Friedrich August I của Sachsen (tiếng Đức: Friedrich August I. von Sachsen; tiếng Ba Lan: Fryderyk August I; 23/12/1750 - 5/5/1827) là thành viên của Nhà Wettin, người cai trị Tuyển đế hầu quốc Sachsen từ năm 1763 đến năm 1806 (với tên gọi Friedrich August III) và là Vua của Vương quốc Sachsen từ 1806 đến 1827. Ông cũng là Công tước của Warsaw từ 1807 đến 1815.
Trong suốt sự nghiệp chính trị của mình, Friedrich August đã cố gắng phục hồi và tái tạo lại nhà nước Ba Lan đã bị chia cắt và không còn tồn tại sau sự phân chia cuối cùng của Ba Lan vào năm 1795. Tuy nhiên, ông đã không thành công và đã tự trách mình trong suốt quãng đời còn lại. Tuy nhiên, những nỗ lực của ông trong việc tái lập một quốc gia Ba Lan độc lập đã khiến ông được người dân Ba Lan quý mến.
Quảng trường Augustusplatz ở Thành phố Leipzig được đặt theo tên của ông.
Tuyển hầu tước Sachsen và Quốc vương chỉ định của Ba Lan
Hoàn cảnh gia đình
thumb|left|[[Xu bạc: 1 conventionthaler Tuyển hầu quốc Sachsen, mặt trước là chân dung của Friedrich August I, 1792]]
Friedrich August là con trai thứ hai (nhưng là con trai lớn nhất còn sống) của Frederick Christian, Tuyển hầu tước của Sachsen và Maria Antonia Walpurgis, Công chúa xứ Bavaria thuộc Nhà Wittelsbach. Bởi vì ông chưa đủ tuổi vào thời điểm cha ông qua đời vào năm 1763, mẹ ông giữ chức vụ Nhiếp chính cho đến năm 1768. Chú của ông là Hoàng tử Francis Xavier của Sachsen giữ chức vụ đại diện của ông. Thông qua phía cha mình, ông là hậu duệ của hai vị vua của Ba Lan.
Từ bỏ ngai vàng Ba Lan
Năm 1765, Hoàng tử Francis Xavier của Sachsen người dại diện của Tuyển hầu tước Sachsen đã nhường ngôi vua Ba Lan cho Stanisław August Poniatowski. Tuy nhiên, khi Hiến pháp Ba Lan được Đại Nghị viện Ba Lan phê chuẩn, Friedrich August được chỉ định là người kế vị Stanislas. Đồng thời, người đứng đầu Hoàng gia Sachsen được xác nhận là người thừa kế ngai vàng Ba Lan (Điều VII của Hiến pháp Ba Lan). Friedrich August từ chối nhận vương miện sau cái chết của Stanislas vào năm 1798, vì ông sợ vướng vào tranh chấp với Áo, Phổ và Nga, những thế lực đã bắt đầu chia cắt Ba Lan vào năm 1772. Trên thực tế, sự phân chia hoàn toàn của Ba Lan giữa các cường quốc láng giềng Áo, Phổ và Nga đã diễn ra vào năm 1795.
Chính sách đối ngoại cho đến khi Đế chế La Mã Thần thánh bị giải thể
thumb|Frederick Augustus năm 1795
Vào tháng 8 năm 1791, Frederick Augustus đã sắp xếp một cuộc hội đàm với Hoàng đế La Mã Thần thánh Leopold II và Vua Friedrich Wilhelm II của Phổ tại Lâu đài Pillnitz. Động thái này một phần nhằm mục đích ủng hộ chế độ quân chủ Pháp khi đối mặt với sự phát triển của Cách mạng ở Pháp.[1] Tuyên bố Pillnitz cảnh báo về khả năng hành động quân sự chống lại chính phủ cách mạng Pháp, một hành động khiêu khích khiến chính quyền cách mạng Pháp có cơ sở để tuyên chiến với Áo vào tháng 4 năm 1792. Bản thân Frederick Augustus đã không ký vào tuyên bố này.
Sachsen không muốn liên quan gì đến liên minh phòng thủ chống lại Pháp được hình thành giữa Áo và Phổ. Tuy nhiên, một tuyên bố của Đại hội đế chế được ban hành vào tháng 3 năm 1793, buộc Frederick Augustus phải tham gia. Có một mối quan tâm lớn ở Sachsen vào tháng 4 năm 1795 khi Phổ bất ngờ ký kết hòa ước riêng với Pháp để tạo điều kiện thuận lợi cho việc chia cắt Ba Lan. Sachsen rút khỏi liên minh chống lại Pháp vào tháng 8 năm 1796 sau khi Pháp tiến về phía Đông vào vùng đất của Đức và các điều kiện bổ sung để Đế chế La Mã Thần thánh ký kết một nền hòa bình riêng biệt đã được thống nhất.
Cả thỏa thuận hòa bình với Pháp và việc Sachsen tham gia Đại hội Rastatt năm 1797 đều nhằm thể hiện lòng trung thành của Frederick Augustus đối với các nguyên tắc hiến pháp thông thường của Đế chế La Mã Thần thánh. Đại hội Rastatt được cho là đã cho phép giao nộp các lãnh thổ ở tả ngạn sông Rhine cho Pháp để đổi lấy sự bồi thường cho những người cai trị đã từ bỏ lãnh thổ. Tuy nhiên, tại Rastatt và một lần nữa vào năm 1803 khi ban hành Báo cáo cuối cùng của Ủy ban Đế chế [luật của Đế chế La Mã Thần thánh đặt ra trật tự mới của Đế chế], Sachsen đã từ chối đồng ý với những điều chỉnh lãnh thổ, vì những điều chỉnh này đã được thiết kế để mang lại lợi ích cho Bayern, Phổ, Württemberg và Baden.
Chính sách đối ngoại và nền hòa bình với Napoléon
Friedrich August không tham gia vào việc thành lập Liên minh sông Rhine, dẫn đến sự tan rã cuối cùng của Đế chế La Mã Thần thánh. Đối với ý tưởng của Phổ về một đế chế Bắc Đức, trong đó Sachsen được cho là sẽ được nâng lên thành một vương quốc, ông tỏ ra dè dặt. Tuy nhiên, sau tháng 09/1806, để đối phó với Tối hậu thư Berlin, yêu cầu rút quân Pháp khỏi tả ngạn sông Rhine, Napoléon Bonaparte đã tiến quân đến tận Thuringia. Tại thời điểm đó, Friedrich August liên minh vơi Phổ. Tuy nhiên, trong trận Trận Jena năm 1806, Napoléon đã gây ra một thất bại nặng nề cho liên quân Phổ-Sachsen. Chính phủ và quân đội Phổ sau đó rút quân rầm rộ về phía đông. Frederick Augustus, rút quân đi mà không có bất kỳ thông tin nào liên quan đến ý định của Phổ, trong khi đó quân đội của Napoléon Bonaparte sắp chiếm Sachsen, buộc phải ngưng và tìm một phương án hoà bình. Vào ngày 11/12/1806 tại Poznań, một hiệp ước đã được ký kết bởi đại diện có thẩm quyền của cả hai bên. Theo các điều khoản, Sachsen buộc phải gia nhập Liên minh sông Rhine và giao nộp các phần của Thuringia cho Vương quốc Westphalia. Để đền bù, Sachsen đã được trao khu vực xung quanh Cottbus và được nâng lên thành một vương quốc cùng với các bang thuộc Liên minh của các nhà nước Bavaria và Württemberg.
Vua của Sachsen và Đại công tước xứ Warsaw
thumb|left|[[Xu bạc: 1 conventionsthaler của Vương quốc Sachsen, lúc này Sachsen đã được nâng lên thành vương quốc, từ Tuyển đế hầu, August trở thành vua]]
Tuyển hầu tước đến Người cai trị Sachsen-Ba Lan
Friedrich August được phong làm Vua của Sachsen vào ngày 20/12/1806. Sau Hiệp ước Tilsit, do Friedrich Wilhelm III của Phổ và Sa hoàng Alexander I của Nga ký kết với Napoléon Bonaparte vào tháng 07/1807, Friedrich August cũng được phong là Công tước Warsaw. Mặc dù ông đã từ chối đề nghị ngai vàng của Ba Lan vào năm 1795, ông không thể từ chối một tước hiệu Ba Lan lần thứ hai.
Không để lạo bất kỳ người thừa kế nam nào, Frederick Augustus được em trai là Thân vương Anton kế vị làm Vua của Sachsen.
Phả hệ
👁️
1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Friedrich August I của Sachsen** (tiếng Đức: Friedrich August I. von Sachsen; tiếng Ba Lan: Fryderyk August I; 23/12/1750 - 5/5/1827) là thành viên của Nhà Wettin, người cai trị Tuyển đế hầu quốc Sachsen
**Friedrich August II của Sachsen** ( _von Sachsen_; 18 tháng 5 năm 1797 tại Dresden – 9 tháng 8 năm 1854 tại Brennbüchel, Karrösten, Tirol), là vị vua đời thứ 3 của Vương quốc Sachsen,
**Frederick Augustus III** (tiếng Đức: Friedrich August III; 25/05/1865 - 18/02/1932) là vị Vua cuối cùng của Vương quốc Sachsen, tại vị từ năm 1904 đến khi thoái vị vào năm 1918, ông là thành
**Anton I của Sachsen** (tiếng Đức: _Anton I. von Sachsen_; 27 tháng 12 năm 1755 – 6 tháng 6 năm 1836) là Quốc vương Sachsen từ Vương tộc Wettin. Anton I được biết đến với
Tiếng Anh: John Nepomuk Maria Joseph Anthony Xavier Vincent Aloysius Francis de Paula Stanislaus Bernard Paul Felix Damasus | kiểu hoàng tộc = Vương tộc | hoàng tộc = Nhà Wettin | cha =
**Georg I của Sachsen** (tên khai sinh là _Friedrich August Georg Ludwig Wilhelm Maximilian Karl Maria Nepomuk Baptist Xaver Cyriacus Romanus_; 8 tháng 8 năm 1832 – 15 tháng 10 năm 1904) là một vị
**Albert I của Sachsen** (tên đầy đủ: _Friedrich August Albrecht Anton Ferdinand Joseph Karl Maria Baptist Nepomuk Wilhelm Xaver Georg Fidelis_) (sinh ngày 23 tháng 4 năm 1828 tại Dresden – mất ngày 19 tháng
**Mathilde của Sachsen** (19 tháng 3 năm 1863 – 27 tháng 3 năm 1933) là con gái của Georg I của Sachsen và Maria Ana của Bồ Đào Nha. Mathilde là chị gái của vị
**August II Mạnh mẽ** (; ; 12 tháng 5 năm 1670 – 1 tháng 2 năm 1733) là Tuyển hầu xứ Sachsen của nhánh Albertine của gia tộc Wettin với tôn hiệu **Friedrich August I**. Ông
**Ernst August** (sinh ngày 05 tháng 06 năm 1771 – mất ngày 18 tháng 11 năm 1851), là vua của Vương quốc Hannover từ này 02/06/1837 cho đến khi ông qua đời vào năm 1851.
**August Wilhelm** là một hoàng thân nước Phổ. Ông sinh vào ngày 9 tháng 8 năm 1722 tại kinh thành Berlin, là con của Friedrich Wilhelm I của Phổ và Sophia Dorothea của Đại Anh,
**Maria Anna của Bayern** (tiếng Đức: _Maria Anna von Bayern_; tên đầy đủ: _Maria Anna Leopoldine Elisabeth Wilhelmine von Wittelsbach_; 27 tháng 1 năm 1805 – 13 tháng 9 năm 1877), thường được gọi là
**August III** (tiếng Ba Lan: _August III Sas_, tiếng Litva: _Augustas III_; 17/10/1696 – 5/10/1763) là vua của Ba Lan và Đại vương công Lietuva từ 1734 đến 1763, đồng thời là Tuyển hầu xứ
**Maria Josepha của Ba Lan hay Maria Josepha của Sachsen** (Tiếng Anh: _Maria Josepha Karolina Eleonore Franziska Xaveria_; 4 tháng 11 năm 1731 – 13 tháng 3 năm 1767) là Trữ phi nước Pháp thông
**August Ferdinand của Phổ** (; 23 tháng 5 năm 1730 – 2 tháng 5 năm 1813) là Vương tử và tướng quân Phổ, cũng như là _Herrenmeister_ (Đại Hiệp sĩ) của Huân chương Thánh Johannis.
**George I** (George Louis; ; 28 Tháng 5 năm 1660 – 11 tháng 6 năm 1727. Ông là con trai cả của Ernest Augustus, Công tước xứ Brunswick-Lüneburg, và vợ của ông, Sophia xứ Palatinate.
**Công quốc Sachsen-Weimar** (tiếng Đức: _Herzogtum Sachsen-Weimar_) là một trong những nhà nước của Các công quốc Ernestine do nhánh Ernestine của triều đại Wettin nắm giữ ở bang Thuringia, Đức ngày nay, vì thế
**Maximilian I Joseph** (; 27 tháng 5 năm 1756 tại Schwetzingen, gần Mannheim – 13 tháng 10 năm 1825 tại München) là Công tước xứ Zweibrücken từ năm 1795, trở thành Tuyển hầu xứ Bayern
**Wilhelm I** (tiếng Đức: _Friedrich Wilhelm Karl_; 27 tháng 9 năm 1781 – 25 tháng 6 năm 1864) là Vua của Württemberg từ ngày 30 tháng 10 năm 1816 cho đến khi ông qua đời
**Maria Carolina của Sardegna** (Maria Carolina Antonietta Adelaide; 17 tháng 1 năm 1764 – 28 tháng 12 năm 1782) là Vương nữ Sardegna, con gái út của Vittorio Amadeo III của Sardegna và María Antonia
**Ida xứ Sachsen-Meiningen** (_Ida Caroline von Sachsen-Meiningen_; 25 tháng 6 năm 1794 – 4 tháng 4 năm 1852), là Công nữ Sachsen-Meiningen. Chị gái của Ida, tức Adelheid xứ Sachsen-Meiningen, là Vương hậu của Vương
**Công quốc Sachsen-Coburg và Gotha** (tiếng Đức: _Herzogtum Sachsen-Coburg und Gotha_) là một nhà nước cấu thành nên Đế quốc Đức, được cai trị bởi một trong những nhánh của dòng Ernestine, chi trưởng của
**Louis XV** (15 tháng 2 năm 1710 – 10 tháng 5 năm 1774), biệt danh **Louis Đáng yêu**, là quân vương của Vương tộc Bourbon, giữ tước hiệu Vua của Pháp từ 1 tháng 9
**Victoria của Liên hiệp Anh** (Alexandrina Victoria; 24 tháng 5 năm 1819 – 22 tháng 1 năm 1901) là Nữ vương Vương quốc Liên hiệp Anh từ ngày 20 tháng 6 năm 1837 cho đến
**Maria Ana của Bồ Đào Nha, hay Maria Ana của Bragança** (; tiếng Bồ Đào Nha: _Maria Ana de Portugal_ hay _Maria Ana de Bragança_; of Portugal; von Portugal; tên đầy đủ: _Maria Ana Fernanda
**George II của Vương quốc Liên hiệp Anh** (George Augustus, tiếng Đức: _Georg II. August_, 30 tháng 10 hoặc 9 tháng 11 năm 1683 – 25 tháng 10 năm 1760) là Quốc vương Liên hiệp
**María Luisa Josefina của Tây Ban Nha** (, 6 tháng 7 năm 1782 – 13 tháng 3 năm 1824) là _Infanta_ Tây Ban Nha, con gái của Carlos IV của Tây Ban Nha và María
**Karl I của Württemberg** (tiếng Đức: _Karl Friedrich Alexander_; 6 tháng 3 năm 1823 – 6 tháng 10 năm 1891) là Vua của Württemberg, từ ngày 25 tháng 6 năm 1864 cho đến khi ông
**Friedrich II** (24 tháng 1 năm 171217 tháng 8 năm 1786) là vua nước Phổ trị vì từ ngày 31 tháng 5 năm 1740 cho đến khi qua đời vào ngày 17 tháng 8 năm
**Tuyển đế hầu August xứ Sachsen** (31 tháng 7 năm 1526 – 11 tháng 2 năm 1586) là Tuyển hầu xứ Sachsen từ năm 1533 đến khi qua đời vào năm 1586, và là tuyển
**Charlotte của Phổ** (tiếng Đức: _Victoria Elisabeth Augusta Charlotte von Preußen_; 24 tháng 7 năm 1860 – 1 tháng 10 năm 1919) là Công tước phu nhân xứ Sachsen-Meiningen từ năm 1914 cho đến năm
**Karl I xứ Braunschweig-Wolfenbüttel** (1 tháng 08 năm 1713, Braunschweig - 26 tháng 03 năm 1780, Braunschweig), đôi khi viết là **Carl I**, là Công tước xứ Braunschweig và Lüneburg (_Herzöge zu Braunschweig und Lüneburg_)
Dưới đây là danh sách các nhà cai trị vùng lãnh thổ Sachsen từ khi còn là một công quốc ở thế kỷ thứ 9 cho đến khi chế độ quân chủ của người Đức
**Tuyển hầu xứ Sachsen** (tiếng Đức: _Kurfürstentum Sachsen_, cũng được gọi là _Kursachsen_) là một nhà nước thuộc Đế chế La Mã Thần thánh, được thành lập sau khi Hoàng đế Karl IV nâng Công
**Friedrich III, Công tước xứ Sachsen-Gotha-Altenburg** (14 tháng 4 năm 1699 - 10 tháng 3 năm 1772), là công tước đời thứ 3 xứ Sachsen-Gotha-Altenburg, thuộc dòng Ernestine, nhánh trưởng của Triều đại Wettin. Ông
**Augusta xứ Sachsen-Weimar-Eisenach** (_Maria Luise Augusta Catherina_; 30 tháng 9 năm 1811 – 7 tháng 1 năm 1890), là Vương hậu Phổ và trở thành hoàng hậu đầu tiên của Đế chế Đức sau khi
**Wilhelm I** (tên đầy đủ: _Wilhelm Friedrich Ludwig_; 22 tháng 3 năm 1797 – 9 tháng 3 năm 1888), là quốc vương Phổ từ ngày 2 tháng 1 năm 1861, chủ tịch Liên bang Bắc
**Friedrich _August_ Eberhard của Württemberg** (tiếng Đức: _Friedrich August Eberhard von Württemberg_ ## Thân thế August là người con trai thứ năm và là con trai út của Vương tử Paul của Württemberg, em của
**Ernst II xứ Sachsen-Coburg và Gotha** (tiếng Đức: _Ernst II. von Sachsen-Coburg und Gotha_; tiếng Tây Ban Nha: _Ernesto II of Sajona-Coburgo y Gotha_; tiếng Anh: _Ernest II of Saxe-Coburg and Gotha_; tên đầy đủ:
**Ernst, Tuyển đế hầu xứ Sachsen** (24 tháng 3 năm 1441 – 26 tháng 8 năm 1486) là Tuyển hầu tước xứ Sachsen từ năm 1464 và kiêm thêm Bá tước xứ Thuringia từ năm
**Friederike Luise của Phổ** (; 29 tháng 8 năm 1714 – 4 tháng 2 năm 1784) là con gái của Friedrich Wilhelm I của Phổ và Sophie Dorothea của Hannover. Thông qua cuộc hôn nhân
**Viktoria Luise của Phổ** (tiếng Đức: _Viktoria Luise von Preußen_; tên đầy đủ: _Viktoria Luise Adelheid Mathilde Charlotte_; 13 tháng 9 năm 1892 – 11 tháng 12 năm 1980) là người con cuối cùng của
**Anna Amalie của Phổ** (; 9 tháng 11 năm 1723 – 30 tháng 3 năm 1787) là một nhà soạn nhạc và giám tuyển âm nhạc người Đức thời kỳ cận đại, và là Nữ
**Georg V** (tiếng Đức: _Georg Friedrich Alexander Karl Ernst August_; 27 tháng 05 năm 1819 - 12 tháng 06 năm 1878) là vua cuối cùng của Vương quốc Hannover, ông chính là người con duy
**Maria Luisa Carlotta của Parma** (; 2 tháng 10 năm 1802 – 18 tháng 3 năm 1857) là Công nữ xứ Parma và là thành viên của Vương tộc Borbone-Parma. Maria Luisa Carlotta trở thành
**Napoléon Bonaparte** (tên khai sinh là **Napoleone Buonaparte**; 15 tháng 8 năm 1769 – 5 tháng 5 năm 1821), sau này được biết đến với tôn hiệu **Napoléon I**, là một chỉ huy quân sự
**Gustav IV Adolf** hoặc _Gustav IV Adolph_ (1 tháng 11 năm 1778 – 7 tháng 2 năm 1837) là Quốc vương Thụy Điển trị vị từ năm 1792 cho đến khi bị lật đổ vào
**Karl XII của Thụy Điển** (tiếng Thụy Điển: _Karl XII av Sverige_; 17 tháng 6 năm 1682 – 30 tháng 11 năm 1718), còn được biết đến dưới tên gọi **Carl XII** (hay **Charles XII**
**Trận Katholisch-Hennersdorf và Görlitz** là một trận đánh diễn ra trong các ngày 24 và 25 tháng 11 năm 1745 ở Trung Âu, trong cuộc Chiến tranh Schlesien lần thứ hai là một phần của
thumb|Nguyên bản của [[Quốc kì Đức: Cổ vũ cho cuộc cách mạng ở Berlin, ngày 19 tháng 3, 1848]] **Cách mạng 1848 – 1849** tại các bang nói tiếng Đức, giai đoạn mở đầu còn