tại miền nam Ấn Độ, người Hồi giáo tại miền bắc Ấn Độ và người Hoa đuối dần trong bước tiến về phương nam của họ và không nỗ lực định cư qua các eo biển chia tách Indonesia và Úc. Song các ngư dân bắt hải sâm đã tiếp cận bờ biển phía bắc của lục địa gọi nó là "Marege" hay "vùng đất hải sâm". Trong nhiều thế kỷ, mậu dịch hưng thịnh giữa người Makassar với dân Úc tại vùng bờ biển miền bắc Úc, đặc biệt là với người Yolngu ở đông bắc của Arnhem Land.

thumb|Một người đàn ông Luritja trình diễn cách thức tấn công bằng [[boomerang với khiên chắn (1920).]]

Mật độ dân số lớn nhất của người Úc thời đó phát triển tại các khu vực miền nam và miền đông, cụ thể là thung lũng sông Murray. Người Nguyên trú cư trú và sử dụng các tài nguyên trên lục địa một cách bền vững, đồng ý ngưng săn bắn và hái lượm trong các thời gian cụ thể để cho số lượng và tài nguyên có cơ hội bổ sung. "Firestick farming" được những người Úc miền bắc sử dụng để kích thích thực vật sinh trưởng và từ đó thu hút động vật. Tuy thế, việc những người Úc đầu tiên đến cùng với biến đổi khí hậu vẫn có tác động đáng kể đến lục địa, có thể đã góp phần vào sự tuyệt chủng của các động vật cỡ lớn tại Úc. Việc người Nguyên trú đưa chó Dingo cùng với săn bắn đến vào khoảng 3.000–4.000 năm trước có thể góp phần vào sự tuyệt chủng của chó sói Tasmania, quỷ Tasmania và gà bản địa Tasmania ở đại lục Úc.

Mặc dù tính liên tục văn hóa cao song sinh hoạt không phải là không có biến hóa đáng kể. Khoảng 10.000-12.000 năm trước, Tasmania bị cô lập khỏi đại lục và một số kỹ thuật thời đồ đá không tiếp cận đến người Tasmania (chẳng hạn các công cụ có cán bằng đá và sử dụng Boomerang). Lãnh thổ không phải luôn luôn hiền hòa; người Nguyên trú tại vùng đông nam Úc phải chịu "hơn một tá vụ phun trào núi lửa...(bao gồm cả) vụ phun trào của núi Gambier mới xẩy ra chỉ 1.400 năm trước." Tại vùng đông nam Úc gần hồ Condah ngày nay, các làng bán vĩnh cửu gồm các phòng bằng đá hình tổ ong được phát triển, nằm gần nguồn cung thực phẩm phong phú.

Làn sóng ban đầu của các nhà quan sát châu Âu như William Dampier miêu tả phương thức sinh hoạt săn bắn-hái lượm của dân Nguyên trú tại vùng bờ biển phía tây là gian khổ và "bi thảm". Mặt khác, thuyền trưởng James Cook tự thuật hành trình của mình rằng "người bản địa tại Tân Hà Lan" (dân Nguyên trú bờ biển phía đông mà ông tiếp xúc) có lẽ là hạnh phúc hơn nhiều so với người Âu. Watkin Tench thuộc Đệ Nhất Hạm đội ca tụng những người Nguyên trú ở Sydney là những người tốt bụng và vui vẻ, song ông cũng tường thuật về sự thù địch bạo lực giữa người Eora và Cammeraygal và lưu ý đến đấu khẩu kịch liệt giữa bạn mình là Bennelong với vợ của anh ta là Barangaroo. Những người định cư trong thế kỷ XIX như Edward Curr quan sát rằng người Nguyên trú "chịu đựng ít hơn và tận hưởng cuộc sống nhiều hơn đa số người văn minh." Sử gia Geoffrey Blainey viết rằng tiêu chuẩn vật chất trong sinh hoạt của người Nguyên trú về đại thể là cao, cao hơn nhiều người châu Âu sống vào thời người Hà Lan khám phá Úc.

Đến năm 1788, Úc có 250 dân tộc, nhiều dân tộc liên minh với nhau và trong mỗi dân tộc lại bao gồm một số thị tộc, ít thì 5-6 còn nhiều thì 30-40. Mỗi dân tộc có ngôn ngữ riêng và một vài trong đó dùng ngôn ngữ phức hợp, do đó tồn tại trên 250 ngôn ngữ, khoảng 200 ngôn ngữ trong số đó nay đã không còn. "Các quy tắc quan hệ họ hàng phức tạp quyết định các quan hệ xã hội của mọi người, các sứ giả ngoại giao và các lễ nghi tụ họp dàn xếp quan hệ giữa các nhóm," giữ cho việc đấu tranh, yêu thuật và tranh chấp nội bộ giảm đến mức tối thiểu.

Những người châu Âu định cư vĩnh viễn đến Sydney vào năm 1788 và nắm quyền kiểm soát hầu hết lục địa vào cuối thế kỷ XIX. Thành lũy của các xã hội Nguyên trú phần lớn không biến đổi vẫn tồn tại, đặc biệt là tại miền bắc và miền tây Úc trong thế kỷ XX. Một nhóm người Pintupi tại hoang mạc Gibson trở thành những người cuối cùng tiếp xúc với thế giới bên ngoài vào năm 1984. Những người thu hoạch hải sâm Makassar đến bờ biển miền bắc của Úc sau năm 1720, có thể từ trước đó. Những nhà thám hiểm người châu Âu khác tiếp tục thám hiểm cho đến khi nhà hàng hải người Anh James Cook yêu sách bờ biển phía đông của Úc cho Anh vào năm 1770 song không tiến hành đàm phán với các cư dân hiện hữu mặc dù trước khi khởi hành, Chủ tịch Hiệp hội Hoàng gia, một trong những nhà tài trợ của chuyến đi đã viết rằng người dân của bất kỳ vùng đất nào ông khám phá đều là

'những người sở hữu hợp pháp của một số Khu vực mà họ sinh sống một cách tự nhiên, theo nghĩa chặt chẽ nhất của từ này. Không Quốc gia Châu Âu nào có quyền chiếm giữ bất kỳ vùng nào của đất nước họ hoặc định cư giữa các quốc gia đó mà không có sự đồng ý tự nguyện của họ. Chinh phục những người như vậy là không chính đáng: bởi vì họ không bao giờ là kẻ xâm lược.'

Thống đốc đầu tiên là Arthur Phillip được chỉ thị lập quan hệ hữu nghị và hữu hảo với người Nguyên trú và tác động giữa những người mới đến ban đầu và các chủ đất cổ có khác biệt đáng kể trong thời kỳ thuộc địa- từ biểu hiện hiếu kỳ từ phía những người đàm thoại ban đầu là Bennelong và Bungaree cho đến hoàn toàn thù địch của Pemulwuy và Windradyne tại khu vực Sydney, và Yagan quanh Perth. Bennelong và một người bạn trở thành những người Úc bản địa đầu tiên đi thuyền đến châu Âu, tại đó, họ gặp Quốc vương George III. Bungaree đi cùng nhà thám hiểm Matthew Flinders trong hành trình đầu tiên vòng quanh Úc bằng đường biển. Pemulwuy bị buộc tội giết một người định cư da trắng vào năm 1790 và Windradyne chống lại sự bành trướng của người Anh qua dãy Blue.

Xung đột và bệnh tật

thumb|Two of the Natives of New Holland Advancing, To Combat (1770), bức vẽ của Sydney Parkinson, người vẽ tranh minh họa của James Cook.

Theo sử gia Geoffrey Blainey, tại Úc trong thời kỳ thuộc địa: "Trong một nghìn địa điểm biệt lập thỉnh thoảng xảy ra bắn súng và đâm nhau. Thậm chí tệ hơn, bệnh đậu mùa, sởi, cúm và các bệnh dịch khác quét từ trại dân Nguyên trú này sang trại khác... Những nhà chinh phục dân Nguyên trú chủ yếu là dịch bệnh và đồng minh của nó là sự mất tinh thần".

Xung đột ở huyện ven sông Hawkesbury Nepean gần khu định cư ở Sydney diễn ra từ năm 1795 đến năm 1816, bao gồm Chiến tranh Pemulwuy (1795–1802), Chiến tranh Tedbury (1808–1809) và Chiến tranh Nepean (1814–1816) cũng như bạo lực giữa các cuộc xung đột 1804–1805. Các cuộc chiến này sử dụng hầu hết các chiến thuật chiến tranh du kích; tuy nhiên, một số trận chiến thông thường cũng đã diễn ra. Các cuộc chiến tranh dẫn đến sự thất bại của các thị tộc bản địa Hawkesbury và Nepean, những người này sau đó đã bị tước đoạt đất đai.

Thậm chí trước khi người định cư châu Âu đến các khu vực xa bờ biển New South Wales, dịch bệnh Âu-Á thường có từ trước. Một dịch bệnh đậu mùa được ghi nhận gần Sydney vào năm 1789, tiêu diệt khoảng một nửa số người Nguyên trú quanh Sydney. Có khác biệt về nguồn gốc của dịch bệnh đậu mùa, một số nhà nghiên cứu cho rằng bệnh đậu mùa lan đến do tiếp xúc với ngư dân Indonesia tại cực bắc và sau đó lan truyền xuyên lục địa và đến khu vực Sydney vào năm 1789. Nghiên cứu khác của Craig Mear, Michael Bennett, và Christopher Warren) thì cho rằng có khả năng cao là đợt bùng phát đậu mùa 1789 là một hành động chủ tâm của hải quân Anh khi họ cạn đạn dược và cần khuếch trương khu định cư đến Parramatta. Đậu mùa đương thời lan truyền ra ngoài phạm vi của khu định cư châu Âu, bao gồm hầu hết miền đông nam Úc, tái xuất hiện vào 1829–30, làm thiệt mạng 40–60% dân số Nguyên trú.

thumb|Tuyên cáo được công bố tại [[Van Diemen's Land vào năm 1816 bởi Phó thống đốc Arthur, giải thích luật Anh dưới dạng hình ảnh cho người Nguyên trú Tasmania. Tasmania trải qua xung đột ở mức độ cao hơn so với các thuộc địa khác.]]

Tác động của người châu Âu đã gây ảnh hưởng sâu sắc đến cuộc sống của thổ dân và mặc dù mức độ bạo lực vẫn còn được tranh luận, đã có xung đột đáng kể ở biên giới. Đồng thời, một số người định cư đã biết rõ rằng họ đang chiếm đoạt đất đai của thổ dân Úc. Năm 1845, người định cư tên Charles Griffiths đã tìm cách biện minh cho điều này khi viết; "Câu hỏi đặt ra là ai là người tốt hơn - những kẻ dã man, sinh ra ở một đất nước mà họ đi qua nhưng hiếm khi được xem là chiếm giữ... hay những người văn minh đến... quốc gia không hiệu quả để chiếm giữ nó và mang đến các ngành nghề giúp ích cho cuộc sống. "

Từ những năm 1960, các học giả Úc bắt đầu đánh giá lại những giả định của châu Âu về thổ dân Úc — với các tác phẩm bao gồm Tác động chết người (1966) của Alan Moorehead và tác phẩm lịch sử mang tính bước ngoặt của Geoffrey Blainey, 'Triumph of the Nomads' '(1975). Năm 1968, nhà nhân chủng học W.E.H. Stanner đã mô tả việc thiếu các tài liệu lịch sử về quan hệ giữa người châu Âu và thổ dân Úc là "sự im lặng vĩ đại của nước Úc". Nhà sử học Henry Reynolds lập luận rằng có sự "bỏ quên lịch sử" về các thổ dân cho đến cuối những năm 1960. Các bình luận ban đầu thường có xu hướng mô tả Thổ dân sắp tuyệt chủng sau khi người châu Âu đến. Cuốn sách năm 1864 của William Westgarth về thuộc địa Victoria đã nhận xét: "trường hợp của những người thổ dân Victoria xác nhận... có vẻ như một quy luật bất biến của tự nhiên rằng những chủng tộc đen tối thấp kém như vậy sẽ biến mất."

thumb|upright|[[Truganini, một thổ dân Tasmania sống sót sau đợt bùng phát dịch bệnh và các cuộc xung đột sau khi người Anh xâm chiếm Van Diemen's Land]]

Nhiều sự kiện bạo lực phát sinh khi những người Nguyên trú tìm cách bảo vệ đất của mình trước sự xâm lấn và khi những người định cư và chủ trại chăn nuôi gia súc tìm cách thiết lập sự hiện diện của họ. Trong tháng 5 năm 1804, tại vịnh Risdon, Van Diemen's Land, có thể có 60 người Nguyên trú bị giết khi họ tiếp cận thị trấn. Người Anh thiết lập một tiền đồn tại Van Diemen's Land vào năm 1803. Mặc dù lịch sử Tasmania là một trong các vấn đề tranh luận cao nhất giữa các sử gia hiện đại, song xung đột giữa những người thực dân và dân Nguyên trú được đề cập đến trong một số tường thuật đương thời với tên gọi Chiến tranh Đen. Tác động cộng hưởng của dịch bệnh, tước đoạt đất đai, hôn nhân dị chủng và xung đột dẫn đến sụt giảm dân số Nguyên trú Tasmania từ vài nghìn người khi người Anh đến xuống vài trăm vào thập niên 1830. Ước tính số người bị giết tại Van Diemen's Land trong giai đoạn đầu ước lượng khoảng 300, song việc xác minh con số chính xác là không thể. Năm 1830, Thống đốc Sir George Arthur đã cử một nhóm vũ trang (Black Line) đẩy các bộ tộc ở Sông Lớn và Vịnh Oyster ra khỏi Các khu vực định cư của người Anh. Nỗ lực đã thất bại và George Augustus Robinson đã đề xuất việc giải giáp để hòa giải với những thành viên bộ lạc còn lại vào năm 1833. Với sự hỗ trợ của Truganini làm người hướng dẫn và phiên dịch, Robinson đã thuyết phục những thành viên bộ lạc còn lại đầu hàng đến một khu định cư mới biệt lập tại đảo Flinders, nơi mà sau này hầu hết họ đều chết vì bệnh tật.

Năm 1838, có ít nhất hai mươi tám người Nguyên trú bị sát hại tại Myall Creek thuộc New South Wales, dẫn đến việc tòa án thuộc địa kết án chưa có tiền lệ và treo cổ bảy người da trắng định cư. Những người Nguyên trú cũng tấn công những người da trắng định cư — năm 1838 có mười bốn người châu Âu bị sát hại tại sông Broken thuộc khu vực Port Phillip, bởi người Nguyên trú tại sông Ovens. Bảo hộ trưởng dân Nguyên trú khu vực Port Phillip George Augustus Robinson từng được bảo rằng "nếu một thành viên của một bộ lạc phạm tội, tiêu diệt toàn bộ." Bộ trưởng Thuộc địa của Queensland's Colonial A.H. Palmer viết vào năm 1884 "bản tính của người da đen rất xảo trá đến nỗi chỉ có thể chỉ đạo họ bằng sự sợ hãi—trong thực tế đó là cách khả dĩ duy nhất để cai trị...người Úc Nguyên trú...bằng cũ lực tàn bạo"

thumb|left|Nông dân thổ dân tại Trạm bảo hộ thổ dân Loddon ở [[Franklinford, Victoria, năm 1858]]

Từ thập niên 1830, các chính phủ thuộc địa thiết lập các chức vụ Bảo hộ dân Nguyên trú trong một nỗ lực nhằm tránh ngược đãi các dân tộc Bản địa và thực thi chính sách cai trị đối với họ. Các giáo hội Cơ Đốc tại Úc nỗ lực cải đạo dân Nguyên trú và thường được chính phủ sử dụng để tiến hành các chính sách phúc lợi và đồng hóa. Những tăng lữ như Tổng giám mục CÔng giáo đầu tiên của Sydney, John Polding tán thành mãnh liệt các quyền lợi và phẩm giá của dân Nguyên trú và nhà hoạt động thổ dân nổi tiếng Noel Pearson (sinh năm 1965), người đã truyền bá Giáo hội Luther ở Cape York, đã viết rằng các sứ mệnh truyền giáo Cơ đốc trong suốt lịch sử thuộc địa của Úc "đã cung cấp một nơi ẩn náu của cuộc sống địa ngục ở biên giới Australia đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực dân hóa ".

Khủng hoảng vịnh Caledon năm 1932–34 nằm trong số những sự kiện tác động bạo lực cuối cùng trên "biên giới" của người Úc bản địa và phi bản địa. Khi khủng hoảng phát sinh, dư luận toàn quốc đứng sau những người Nguyên trú tham dự và lần đầu tiên xảy ra chống án nhân danh một người Úc bản địa đến Tòa án Thượng thẩm Úc. Sau khủng hoảng, nhà nhân loại học Donald Thomson được chính phủ phái đi sống cùng người Yolngu. Ở những nơi khác trong khoảng thời gian này, các nhà hoạt động như Sir Douglas Nicholls bắt đầu các chiến dịch đòi quyền lợi cho thổ dân trong hệ thống chính trị được thiết lập ở Úc và thời đại xung đột biên giới đã khép lại.

Hợp tác

thumb|300x300px| Thuyền trưởng Hunter, Collins và Johnston cùng với Thống đốc Phillip, Bác sĩ phẫu thuật White đến thăm một phụ nữ đau khổ bản địa New South Wales tại một túp lều gần Port Jackson 1793 - Alexander Hogg Các cuộc chạm trán ở biên giới ở Úc không phải là tiêu cực. Những lời kể tích cực về các phong tục và cuộc gặp gỡ của Thổ dân cũng được ghi lại trong nhật ký của các nhà thám hiểm châu Âu thời kỳ đầu, những người thường dựa vào sự trợ giúp và hướng dẫn của người Thổ dân: Charles Sturt đã thuê thổ dân dẫn đường để khám phá Murray-Darling; người sống sót duy nhất của cuộc thám hiểm của Burke và Wills được các thổ dân địa phương chăm sóc và nhà thám hiểm thổ dân nổi tiếng Jackey Jackey đã trung thành đi cùng người bạn xấu số Edmund Kennedy đến Cape York.

Loại bỏ trẻ em

Loại bỏ trẻ em bản địa mà theo đó, những đứa trẻ thuộc chủng tộc hỗn hợp của thổ dân Úc và người dân đảo ở eo biển Torres bị các cơ quan chính phủ Liên bang và Tiểu bang Úc và các cơ quan truyền giáo của giáo hội loại bỏ khỏi gia đình là một chính sách được thực hiện tích cực trong khoảng thời gian từ khoảng năm 1905 đến năm 1969. Ủy ban Nhân quyền và Cơ hội Bình đẳng lập luận rằng những lần xóa bỏ này cấu thành tội ác diệt chủng có chủ đích và có tác động lớn đến dân số bản địa. Những cách giải thích như vậy về lịch sử thổ dân bị một số nhà sử học như Keith Windschuttle cho là phóng đại hoặc bịa đặt vì lý do chính trị hoặc ý thức hệ. Cuộc tranh luận này là một phần của cái được gọi là Các cuộc chiến lịch sử ở Úc.

Khám phá của người châu Âu thời kỳ đầu

Những khám phá và các cuộc thăm dò của người Hà Lan

[[Tập tin:Australia discoveries by Europeans before 1813 en.png|thumb|Những cuộc thám hiểm của người châu Âu cho đến năm 1812

]]

Mặc dù tồn tại một thuyết về việc người Bồ Đào Nha khám phá Úc trong thập niên 1520, song nó thiếu bằng chứng rõ ràng. Tàu Duyfken của Hà Lan, dưới quyền Willem Janszoon tiến hành cuộc đổ bộ được ghi chép đầu tiên tại Úc vào năm 1606. Trong cùng năm đó, một đoàn thám hiểm của Tây Ban Nha dưới quyền Pedro Fernandez de Quiros đi đến vùng biển lân cận Úc và đổ bộ lên Tân Hebrides và cho rằng quần đảo này là lục địa phương nam huyền thoại nên đặt cho vùng đất là: "Terra Austral del Espiritu Santo" (Đất Phương Nam của Thánh Linh). Cũng trong năm đó, cấp phó của De Quiros là Luís Vaez de Torres đi qua eo biển Torres và có thể đã trông thấy bờ biển miền bắc Úc.

Người Hà Lan theo các tuyến tàu biển đến Đông Ấn Hà Lan hoặc khi đi tìm vàng, gia vị hoặc truyền đạo Cơ Đốc tiếp tục đóng góp một lượng lớn kiến thức cho người châu Âu về bờ biển Úc. Năm 1616, Dirk Hartog đi chệch hành trình từ Mũi Hảo Vọng đến Batavia và đổ bộ lên một đảo ngoài khơi vịnh Shark, Tây Úc.

Năm 1627, bờ biển miền nam Úc vô tình được François Thijssen khám phá và được đặt tên là 't Land van Pieter Nuyts nhằm vinh danh hành khách có cấp bậc cao nhất là Pieter Nuyts. Năm 1628, một đội tàu của Hà Lan do Toàn quyền Đông Ấn Hà Lan Pieter de Carpentier phái đi nhằm khám phá bờ biển miền bắc Úc. Những tàu này khảo sát trên phạm vi rộng, đặc biệt là tại vịnh Carpentaria và đặt tên cho vịnh để vinh danh De Carpentier.

Một bản đồ thế giới được khảm trên sàn của Burgerzaal ("Sảnh Burger") của ("Tòa thị chính") Stadhuis Amsterdam mới vào năm 1655 cho thấy bản đồ của Hà Lan về phần lớn bờ biển Úc. Dựa trên bản đồ năm 1648 của Joan Blaeu, Nova et Accuratissima Terrarum Orbis Tabula kết hợp những khám phá của Tasman sau đó được tái tạo trong bản đồ, Archipelagus Orientalis sive Asiaticus được xuất bản trong Kurfürsten Atlas (Atlas of the Great Elector).

Năm 1664, nhà địa lý người Pháp Melchisédech Thévenot đã xuất bản bản đồ Tân Hà Lan trong cuốn Relations de Divers Voyages Curieux . Thévenot đã chia lục địa này thành hai phần, Nova Hollandia ở phía tây và Terre Australe ở phía đông. Emanuel Bowen đã sao chép bản đồ của Thevenot trong Hệ thống địa lý hoàn chỉnh (London, 1747) của ông và đặt lại tiêu đề là Bản đồ hoàn chỉnh của lục địa phía Nam và thêm ba chữ khắc quảng cáo lợi ích của việc khám phá và thuộc địa hóa đất nước. Một câu trong lời đề tặng có nội dung là:

Bản đồ của Bowen đã được xuất bản lại trong các ấn bản của John Campbell vềNavigantium atque Itinerantium Bibliotheca, hay Những chuyến du hành và những chuyến đi của John Harris (1744–1748, 1764). Cuốn sách này khuyến nghị khám phá bờ biển phía đông của Tân Hà Lan với tầm nhìn về một thuộc địa của Anh theo lộ trình của Abel Tasman đến Van Diemen's Land.

Mặc dù có nhiều đề xuất thuộc địa hóa, trong đó đáng chú ý là của Pierre Purry từ 1717 đến 1744, song không đề xuất nào được tiến hành chính thức. Người Úc bản địa ít có năng lực trong việc buôn bán với người châu Âu so với các dân tộc tại Ấn Độ, Đông Ấn, Trung Quốc và Nhật Bản. Công ty Đông Ấn Hà Lan kết luận rằng "không có gì để làm ở đó", họ bác bỏ kế hoạch của Purry với lý do chi phí cao và không có lợi.

Các khám phá khác

thumb|[[James Cook là người châu Âu đầu tiên tiếp xúc với đường bờ biển phía đông của Úc vào năm 1770.]]

Ngoại trừ các chuyến thăm tiếp tục của người Hà Lan ở phía tây, Úc phần lớn vẫn chưa được người châu Âu ghé đến cho đến khi có những đoàn thám hiểm đầu tiên của Anh. John Callander đưa ra một đề xuất cho Anh vào năm 1766 nhằm thành lập một thuộc địa dành cho các tù nhân bị đày tại Nam Đại Dương hoặc tại Terra Australis để tạo điều kiện cho mẫu quốc khai thác của cải của các khu vực này. Ông nói: "Thế giới này phải giới thiệu cho chúng ta nhiều thứ hoàn toàn mới vì cho đến nay chúng ta vẫn còn ít kiến thức về nó giống như nó tồn tại ở một hành tinh khác".

Năm 1769, thuyền trưởng James Cook chỉ huy HMS Endeavour đi đến Tahiti để quan sát và ghi nhận về sao Kim đi ngang qua Mặt Trời. James Cook cũng thực hiện chỉ thị mật của Bộ Hải quân về việc xác định Lục địa phương Nam giả tưởng. Lục địa này không được tìm thấy là một sự thất vọng đối với Alexander Dalrymple và các thành viên khác của Hiệp hội Hoàng gia, những người đã thúc giục Bộ Hải quân thực hiện sứ mệnh này. Cook quyết định khảo sát bờ biển phía đông của Tân Hà Lan, nơi duy nhất gần như chưa được các nhà hàng hải người Hà Lan lập bản đồ.

Ngày 19 tháng 4 năm 1770, Endeavour trông thấy bờ biển phía đông của Úc và mười ngày sau thì đổ bộ lên vịnh Botany. James Cook lập bản đồ bờ biển về phía bắc cùng với nhà tự nhiên học trên tàu là Joseph Banks, nhân vật này sau đó báo cáo tán thành khả năng thiết lập một thuộc địa tại vịnh Botany. James Cook chính thức tuyên bố quyền chiếm hữu với bờ biển phía đông của Tân Hà Lan vào ngày 21/22 tháng 8 năm 1770. Ông lưu ý trong sổ ghi chép của mình rằng ông "không thể đổ bộ lên bờ biển phía Đông của Tân Hà Lan này nữa và ở phía Tây, tôi không có phát hiện mới nào, vinh dự thuộc về các Nhà hàng hải người Hà Lan và như vậy họ có thể tuyên bố nó là lãnh thổ của họ [những từ in nghiêng bị gạch bỏ trong bản gốc] nhưng Bờ biển phía Đông từ Vĩ tuyến 38 độ Nam xuống đến nơi này, tôi tin chắc rằng chưa bao giờ được nhìn thấy hoặc ghé đến bởi bất kỳ người châu Âu nào trước chúng tôi và do đó trên nguyên tắc, nó thuộc về Đại Anh"[những từ in nghiêng bị gạch chéo trong bản gốc].

Năm 1772, một đoàn thám hiểm của Pháp dưới quyền Louis Aleno de St Aloüarn trở thành những người châu Âu đầu tiên chính thức tuyên bố chủ quyền đối với bờ biển phía tây của Úc, song lại không có nỗ lực thuộc địa hóa sau đó. Tham vọng của Quốc vương Thụy Điển Gustav III về thiết lập một thuộc địa cho nước mình tại sông Swan vào năm 1786 thì bị chết yểu. Cho đến năm 1788, khi các điều kiện kinh tế, kỹ thuật và chính trị tại Anh khiến việc thuộc địa hóa trở nên khả thi và có giá trị, nước này mới tiến hành một nỗ lực lớn khi phái Đệ Nhất hạm đội đến New South Wales.

Thuộc địa hóa

Các kế hoạch thuộc địa hóa

thumb|upright| Hai trong số những người bản địa ở New Holland, Tiến lên Chiến đấu (1770), được phác thảo bởi họa sĩ của Cook, [[Sydney Parkinson]] thumb|left| Sơ đồ chung về New Holland bao gồm [[New South Wales & vịnh Botany với các quốc gia lân cận và các vùng đất mới được khám phá, được xuất bản trong An history of the Discovery of New Holland and New South Wales , London, Fielding và Stockdale, tháng 11 năm 1786]]

Mười bảy năm sau khi Cook đổ bộ lên bờ biển phía đông của Úc, chính phủ Anh quyết định thiết lập một thuộc địa tại vịnh Botany. Chiến tranh Cách mạng Mỹ (1775–1783) khiến Anh mất hầu hết thuộc địa của mình tại Bắc Mỹ và cân nhắc thiết lập các lãnh thổ thay thế. Năm 1779, Joseph Banks đề xuất vịnh Botany là một địa điểm phù hợp cho việc định cư, nói rằng "Không có gì phải nghi ngờ rằng một vùng đất như Tân Hà Lan, vốn lớn hơn toàn châu Âu, sẽ cung cấp vật chất cho một chuyến trở về có lợi nhuận." Theo hướng dẫn của Joseph Banks, một người Mỹ trung thành với Đế quốc tên là James Matra, người cũng từng du hành với Cook, trình "Một đề xuất về thành lập một khu định cư tại New South Wales" (23 tháng 8 năm 1783), đề xuất thành lập một thuộc địa gồm có những người Mỹ trung thành với Đế quốc, người Hoa và các đảo Nam Đại Dương (song không phải cho tù nhân).

James Matra trình bày rằng: quốc gia này thích hợp lập các đồn điền mía, bông và thuốc lá; gỗ New Zealand và gai hoặc lanh có thể trở thành các hàng hóa có giá trị; nó có thể tạo thành một căn cứ cho mậu dịch Thái Bình Dương và nó có thể là một sự đền bù phù hợp cho những người Mỹ trung thành với Đế quốc muốn chuyển đến. Sau một cuộc gặp mặt với Quốc vụ khanh Thomas Townshend vào năm 1784, James Matra sửa đổi đề xuất của mình để đưa các tù nhân vào thành phần người định cư, cân nhắc rằng điều này sẽ có lợi cho cả "Kinh tế với quần chúng, & Nhân đạo với cá nhân".

Kế hoạch của Matra định hình việc định cư ban đầu. Các ghi chép cho biết chính phủ đã cân nhắc nó vào năm 1784. Các báo tại Luân Đôn công bố vào tháng 11 năm 1784 rằng: "Một kế hoạch đã được trình lên Thủ tướng và nay là trước Nội các về thành lập một thuộc địa mới tại Tân Hà Lan. Vùng đất rộng lớn này....có thể đầy hứa hẹn". Chính phủ cũng hợp nhất khu định cư đảo Norfolk vào kế hoạch của họ vì gỗ và lanh trên đảo.

Đồng thời, những người theo chủ nghĩa nhân đạo và cải cách tiến hành vận động tại Anh nhằm chống lại các điều kiện khủng khiếp trong các trại tù và tàu chở tù nhân của Anh. Năm 1777, nhà cải cách nhà tù John Howard viết The State of Prisons in England and Wales, trình bày các điều kiện khắc nghiệt của hệ thống nhà tù trước "xã hội văn minh"." Vận chuyển tù nhân đã tồn tại trong luật hình sự Anh và cho đến Cách mạng Mỹ đã có khoảng một nghìn tù nhân mỗi năm được đưa đến Maryland và Virginia. Theo sử gia David Hill, "Người châu Âu hiểu biết rất ít về địa lý toàn cầu" và với "các tù nhân tại Anh, việc bị đày đến vịnh Botany là một viễn cảnh khủng khiếp." Lặp lại lời của John Callander, ông nói Úc "có thể như hành tinh khác."

Quyết định định cư được đưa ra khi dường như bùng nổ nội chiến tại Hà Lan có thể dẫn đến một cuộc chiến mà trong đó Anh sẽ phải đối diện với liên minh gồm ba cường quốc hải quân là Pháp, Hà Lan và Tây Ban Nha, thế lực từng khiến Anh thất bại vào năm 1783. Trong hoàn cảnh này, lợi thế chiến lược của một thuộc địa tại New South Wales được mô tả trong đề xuất của James Matra là hấp dẫn. Năm 1790, trong Khủng hoảng Nootka, Anh từng lập các kế hoạch về các cuộc viễn chinh hải quân chống các thuộc địa của Tây Ban Nha tại châu Mỹ và Philippines, trong đó New South Wales được phân vai trò là một căn cứ để "nghỉ ngơi, liên lạc và triệt thoái". Đầu thế kỷ XIX, khi có đe dọa hoặc nổ ra chiến tranh giữa Anh và Tây Ban Nha, các kế hoạch này lại được hồi sinh nhưng vì chiến sự nhanh chóng kết thúc nên chúng không được thực hiện.

Georg Forster là người đi cùng với James Cook trong hành trình Resolution (1772–1775), viết vào năm 1786 về triển vọng tương lai của thuộc địa Anh: "Tân Hà Lan, một hòn đảo có kích thước khổng lồ hoặc có thể bảo nó là một lục địa thứ ba, là quê hương tương lai của một xã hội văn minh mới..." Thương nhân mạo hiểm và muốn lập thuộc địa tại vùng tây nam của Úc dưới quốc kỳ Thụy Điển, William Bolts, nói với Đại sứ Thụy Điển tại Paris là Erik von Staël trong tháng 12 năm 1789 rằng người Anh đã thành lập tại vịnh Botany, "một khu định cư mà theo thời gian sẽ trở nên quan trọng nhất đối với Thương nghiệp Toàn cầu".

Thành lập các thuộc địa Anh

thumb|left|[[Arthur Phillip là Thống đốc New South Wales đầu tiên.]]

Lãnh thổ mà Anh yêu sách bao gồm toàn bộ lục địa Úc ở phía đông kinh tuyến 135° Đông và toàn bộ các đảo tại Thái Bình Dương giữa các vĩ độ của Mũi York và cực nam của Van Diemen's Land (Tasmania). Giới hạn 135° Đông được xác định theo phân chia kinh tuyến Tân Hà Lan từ Terra Australis thể hiện trong Complete Map of the Southern Continent của Emanuel Bowen, phát hành trong các phiên bản của John Campbell về Navigantium atque Itinerantium Bibliotheca của John Harris (1744–1748, và 1764). Đó là một tuyên bố lớn gây phấn khích vào thời điểm đó: người dịch tiếng Hà Lan của Đệ nhất Hạm đội và tác giả của Watkin Tench A Narrative of the Expedition to Botany Bay đã viết: "vùng đất nằm tách biệt này chắc chắn là vùng đất tách biệt lớn nhất trên toàn bộ bề mặt trái đất." Sĩ quan chỉ huy hải quân người Tây Ban Nha Alessandro Malaspina, người đến Sydney trong tháng 3- tháng 4 năm 1793 báo cáo với chính phủ của mình rằng "Vận chuyển tù nhân đến đây chỉ là phương tiện chứ không phải là mục đích hướng đến. Khuếch trương lãnh thổ, nghiên cứu thương phẩm và khám phá các mỏ mới là các mục đích thực sự". Một người Pháp là François Péron, thành viên trong đoàn thám hiểm của Nicolas Baudin đến Sydney vào năm 1802 và báo cáo với chính phủ Pháp: "Làm thế nào mà một cuộc xâm lấn khổng lồ như vậy có thể hoàn thành mà không có phàn nàn nào tại châu Âu để kháng nghị điều đó? Sao có thể hiểu được rằng Tây Ban Nha, thế lực trước đó từng đưa ra rất nhiều phản đối trước việc chiếm đóng Malouines (Quần đảo Falkland) lại ngoan ngoãn cho phép một đế quốc ghê gớm như vậy xuất hiện để cạnh tranh với các thuộc địa giàu có của họ...?

Thuộc địa bao gồm New Zealand ngày nay. Đến năm 1817, chính phủ Anh rút lại yêu sách lãnh thổ mở rộng bao trùm Nam Thái Bình Dương. Trên thực tế, các lệnh của Thống đốc thể hiện rằng không điều hành các đảo tại Nam Thái Bình Dương. Tổ chức Tin Lành Church Missionary Society quan ngại về các hành động tàn bạo chống lại người bản địa tại các đảo Nam Đại Dương và sự thiếu hiệu quả của chính phủ New South Wales trong việc đối phó với tình trạng vô pháp luật. Do vậy, ngày 27 tháng 6 năm 1817, Quốc hội Anh thông qua một đạo luật mà trong đó mô tả Tahiti, New Zealand và các đảo khác tại Nam Thái Bình Dương không nằm trong lãnh địa của quân chủ bệ hạ.

1788: New South Wales

left|thumb| Thành lập khu định cư Port Jackson tại Vịnh Botany ở New South Wales vào năm 1788 - Thomas Gosse|300x300px

Thuộc địa New South Wales của Anh được thành lập khi Đệ Nhất hạm đội gồm 11 tàu đến dưới quyền thuyền trưởng Arthur Phillip đến vào tháng 1 năm 1788. Ban đầu nó có trên một nghìn người định cư, kể cả 778 tù nhân (192 nữ giới và 586 nam giới). Vài ngày sau khi đến vịnh Botany, hạm đội chuyển đến nơi phù hợp hơn là Port Jackson và tại đây một khu định cư được thành lập tại vịnh Sydney vào ngày 26 tháng 1 năm 1788. Ngày này về sau trở thành ngày quốc khánh Úc, ngày Úc. Thuộc địa chính thức được Thống đốc Phillip công bố vào ngày 7 tháng 2 năm 1788 tại Sydney. Vịnh Sydney cung cấp một nguồn cung nước ngọt và một bến cảng an toàn.

Thống đốc Arthur Phillip được trao toàn quyền đối với các cư dân của thuộc địa. Ý định cá nhân của Arthur Phillip là thiết lập quan hệ hài hòa với những người Nguyên trú bán địa và nỗ lực cải tạo cũng như đưa các tù nhân ở thuộc địa vào kỷ luật. Arthur Phillip và một số nhân viên của mình—đáng chú ý nhất là Watkin Tench—để lại các nhật ký và báo cáo mà trong đó kể về những gian khổ lớn lao trong những năm đầu tiên. Các nhân viên của Phillip thường tuyệt vọng về tương lai của New South Wales, nguồn cung từ hải ngoại thì khan hiếm. Từ năm 1788 đến năm 1792 có khoảng 3546 tù nhân nam và 766 tù nhân nữ đổ bộ lên Sydney—nhiều người là "tội phạm chuyên nghiệp" và có ít kỹ năng cần thiết để định cư. Nhiều người mới đến cũng ốm yếu hoặc thiếu sức khỏe lao động và tình trạng sức khỏe của tù nhân chỉ xấu đi do làm việc nặng nhọc và dinh dưỡng kém tại khu định cư. Tình hình dinh dưỡng tiếp cận điểm khủng hoảng vào năm 1790 và Đệ Nhị hạm đội cuối cùng đến vào tháng 6 năm 1790 đã mất một phần tư số 'hành khách' do đau yếu, trong khi điều kiện của tù nhân của Đệ Tam hạm đội khiến Phillip kinh hãi. Tuy nhiên, từ năm 1791, các tàu đến thường xuyên hơn và họ bắt đầu buôn bán làm giảm đi cảm giác bị cô lập và cải thiện việc tiếp tế.

thumb|[[Sydney những năm 1794-1796]]

Arthur Phillip phái các đoàn thám hiểm nhằm tìm kiếm vùng đất tốt hơn, tập trung tại khu vực Parramatta và chuyển nhiều tù nhân từ cuối năm 1788 đến để thành lập một thị trấn nhỏ, nơi này trở thành trung tâm chính của đời sống kinh tế thuộc địa. Điều này khiến vịnh Sydney chỉ còn là một cảng quan trọng và tập trung vào sinh hoạt xã hội. Trang thiết bị yếu kém và không quen thuộc với đất đai, khí hậu tiếp tục cản trở việc khuếch trương nông nghiệp từ Farm Cove đến Parramatta và Toongabbie, song một chương trình xây dựng với sự hỗ trợ của các lao động tù nhân khiến tình hình dần tiến triển. Từ năm 1788 đến năm 1792, các tù nhân và cai tù chiếm phần lớn dân số nhưng sau đó, số lượng các cựu tù nhân được phóng thích bắt đầu tăng dần, họ được cấp đất và tiên phong trong lĩnh vực kinh tế tư nhân, sau này còn có thêm các binh sĩ mãn hạn phục vụ quân đội và cuối cùng là các dân di cư tự do đến từ Anh. Thống đốc Phillip rời thuộc địa về Anh vào ngày 11 tháng 12 năm 1792, khu định cư mới vừa vượt qua nạn đói và bị cô lập cao độ đã bốn năm.

Thiết bị và khẩu hiệu của Huy hiệu New South Wales được Vua George III phê duyệt vào ngày 4 tháng 8 năm 1790, hướng dẫn những ý tưởng do các cố vấn cấp bộ của ông nắm giữ về bản chất và triển vọng của thuộc địa. Ngài Joseph Banks đã tham gia chặt chẽ vào việc thiết kế huy hiệu. Thiết kế có nội dung: "Những người tù khổ sai đã đặt chân đến Vịnh Botany; những gông cùm của họ được tháo ra và nhận được một kiện hàng gồm các vật dụng cá nhân, Con quay, Tổ ong, Rìu nhọn và thuổng chỉ trỏ vào những con bò đang cày bừa, việc định cư đang hình thành và Nhà thờ trên đồi với Pháo đài phòng thủ ở đằng sau cùng với khẩu hiệu: Sic fortis Etruria crevit [Virgil, Georgic II: 53, đề cập đến việc thành lập thành Roma bởi một đám cướp] ". Thiết kế đã được sao chép trên con tem một xu New South Wales năm 1850.

Thành lập các thuộc địa khác

thumb|300x300px|[[Đảo Norfolk, Hệ thống tù khổ sai (1847)]]

thumb|[[Thành lập Perth năm 1829 của George Pitt Morison]] thumb|left|Đặt chân đến [[Melbourne 1840; tranh màu nước của W. Liardet (1840)]] thumb|[[Brisbane (Khu định cư Vịnh Moreton), 1835; tranh màu nước của H. Bowerman|left]]

Sau khi thành lập thuộc địa New South Wales vào năm 1788, Úc bị phân chia thành nửa phía đông được đặt tên là New South Wales, dưới thẩm quyền của chính phủ thuộc địa tại Sydney và nửa phía tây mang tên Tân Hà Lan. Biên giới 135° Đông dựa trên Complete Map of the Southern Continent phát hành trong Complete System of Geography (Luân Đôn 1747) của Emanuel Bowen và được sao chép trong các phiên bản của John Campbellvề tác phẩm Navigantium atque Itinerantium Bibliotheca (1744–48, và 1764) của John Harris. Bản đồ của Bowen dựa trên một bản đồ của Melchisédech Thévenot và được xuất bản trong Relations des Divers Voyages (1663), trong đó phân chia New Holland ở phía tây với Terra Australis ở phía đông bằng một kinh tuyến nằm tại 135° Đông. Sự phân chia này được mô phỏng trong bản đồ của Bowen, cung cấp một biên giới phía tây thuận lợi cho yêu sách của Anh vì như Watkin Tench sau đó bình luận trong A Narrative of the Expedition to Botany Bay: "Bằng cách phân chia này, có thể thẳng thắn giả định rằng mọi tranh chấp tương lai giữa Hà Lan và chúng tôi sẽ mãi bị cắt đứt do các khám phá của các nhà hàng hải người Anh chỉ bao gồm trong lãnh thổ này". Thévenot cho biết ông đã sao chép bản đồ của mình từ bản đồ được khắc trên sàn của Tòa thị chính Amsterdam nhưng trong bản đồ đó không có đường phân chia giữa New Holland và Terra Australis. Bản đồ của Thévenot thực sự đã được sao chép từ bản đồ của Joan Blaeu, Archipelagus Orientalis sive Asiaticus được xuất bản năm 1659 trong Kurfürsten Atlas (Bản đồ của Đại Tuyển hầu tước); bản đồ này là một phần của bản đồ thế giới năm 1648 của Blaeu, Nova et Accuratissima Terrarum Orbis Tabula , lần đầu tiên thể hiện vùng đất được phát hiện bởi chuyến đi năm 1642 của Abel Tasman với tên gọi Hollandia Nova và phục vụ làm cơ sở cho bản đồ vỉa hè của Tòa thị chính Amsterdam. Kinh độ 135° Đông phản ánh ranh giới phân chia giữa các tuyên bố chủ quyền của Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha được thiết lập trong Hiệp ước Tordesillas năm 1494 đã hình thành cơ sở cho nhiều yêu sách tiếp theo đối với lãnh thổ thuộc địa. Bản tường thuật lịch sử về việc khám phá New Holland và New South Wales xuất bản vào tháng 11 năm 1786 có "Bản đồ chung của New Holland gồm cả New South Wales & Vịnh Botany cùng với các quốc gia liền kề và các đảo mới được khám phá", trong đó cho thấy tất cả lãnh thổ được tuyên bố thuộc thẩm quyền của Thống đốc New South Wales.

right|thumb|Khung cảnh đường phố [[Klemzig, Nam Úc|Klemzig, nơi định cư đầu tiên của những người Đức di cư đến Úc vào năm 1837]]

Miêu tả lãng mạn về vẻ đẹp, khí hậu ôn hòa và đất đai phì nhiêu của đảo Norfolk tại Nam Thái Bình Dương khiến chính phủ Anh thiết lập một khu định cư phụ của thuộc địa New South Wales tại đây vào năm 1788. Họ hy vọng rằng các cây thông đảo Norfolk to lớn và cây lanh mọc hoang trên đảo có thể cung cấp cơ sở cho một nền kinh tế địa phương. Tuy nhiên, đảo không có bến cảng an toàn và điều này khiến thuộc địa bị bỏ hoang và những người định cư di tản đến Tasmania vào năm 1807. Đảo sau đó được dùng làm một khu định cư hình sự vào năm 1824.

Năm 1798, George Bass và Matthew Flinders đi vòng quanh Van Diemen's Land, chứng thực rằng đây là một đảo. Năm 1802, Flinders thành công trong hành trình vòng quanh Úc lần đầu tiên.

Van Diemen's Land được định cư từ năm 1803 sau một nỗ lực định cư thất bại tại vịnh Sullivan thuộc Victoria ngày nay. Những khu định cư khác của người Anh xuất hiện sau đó tại các địa điểm khác nhau khắp lục địa, nhiều thuộc địa không thành công. Ủy ban Mậu dịch Đông Ấn đề nghị vào năm 1823 rằng một khu định cư phải được thành lập trên bờ biển miền bắc Úc để chặn người Hà Lan và Thuyền trưởng J.J.G. Bremer được ủy quyền để lập một khu định cư giữa đảo Bathurst và bán đảo Cobourg. Bremer chọn khu định cư của mình tại Fort Dundas trên đảo Melville vào năm 1824 và do nơi này ở phía tây biên giới công bố năm 1788, tuyên bố chủ quyền của Anh đối với toàn bộ các khu vực được đẩy về phía tây đến 129° Đông.

Biên giới mới bao gồm các đảo Melville và Bathurst và phần đại lục liền kề. Năm 1826, người Anh tuyên bố chủ quyền mở rộng ra toàn bộ lục địa Úc khi Edmund Lockyer thiết lập một khu định cư tại King George Sound (Albany ngày nay) song biên giới phía đông của Tây Úc vẫn không thay đổi là 129° Đông. Năm 1824, một thuộc địa hình sự được thành lập gần cửa sông Brisbane (cơ sở của thuộc địa Queensland về sau). Năm 1829, Thuộc địa sông Swan và thủ phủ Perth của nó được thành lập tại bờ biển tây Úc và cũng được giao quyền kiểm soát cho thuộc địa King George Sound. Tây Úc ban đầu là một thuộc địa tự do song sau đó chấp nhận các tù nhân Anh do thiếu hụt lao động.

Thuộc địa Nam Úc được định cư vào năm 1836, biên giới phía tây và phía đông của nó được chế định là tại 132° và 141° Đông và biên giới phía bắc theo vĩ tuyến 26° Nam. Điểm biên giới phía tây và phía đông nay được lựa chọn theo đáng dấu phạm vi đường bờ biển được khảo sát lần đầu tiên bởi Matthew Flinders vào năm 1802. Biên giới phía bắc được Quốc hội Anh chế định theo vĩ tuyến 26° Nam do đó được nhìn nhận là giới hạn kiểm soát hiệu quả lãnh thổ từ một khu định cư thành lập trên bờ vịnh St Vincent; Công ty Nam Úc từng đề xuất lấy vĩ tuyến 20° Nam, sau đó giảm xuống Chí tuyến Nam).

Tù nhân và xã hội thuộc địa

left|thumb|Thống đốc [[William Bligh]] alt=|thumb|[[Bạo loạn Rum năm 1808]]

Từ năm 1788 đến năm 1868, xấp xỉ 161.700 tù nhân (25.000 trong đó là nữ) được vận chuyển đến các thuộc địa New South Wales, Van Diemen' Land và Tây Úc. Sử gia Lloyd Robson ước tính rằng có thể hai phần ba là kẻ trộm đến từ tầng lớp lao động thành thị, đặc biệt là từ miền trung và miền bắc Anh. Phần lớn là người tái phạm tội. Không rõ việc vận chuyển có đạt được mục tiêu cải tạo hay không song một số tù nhân có thể rời khỏi hệ thống nhà tù tại Úc; sau năm 1801 họ có thể lấy được "vé rời đi" do có thái độ tốt và được phân công lao động cho những người tự do để lấy lương. Một số người tiếp tục có cuộc sống thành công với tư cách là những người được giải phóng, được ân xá khi mãn hạn tù. Các phạm nhân nữ có ít cơ hội hơn.

thumb|left| Black-eyes Sue và Sweet Poll ở Plymouth, Anh Quốc thương tiếc người yêu của họ sắp được đưa đến Vịnh Botany (xuất bản ở London năm 1792) thumb|upright|Tranh mô tả Nổi loạn Castle Hill năm 1804 thumb|upright|Biếm họa tuyên truyền bắt giữa Thống đốc [[William Bligh trong Nổi loạn Rum năm 1808.]]

Một số tù nhân, đặc biệt là tù nhân Ireland được vận chuyển đến Úc vì các tội chính trị hoặc do nổi loạn xã hội, vì vậy nhà cầm quyền nghi ngờ người Ireland và hạn chế việc hành đạo Công giáo tại Úc. Nổi loạn Castle Hill do người Ireland lãnh đạo vào năm 1804 góp phần làm gia tăng nghi ngờ và đàn áp. Tăng lữ Giáo hội Anh trong khi đó làm việc chặt chẽ với các thống đốc và giáo sĩ Richard Johnson trong việc cải thiện "đạo đức cộng đồng" tại thuộc địa và cũng cải thiên nhiều trong y tế và giáo dục. Mục sư Samuel Marsden (1765–1838) có trách nhiệm làm quan tòa và do đó bình đẳng với nhà cầm quyền trước các tù nhân, ông được mệnh danh là "mục sư đòn roi" do trừng phạt nghiêm khắc.

Quân đoàn New South Wales hình thành tại Anh vào năm 1789 trong vai trò trung đoàn thường trực để giúp đỡ những binh sĩ hải quân đi theo Đệ Nhất hạm đội. Các sĩ quan trong quân đoàn nhanh chóng dính líu đến hủ bại và buôn rượu rum sinh lợi tại thuộc địa. Trong cuộc Nổi dậy Rum năm 1808, Quân đoàn cộng tác chặt chẽ với thương nhân len mới nổi John Macarthur, tổ chức việc tiếp quản chính phủ bằng vũ trang thành công lần duy nhất trong lịch sử Úc, phế truất Thống đốc William Bligh và chủ mưu một giai đoạn quân quản ngắn ngủi tại thuộc địa trước khi Thống đốc Lachlan Macquarie từ Anh đến vào năm 1810.

Macquarie phục vụ trong vai trò thống đốc New South Wales chuyên quyền cuối cùng từ năm 1810 đến năm 1821 và có một vai trò hàng đầu trong phát triển xã hội và kinh tế của New South Wales. New South Wales chuyển từ một thuộc địa hình sự thành một xã hội tự do. Ông xây dựng các công trình công cộng, lập một ngân hàng, các nhà thờ và các tổ chức từ thiện và mưu cầu quan hệ hữu hảo với dân Nguyên trú. Năm 1813, ông phái Blaxland, Wentworth và Lawson vượt qua Vùng núi Blue, nơi họ phát hiện các bình nguyên rộng lớn trong nội lục. Tuy nhiên, trung tâm trong chính sách của Macquarie là đối đãi của ông với những người mãn hạn tù, ông ra lệnh cần phải đối đãi với họ như những người định cư tự do tại thuộc địa. Bất chấp phản đối, ông bổ nhiệm những người mãn hạn tù vào các vị trí trọng yếu trong chính phủ, trong số đó có Francis Greenway giữ chức kiến trúc sư thuộc địa và William Redfern trở thành quan tòa. Luân Đôn đánh giá các công trình công cộng của ông là quá đắt đỏ và xã hội bị xúc phạm do cách đối đãi của ông với những người mãn hạn tù. Chủ nghĩa quân bình sẽ xuất hiện để rồi được nhận định là một đức tính chính của người Úc.

Năm thống đốc New South Wales đầu tiên nhận thấy nhu cầu cấp thiết trong việc khuyến khích những người định cư tự do song chính phủ Anh vẫn hầu như không mặn mà. Ngay từ năm 1790, Thống đốc Arthur Phillip đã viết: "Lãnh chúa của bạn sẽ nhìn thấy... những bức thư của tôi... những tiến bộ nhỏ mà chúng tôi có thể đạt được trong việc canh tác các vùng đất... Hiện tại khu định cư này cần thêm người để làm việc canh tác... " Đến thập niên 1820 thì các nhóm người định cư tự do bắt đầu đến và các kế hoạch của chính phủ bắt đầu được tiến hành nhằm khuyến khích người định cư tự do. Các nhà nhân ái Caroline Chisholm và John Dunmore Lang phát triển các kế hoạch di cư riêng của mình. Các thống đốc tiến hành cấp đất và các kế hoạch định cư như của Edward Gibbon Wakefield đem lại một số ảnh hưởng trong việc khuyến khích những người di cư thực hiện hành trình dài đến Úc thay vì đến Hoa Kỳ hay Canada.

Các chính phủ thuộc địa ban đầu lo lắng về vấn đề mất cân bằng giới tính trong dân số, bắt nguồn từ việc nhập một số lượng lớn nam tù nhân. Từ năm 1788 đến năm 1792, có khoảng 3.546 nam tù nhân so với 766 nữ tù nhân đến Sydney. Nữ giới đóng một vai trò quan trọng trong giáo dục và phúc lợi trong thời thuộc địa. Phu nhân của Thống đốc Macquarie là Elizabeth Macquarie quan tâm đến phúc lợi của nữ tù nhân. Người cùng thời với bà là Elizabeth Macarthur trở nên nổi tiếng do 'sức mạnh phái nữ' của bà trong việc giúp đỡ gây dựng ngành công nghiệp len merino Úc khi chồng bà là John Macarthur buộc phải rời khỏi thuộc địa sau Nổi dậy Rum. Giáo đoàn Các nữ tu Thiện nguyện Công giáo đến năm 1838 và bắt đầu công việc chăm sóc mục vụ trong một nhà tù dành cho phụ nữ, thăm các bệnh viện và trường học và tạo việc làm cho phụ nữ bị kết án. Giáo đoàn Các nữ tu tiếp tục thành lập bệnh viện ở bốn bang miền đông, bắt đầu với Bệnh viện St Vincent, Sydney vào năm 1857, một bệnh viện miễn phí cho tất cả mọi người nhưng đặc biệt là dành cho người nghèo. Caroline Chisholm (1808–1877) thành lập một nơi trú ẩn của phụ nữ nhập cư và hoạt động vì quyền lợi phụ nữ ở các thuộc địa vào những năm 1840. Những nỗ lực nhân đạo của cô sau đó đã nổi danh ở Anh và có ảnh hưởng lớn trong việc hỗ trợ các gia đình ở thuộc địa. Giám mục Công giáo đầu tiên của Sydney, John Bede Polding đã thành lập một dòng nữ tu Úc — Giáo đoàn Các nữ tu Samaritanô - vào năm 1857 để làm việc trong lĩnh vực giáo dục và công tác xã hội. Giáo đoàn Các nữ tu St Joseph được thành lập tại Nam Úc bởi Saint Mary MacKillop và cha Julian Tenison Woods vào năm 1867. MacKillop du hành khắp Australasia và lập trường học, nữ tu viện và các tổ chức từ thiện, bà được Benedict XVI phong thánh vào năm 2010, trở thành người Úc đầu tiên được Giáo hội Công giáo vinh danh như vậy.

Từ thập niên 1820, ngày càng nhiều người chiếm đất tiến hành chiếm giữ vùng đất vượt ra ngoài rìa của khu định cư người châu Âu. Những người chiếm đất thường chăn cừu trên các mục trường lớn với chi phí tương đối thấp và có thể tạo ra lợi nhuận đáng kể. Đến năm 1834, gần 2 triệu kg len được xuất khẩu từ Úc sang Anh. Đến năm 1850, chỉ 2.000 người chiếm đất đã sở hữu 30 triệu ha đất và họ thành lập các nhóm lợi ích hùng mạnh và "đáng kính" tại một vài thuộc địa.

Năm 1835, Bộ Thuộc địa Anh ban hành Tuyên ngôn của Thống đốc Bourke, thi hành học thuyết pháp lý lãnh thổ vô chủ mà các khu định cư của người Anh dựa vào, củng cố quan điểm rằng đất đai không thuộc về ai trước khi Quân chủ Anh chiếm hữu nó và bác bỏ bất kỳ khả năng thỏa thuận với người Nguyên trú bao gồm thứ từng được John Batman ký kết. Việc công bố điều

👁️ 3 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
nhỏ|Úc nhìn qua vệ tinh **Lịch sử Úc** đề cập đến lịch sử khu vực và nhân dân ở Thịnh vượng chung Úc và những cộng đồng bản địa và thuộc địa tiền thân của
Đây là **Biên niên sử Úc**, bao gồm những thay đổi quan trọng về pháp lý và lãnh thổ và các sự kiện chính trị ở Úc và các quốc gia tiền thân. Để đọc
nhỏ|Lính Úc dùng súng máy tại trận địa gần [[Wewak tháng 6 năm 1945]] Sau khi Đức Quốc xã xâm lăng Ba Lan, chính phủ Úc tuyên chiến với Đức ngày 3 tháng 9 năm
**Lịch sử New Zealand** truy nguyên từ ít nhất 700 năm trước khi người Polynesia khám phá và định cư tại đây, họ phát triển một văn hóa Maori đặc trưng. Nhà thám hiểm người
thumb|Một cảnh khiêu dâm từ một bức [[bích họa của Pompeii, -50 sau Công nguyên, Bảo tàng bí mật, Napoli]] Hoạt động Mại dâm đã tồn tại trong các nền văn hóa từ thời kỳ
phải|nhỏ|200x200px| Các quốc gia châu Phi tiền thuộc địa từ các khoảng thời gian khác nhau phải|nhỏ|267x267px| Obelisk tại [[Đền Luxor|đền thờ Luxor, Ai Cập. khoảng 1200 TCN ]] phải|nhỏ|276x276px| Hiệp sĩ Baguirmi trong bộ
thumb|upright=1.1|[[Herodotus (khoảng 484 TCN – khoảng 425 TCN), thường được coi là "cha đẻ của lịch sử" ở châu Âu]] thumb|_Lịch sử_ - tranh của [[Nikolaos Gysis (1892)]] **Lịch sử**, **sử học** hay gọi tắt
Giai đoạn từ năm 1431 đến năm 1863 trong lịch sử Campuchia được gọi là **thời kỳ Hậu Angkor** hoặc **thời kỳ Đen Tối, thời kỳ Trung Đại****.** Năm 1431, quân Ayutthaya của người Thái
**Bắc Kinh** có lịch sử lâu dài và phong phú, nguyên truy từ cách nay 3.000 năm. Trước khi Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Hoa vào năm 221 TCN, Bắc Kinh là thủ đô
[[Auguste và Louis Lumière, "cha đẻ" của nền điện ảnh]] **Lịch sử điện ảnh** là quá trình ra đời và phát triển của điện ảnh từ cuối thế kỉ 19 cho đến nay. Sau hơn
Phi cơ [[B-17 Flying Fortress đang bay trên bầu trời châu Âu]] Các giới chức quân sự quan trọng của Mỹ tại châu Âu năm 1945 **Lịch sử quân sự Hoa Kỳ trong Chiến tranh
Quân kỳ của Quân đội Đức quốc xã**Lịch sử quân sự Đức trong Chiến tranh thế giới thứ hai** bắt đầu từ quân số 100.000 do Hòa ước Versailles hạn chế, không được quyền có
thumb|Tranh vẽ những người [[Choctaw chơi môn lacrosse thời kỳ sơ khai.]] **Lịch sử thể thao** có thể có niên đại từ thuở con người bắt đầu rèn luyện quân đội. Thể thao có thể
**Lịch sử tiến hóa của sự sống** trên Trái Đất là quá trình mà cả sinh vật sống lẫn sinh vật hóa thạch tiến hóa kể từ khi sự sống xuất hiện trên hành tinh,
**Lịch sử Scotland** có liên hệ mật thiết tiến trình phát triển của quần đảo Anh với sự biến dạng liên tục của cấu trúc dân cư. Tiến trình Lịch sử Scotland luôn gắn liền
Bóng chày tại Ai Cập cổ đại Nguồn gốc của môn bóng chày là một điều vẫn còn nghi ngờ và chưa ai dám chắc chắn. Người ta đã tìm được dấu vết của một
**Lịch sử của lịch** được xem xét từ những phương pháp có nguồn gốc cổ xưa, khi mà con người tạo ra và sử dụng các phương pháp khác nhau để theo dõi các ngày
thumb|right|348x348px|Bìa của bài thơ có chủ đề tiến hóa của [[Erasmus Darwin, _Temple of Nature_ cho thấy một nữ thần vén bức màn bí ẩn của thiên nhiên (bên trong là Artemis). Tượng trưng và
**Lịch sử thế giới** (còn gọi là **lịch sử loài người** và **lịch sử nhân loại**) là ghi chép về hành trình phát triển của nhân loại từ thời tiền sử cho đến hiện tại.
nhỏ|phải|Họa phẩm về Tổ phụ Abraham chuẩn bị hiến tế Isaac, theo Kinh thánh Do Thái thì Abraham là tổ phụ của người Do Thái cổ **Lịch sử Do Thái** (_Jewish history_) là lịch sử
nhỏ|Tranh trong hang động về [[bò rừng ở Châu Âu (_Bos primigenius primigenius_), Lascaux, Pháp, nghệ thuật thời tiền sử]] **Lịch sử hội họa** được bắt đầu từ những hiện vật của người tiền sử
**Lịch sử văn hóa** kết hợp các cách tiếp cận của nhân học và lịch sử để xem xét các truyền thống văn hóa phổ biến và các diễn giải văn hóa về các kinh
**Lịch sử Hoa Kỳ**, như được giảng dạy tại các trường học và các đại học Mỹ, thông thường được bắt đầu với chuyến đi thám hiểm đến châu Mỹ của Cristoforo Colombo năm 1492
**Lịch sử Việt Nam** nếu tính từ lúc có mặt con người sinh sống thì đã có hàng vạn năm trước Công Nguyên, còn tính từ khi cơ cấu nhà nước được hình thành thì
[[Phần cứng|Phần cứng máy tính là nền tảng cho xử lý thông tin (sơ đồ khối). ]] **Lịch sử phần cứng máy tính** bao quát lịch sử của phần cứng máy tính, kiến trúc của
**Lịch sử châu Âu** mô tả những sự kiện của con người đã diễn ra trên lục địa châu Âu. Từ thời tiền sử tới thời hiện đại. Châu Âu có một lịch sử dài,
**Lịch sử Canada** bắt đầu khi người Da đỏ cổ đại đến vào hàng nghìn năm trước. Các nhóm dân nguyên trú sinh sống tại Canada trong hàng thiên niên kỷ, với những mạng lưới
**Lịch sử đương đại**, là một tập hợp con của lịch sử hiện đại mô tả giai đoạn lịch sử từ khoảng năm 1945 đến nay. Lịch sử đương đại là một tập hợp con
**Lịch sử Indonesia** là dải thời gian rất dài, bắt đầu từ thời Cổ đại khoảng 1.7 triệu năm trước dựa trên phát hiện về Homo erectus Java. Các giai đoạn lịch sử của Indonesia
**Lịch sử Hy Lạp** tập trung vào phần lịch sử trên lãnh thổ đất nước Hy Lạp hiện đại, cũng như phần lịch sử của người Hy Lạp và các vùng đất mà họ đã
nhỏ|300x300px| Bản đồ Madagascar (1616) **Lịch sử Madagascar** bắt đầu từ khi con người bắt đầu đặt chân đến Madagascar, một quốc đảo nằm trên Ấn Độ Dương ngoài khơi bờ biển phía đông nam
**Dự án Lịch sử Vĩ Đại** là dự án được Bill Gates và David Christian sáng lập nhằm giúp việc giảng dạy môn lịch sử sáng tạo hơn trên thế giới. Đây là "một nỗ
**Âm nhạc** được tìm thấy trong mọi nền văn hóa và tôn giáo đã biết, quá khứ và hiện tại, rất khác nhau giữa thời gian và địa điểm. Vì tất cả mọi người trên
Bài viết này trình bày chi tiết về **lịch sử của Lào kể từ sau năm 1945**. ## Thế chiến 2 Xứ ủy Ai Lao, phân bộ của Đảng Cộng sản Đông Dương được thành
Lịch sử thành văn của Singapore có niên đại từ thế kỷ thứ ba. Sau đó, tầm quan trọng của Singapore tăng lên trong thế kỷ 14 dưới quyền cai trị của hoàng tử Srivijaya
**Giai đoạn này của Lịch sử Liên Xô** chứng kiến cuộc Chiến tranh Lạnh, khi Liên bang Xô viết và Hoa Kỳ cạnh tranh trực tiếp và gián tiếp để mở rộng ảnh hưởng, trong
nhỏ|Các vùng sản xuất rượu vang chính của Pháp. **Lịch sử rượu vang Pháp** trải dài ít nhất 2600 năm, khi người Phocaea thành lập thành phố Massalia vào thế kỷ 6 TCN, có khả
**Lịch sử hành chính Huế** (tên đến hết năm 2024 là tỉnh Thừa Thiên Huế) được xem bắt đầu vào năm 1945 với cuộc cải cách hành chính của Chính phủ Cách mạng lâm thời
**Lịch sử Ba Lan giữa hai cuộc Thế chiến** bao gồm giai đoạn từ tái lập quốc gia độc lập Ba Lan năm 1918, tới Cuộc xâm lược Ba Lan từ phía tây bởi Đức
liên_kết=https://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BA%ADp tin:Emblemata_1624.jpg|nhỏ|275x275px|Mô tả ban đầu của "kính thiên văn Hà Lan" từ năm 1624. **Lịch sử kính viễn vọng** có thể được tìm thấy các dấu vết đầu tiên từ trước khi kính viễn vọng
**Lịch sử của Linux** bắt đầu vào năm 1991 với sự bắt đầu của một dự án cá nhân của sinh viên Phần Lan Linus Torvalds để tạo ra một hạt nhân hệ điều hành
Dưới đây là niên biểu các sự kiện trong lịch sử Anh từ năm 1700 - 1799. Niên biểu lịch sử ở Anh (1600-1699) Niên biểu lịch sử ở Anh (1800-1899) __NOTOC__ ## 1700 -
Với sự giải tán Liên bang Xô viết ngày 25 tháng 12 năm 1991, Liên bang Nga trở thành một quốc gia độc lập. Nga là nước cộng hòa lớn nhất trong số 15 nước
thumb|Bali, và vị trí trên [[Danh sách đảo Indonesia|các đảo Indonesia]] **Lịch sử Bali** bao gồm giai đoạn từ thời đại đồ đá cũ cho đến hiện tại, được đặc trưng bởi những người di
Giai đoạn này của **lịch sử Campuchia** bắt đầu từ ngày 7 tháng 1 năm 1979, khi chính quyền Campuchia Dân chủ của Khmer Đỏ bị lật đổ do Chiến dịch phản công biên giới
**Lịch sử Đông Timor** bắt đầu từ thời kỳ những dân tộc **Australoid** và **Melanesia** đến đây. Người Bồ Đào Nha bắt đầu buôn bán với cư dân ở đảo Timor đầu thế
**Thái Nguyên** là một tỉnh thuộc vùng trung du và miền núi Bắc Bộ. Phía bắc giáp tỉnh Bắc Kạn, phía nam giáp thủ đô Hà Nội, phía đông giáp tỉnh Bắc Giang và tỉnh
**Câu lạc bộ bóng đá Manchester United** kết thúc mùa giải 1969-1970 với vị trí thứ 8 tại giải bóng đá vô địch quốc gia Anh và khởi đầu tồi tệ vào mùa giải 1970-1971,
Khu di tích nhạc sĩ Cao Văn Lầu **Lịch sử hành chính Bạc Liêu** được lấy mốc từ cuộc cải cách hành chính Nam Kỳ năm 1900. Theo đó, tỉnh Bạc Liêu được thành lập
frame|Trang bìa này từ ấn bản thứ 6 của ấn phẩm Cục Đĩa bay Úc (AFSB) có tên là _Tạp chí Đĩa bay Úc_. Sáu số được ấn hành từ tháng 5 năm 1953 đến