✨Friedrich II của Phổ

Friedrich II của Phổ

Friedrich II (24 tháng 1 năm 171217 tháng 8 năm 1786) là vua nước Phổ trị vì từ ngày 31 tháng 5 năm 1740 cho đến khi qua đời vào ngày 17 tháng 8 năm 1786. Trên cương vị Tuyển hầu tước () của đế quốc La Mã Thần thánh, ông có tên gọi là Friedrich IV xứ Brandenburg. Ông cũng kiêm luôn chức Vương công xứ Neuchâtel trong liên minh cá nhân. Ông được mệnh danh là Friedrich Đại Đế ().

Friedrich đã châm ngòi cuộc chiến tranh Kế vị Áo, tấn công Áo và chiếm tỉnh Schlesien về tay Phổ. Sau đó, Friedrich đánh Tuyển hầu xứ Sachsen, khơi mào chiến tranh Bảy năm với liên minh Nga, La-Đức, Pháp, Thụy Điển. Sau 7 năm giao chiến, Phổ bị tổn thất nặng nề, Friedrich phải lui khỏi Sachsen và chuyển sang đối ngoại mềm mỏng hơn. Đến cuối đời, Friedrich đã khôi phục quân đội và thống nhất các lãnh thổ rời rạc của Phổ, vào năm 1772 cùng với Áo và Nga xâu xé Ba Lan. Trong nước, Friedrich theo chủ nghĩa Khai sáng chuyên chế, bảo trợ nghệ thuật, cải cách chính quyền, dân sự, xã hội, kinh tế, bãi bỏ hình phạt tra tấn, dỡ bỏ rào cản tôn giáo nhưng vẫn duy trì chế độ phong kiến.

Sau khi qua đời, Friedrich được an nghỉ ở Sanssouci, thành phố Potsdam. Sinh thời, ông đã cho xây dựng nhiều công trình công viên Sanssouci (tiếng Pháp là thoát khỏi sự phiền muộn), trong số đó điện Sanssouci (Điện Vô Ưu) ở Potsdam là nổi bật hơn cả. Do không có con nối dõi, Friedrich truyền ngôi Quốc vương cho người cháu Friedrich Wilhelm II - con trai thứ hai của thái tử August Wilhelm em ruột ông.

Thiếu thời

Ngày 24 tháng 1 năm 1712, Friedrich chào đời tại Berlin. Ông là con của vua Phổ Friedrich Wilhelm I (1668 – 1740) và Vương hậu Sophia Dorothea xứ Hanover (1687 – 1757) - con gái Quốc vương Anh-Tuyển hầu tước xứ Hanover George I. Friedrich có tổng cộng là 14 anh chị em, nhưng trong số đó chỉ 10 người sống đến tuổi trưởng thành.

Lúc ông ra đời, nước Phổ nằm dưới quyền thống trị của ông nội ông - Quốc vương Friedrich I. Trước kia, Friedrich I có hai người cháu chết yểu, vì vậy, nhà vua đặt nhiều hy vọng vào Friedrich. Chính vị vua này dùng cái tên của chính mình để đặt cho cháu nội, cũng hàm ý muốn đứa cháu này kế thừa Vương quốc Phổ - Brandenburg. Bản thân Friedrich cũng là một đứa bé khỏe mạnh. Vào ngày 31 tháng 1 năm 1712, khi ông được một tháng tuổi, vị Vương tôn được làm lễ rửa tội, cái tên "Karl" không được đặt và Friedrich trở thành tên chính thức của ông.

Sự giáo dục và những bất hòa với vua cha

trái|Vua Friedrich Wilhelm I, Vương hậu Sophia cùng Thái tử Friedrich và Vương tử August Wilhelm.Vua Friedrich Wilhelm I mong muốn các con của mình sẽ được dạy dỗ khác với những Vương thân quyền quý trong Vương thất Phổ, nhưng giống như những người bình dân. Trước đây, Friedrich Wilhelm từng được dạy dỗ bởi một phụ nữ Huguenot chỉ nói tiếng Pháp tên là Madame de Montbail, tức Madame de Rocoulle sau này, và Friedrich Wilhelm I mong muốn bà sẽ tiếp tục giáo dục các con của nhà vua. Vương tử Friedrich được các gia sư Huguenot giáo dục, và ông vừa học tiếng Pháp vừa học tiếng Đức. Nhà vua cho các thầy cô dạy Vương tử từ 6h sáng đến 22h30 tối. Mặc dù Friedrich Wilhelm I có khẩu dụ rằng giáo dục chỉ hoàn toàn mang màu sắc tôn giáo và thực dụng song với sự giúp đỡ của thầy Jacques Duhan Friedrich đã có được ba nghìn cuốn sách nói về thơ phú, văn học cổ điển Hy Lạp - La Mã, và triết học Pháp để bổ sung kiến thức sau những khóa học chính của ông. Friedrich từ nhỏ đã sống gần mẹ nên chịu ảnh hưởng nhiều từ bà về văn học và nghệ thuật. Friedrich rất ham đọc sách và thường lén vua cha tìm mua các loại sách vở đến mức phải bị mắc nợ. Về phía mình, vua Friedrich Wilhem I không muốn con trai của mình học văn chương vì sợ ông tiêm nhiễm phải sự nhu nhược. Nhà vua từng cầm gậy đánh vị thầy dạy tiếng La Tinh cho Friedrich và sau đó đánh cả con trai mình vì tội dám học "tiếng nói của loài chim". Điều này đã khiến mối quan hệ giữa Friedrich và vua cha bị rạn nứt trong một thời gian dài. Dù Friedrich Wilhelm I được nuôi dạy thành một tín đồ sùng đạo của thần học Calvin, nhà vua lo sợ rằng mình sẽ không được Thiên Chúa chọn lên Thiên đường. Để Friedrich khỏi phải suy nghĩ như vậy, nhà vua ra lệnh cho các thầy không dạy thuyết thiên định cho Thái tử. Bất chấp lệnh này, Friedrich đã thừa nhận thuyết Thiên định, dù là một người không trọng tín ngưỡng. Một số học giả cho rằng, Friedrich đã cố tình làm trái ý với vua cha.

Không những thân thiết với mẹ, Friedrich còn trở nên thân thiết với người chị ruột là Friederike Sophie Wilhelmine - người bạn thân của ông trong suốt đời. Năm 16 tuổi, Friedrich lại kết bạn với người lính hầu 13 tuổi của vua cha là Peter Karl Christoph Keith. Theo lời kể của Vương nữ Wilhelmine, tình bạn giữa Friedrich và Peter Keith sớm trở nên gắn bó:

Hai cuộc hôn nhân bất thành

phải|Vương tử Friedrich lúc ba tuổi cùng chị gái 6 tuổi là Wilhelmina, tranh của Antoine Pesne. Đầu năm 1730, Vương hậu Sophia Dorothea - vốn là người có quan hệ huyết thống với Vương tộc Anh Quốc nhỏ Tuy nhiên, lo sợ về một liên minh giữa hai nước Phổ và Anh, Thống chế von Seckendorff - Đại sứ Áo ở Berlin, đã lần lượt đút lót Thống chế von Grumbkow và Benjamin Reichenbach - Bộ trưởng Chiến tranh Phổ và viên Đại sứ Phổ ở Luân Đôn. Cặp đôi này đã thận trọng phỉ báng Triều đình Anh với vua Phổ cũng như phỉ báng Triều đình Phổ với vua Anh. Đồng thời, vua Friedrich Wilhelm I cũng lo sợ thế lực của Đế quốc Anh sẽ vươn tới nội địa nước Phổ - Bradendenburg, nhất là sau khi Tuyển hầu tước George Louis của xứ Hanover lên nối ngôi vua Anh.

Âm mưu trốn chạy bất thành

Vua Friedrich Wilhem I lại có ý định khác về vấn đề hôn nhân của con trai mình. Nhà vua có ý định gả Friedrich cho Elisabeth xứ Mecklenburg-Schwerin (cháu gái của Nữ hoàng Nga là Anna). Tuy nhiên, Vương công Eugène de Savoie-Carignan (François-Eugène de Savoie-Carignan) phản đối kịch liệt ý đồ này. Bản thân Friedrich muốn cưới Maria Theresia (con gái của Hoàng đế La Mã Thần thánh), đổi lại ông mất quyền kế vị. Tuy nhiên, Vương công Eugène thuyết phục nhà vua gả Friedrich cho Quận chúa Elisabeth Christine xứ Brunswick-Bevern (1715 – 1797) - một tín đồ Tin Lành, em họ của Maria Theresia.

Friedrich đã kịch liệt phản đối dự định gả ông cho Elisabeth Christine. Ông nói: "Tôi sẽ không bao giờ lấy con ngỗng ngốc nghếch đó." Dù vua cha Friedrich Wilhelm I đã công khai răn đe Friedrich II tại nơi công cộng, có lần nhà vua đã dùng roi quất Friedrich và cô bé đánh đàn dương cầm khi ông thổi sáo rất dữ dội trên đường phố Potsdam, nhà vua vẫn không thể khuất phục được ông. Với sự giúp đỡ của mẫu hậu và Vương nữ Wilhelmina, Friedrich đã lập mưu bỏ trốn sang Vương quốc Anh để tìm ý trung nhân của mình. Vào ngày 5 tháng 8 năm 1730, khi đoàn của họ gần đến Mannheim ở Tuyển hầu quốc Rhine thì Robert Keith, anh của Peter Karl Christoph Keith, đem kế hoạch của họ khai báo với vua Friedrich Wilhelm I và cầu xin được khoan hồng.

phải|Trung úy Hans Hermann von Katte bị hành hình. Đôi bạn Friedrich von Hohenzollern và Hans Hermann von Katte cùng bị bắt giam ở Küstrin. Vì hai người đều là sĩ quan tính trốn sang Anh, nhà vua kết tội phản quốc cho cả hai. Nhà vua dọa sẽ xử tử hình Friedrich, sau đó đổi ý buộc ông phải nhường tước vị thái tử lại cho em mình là August Wilhelm (1722 -1758), mặc dù cả hai hướng đều hoàn toàn không khả thi. Tuy Tòa án Quân sự đã không hề gây tổn hại đến Vương tử và chỉ tuyên án tù chung thân đối với Katte, vua cha Friedrich Wilhelm I lại truyền lệnh: Vào ngày 6 tháng 11 năm 1730, ông buộc phải chứng kiến Katte bị xử trảm tại Küstrin (Kostrzyn), một pháo đài trên sông Oder. Dù vậy, khi sống trong nhà ngục, Friedrich vẫn được đối xử tử tế đúng theo quy cách dành cho một Vương tử. Ông được chăm sóc chu đáo và thậm chí, vua cha còn cử một triều thần có kiến thức uyên thâm về thuật trị quốc đến sống chung và đàm đạo với con trai. Dưới sự gợi mở của người này, Friedrich đã phác thảo cho riêng mình một kế hoạch phát triển kinh tế nói chung và phát triển ngành dệt nói riêng cho Vương quốc Phổ. Theo thời gian, sự rạn nứt trong quan hệ cha con nhà vua dần dần được hàn gắn. Friedrich đã bình tâm hơn và ông không muốn mất ngôi Thái tử vì việc mãi chống đối với vua cha. Còn Friedrich Wilhelm I thì càng lúc càng nhớ thương con trai. Cuối cùng, Friedrich đã xuống nước viết một lá thư xin lỗi gửi cho vua cha Friedrich Wilhelm I. Friedrich Wilhelm I cảm thấy rất vui mừng, nhà vua vội đến ngục thăm con và ân xá Friedrich.

trái|Tranh vẽ Friedrich II, được treo ở Lâu đài Friedrichsfelde tại [[Berlin-Lichtenberg. Chưa rõ là họa phẩm của ai.]] Như vậy, Friedrich được ân xá và rời khỏi xà lim vào ngày 18 tháng 11 năm 1730, nhưng vẫn không nhận lại được cấp bậc trong quân đội mà ông bị tước trước đó. Hơn nữa, ông không được về Berlin, mà phải chịu sự giáo dục chặt chẽ về phương pháp trị quốc của Bộ Chiến tranh và Bộ Quản lý đất đai, kể từ ngày 20 tháng 11 năm 1730. Vài tháng sau, Friedrich Wilhelm I lại triệu hồi ông về Berlin để dự lễ cưới của chị ông là Wihelmina với Bá tước Friedrich xứ Bayreuth vào ngày 20 tháng 11 năm 1731. Cuối cùng, ông kết thúc khoá học tại Küstrin và trở về Berlin vào ngày 26 tháng 1 năm 1732. Từ đó ông sống xa cách với Công chúa Wilhelmina.

Hòa thuận với vua cha

Mặc dù Friedrich đã tính đến chuyện tự tử thay vì lấy Elisabeth Christine, lễ cưới giữa hai người được thực hiện vào ngày 12 tháng 6 năm 1733. Friedrich bực bội cho rằng cuộc hôn nhân mang màu sắc chính trị này như một trong những hành động của Áo nhằm quấy rối Phổ

Ngày 27 tháng 11 năm 1731, Friedrich Wilhelm I hồi phục gươm và quân phục cho Thái tử, đồng thời cử ông chỉ huy Trung đoàn von der Goltz, đóng tại đồn gần Nauen và Neuruppin. Trong Chiến tranh Kế vị Ba Lan, Friedrich Wilhelm I gửi một đạo quân Phổ đến giúp Quân đội Áo. Trong chiến dịch đánh Pháp trên sông Rhine, Friedrich được Vương công Eugène de Savoie-Carignan dạy về sách lược quân sự. Eugène đã tiên đoán rằng các quốc gia châu Âu sẽ phải bất ngờ trước những chính sách hiếu chiến của Friedrich, một khi ông lên kế vị ngai vàng Phổ. Theo lệnh của Friedrich Wilhelm I (bấy giờ đã yếu đi vì mắc phải căn bệnh gút trong chiến dịch chống Pháp), ông tới Schloss Rheinsberg tại Rheinsberg, nằm ở phía bắc Neuruppin. phải|Chân dung Vương Thái tử Friedrich, thực hiện bởi Antoine Pesne.

Từ đó vị Thái tử trẻ đã sống ở Rheinsberg suốt bốn năm. Ông đã có thể tự ý xem đủ mọi loại sách vở, đồng thời cũng thường mời một số bạn hữu cùng chí hướng đến bàn chuyện thế sự hay ngâm thơ, viết văn. Tại Rheinsberg, Friedrich tụ tập một nhóm nhỏ các nghệ sĩ, gồm những diễn viên, nhạc sĩ, v.v… Ông đọc tiểu sử các danh tướng, xem kịch, soạn nhạc và nghe nhạc. Ông xem thời gian này là một trong những giai đoạn an nhàn nhất trong cuộc đời ông. Ngoài ra, ông còn lập ra "Huy chương Bayard" để bàn luận về việc quân sự với các bạn của mình. Trong các cuộc tranh luận việc quân, nhóm bạn của Friedrich tôn Heinrich August de la Motte Fouqué làm "Đại sư". Trong thời gian này, Friedrich đã chủ động viết thư cho nhà triết học lừng danh Voltaire và tạo được duyên bút mực với nhà tư tưởng lớn này. Dĩ nhiên là Friedrich Wilhelm I không bao giờ quên việc đào luyện cho con trai mình thành một nhà kế vị tương lai. Nhà vua thường phái con trai đi giám sát đôn đốc việc thu thuế với tư cách là Thái tử, đồng thời cho Friedrich đi sâu vào quân đội để hiểu rõ tình hình Quân đội Phổ và làm quen với các tướng lĩnh cao cấp của Phổ. Dần dần, Friedrich đã trở nên yêu thích, có nhiều hiểu biết sâu sắc về tình hình đất nước và Quân đội Phổ, đồng thời đã có nhiều chủ kiến riêng của mình về các vấn đề này.

Tác phẩm "Bàn về Quân chủ" (tên tiếng Ý: De Principatibus) hay "Quân Vương" (Il Principe) của nhà triết học Niccolò Machiavelli vẫn được xem như kim chỉ nam cho đạo trị quốc ở các nước phương Tây trong thời đại của Friedrich von Hohenzollern. Tuy nhiên, năm 1739, Thái tử Friedrich hoàn tất bài tiểu luận "Chống chủ nghĩa Quyền thuật" (tên tiếng Đức: Antimachiavellismus), phản bác tư tưởng của Niccolò Machiavelli. Trong tác phẩm này ông đã cực lực bác bỏ quan điểm "khi cần thiết phải dùng đến bạo lực và sự phỉnh gạt" của Machiavelli, cho rằng quan điểm này đã phá hỏng sự tôn nghiêm của một vị vua. Đồng thời Friedrich cũng chủ trương "cai trị quốc gia trên quan điểm công bằng, nhân từ, bác ái" và "nhà vua không phải là một đấng cầm quyền chuyên chế, mà là công bộc đầu tiên của Quốc gia". Friedrich đã đem bản thảo đưa cho Voltaire nhờ triết gia này hiệu đính, và đã được Voltaire đánh giá cao. Qua tác phẩm này, Voltaire cho rằng Friedrich là một vị vua sáng suốt của châu Âu trong tương lai, nhà văn còn nhiệt tình hiệu đính bản thảo cho Friedrich và xuất bản quyển sách này tại Hague. Tác phẩm đã làm Friedrich nổi tiếng với quan điểm "nhà vua là công bộc đầu tiên của Quốc gia". Sau nhiều năm tập trung hết mình vào nghệ thuật thay vì chính trị, ông được tin vua cha Friedrich Wilhelm I qua đời vào ngày 31 tháng 5 năm 1740 tại Postdam. Friedrich lên ngôi Quốc vương Phổ kiêm Bá tước Brandenburg.

Vua Phổ

phải|nhỏ|Sự lớn mạnh của Vương triều [[Brandenburg–Phổ (1600 – 1795).]] Trước khi Friedrich lên nối ngôi vua, các triết gia và văn sĩ châu Âu đều mong ông trở thành một ông vua hiền triết. Tuy nhiên, hy vọng này nhanh chóng lắng xuống khi Friedrich phải đương đầu với những thực tế chính trị. Khi Friedrich nối ngôi "Vua ở Phổ" vào năm 1740, ông đã thừa hưởng từ vua cha một nhà nước giàu mạnh và một quân đội hùng mạnh do triều trước dày công xây cất. Dù vậy, thời bấy giờ Phổ vẫn còn là một vương quốc nhỏ bao gồm những vùng đất nằm rải rác, chẳng hạn như Cleves, Mark, và Ravensberg ở phía Tây của Đế quốc La Mã Thần thánh; Brandenburg, Nội Pomerania, và Ngoại Pomerania ở phía Đông Đế quốc; và cựu Công quốc Phổ nằm bên ngoài Đế quốc và có đường biên giới với Ba Lan. Ông có tước hiệu là Vua ở Phổ vì lãnh thổ của ông chỉ là một phần của vùng đất Phổ thuộc đế quốc La Mã Thần thánh. Mãi đến năm 1772, sau khi chiếm được phần lớn những vùng đất còn lại, ông mới tự phong làm Đức Vua của Phổ.

Xây dựng quân đội Phổ

Một trong những việc đầu tiên Friedrich bắt tay vào sau khi lên ngôi là huấn luyện sĩ tốt, xây dựng một quân đội kỷ luật nhất châu Âu. Về số lượng quân sĩ, nếu Phụ vương Friedrich Wilhelm I đã tăng quân số Phổ từ 3 vạn lên gần 9 vạn binh lính, thì ông lại tiếp tục mở rộng quân số Phổ đến 20 vạn quân sĩ tinh nhuệ. Trong các nước châu Âu thời đó, Phổ được quân sự hóa hơn cả; có nhận định của nhà sử học người Đức Georg Heinrich von Behrendost, nhưng thường được cho là của Mirabeau, như sau:

trái|nhỏ|Die Huldigung der schlesischen Stände vor Friedrich II. in Breslau 1741, 1882, hoạ phẩm của Wilhelm Camphausen (1818–1885). Dưới Triều đại Friedrich II, Quân đội Phổ trở thành một lực lượng có tinh thần kỷ luật, với những binh sĩ thiện chiến và mẫn tiệp. Song, Quân đội Phổ của ông là một trong những cỗ máy cứng nhắc nhất trong lịch sử quân sự Đức, người lính Phổ chỉ là một dụng cụ. Người lính Phổ không hề suy nghĩ, anh ta chỉ răm rắp làm theo lệnh của cấp trên. Friedrich cũng đào tào kỹ lưỡng lực lượng Kỵ binh, nên theo triết gia Friedrich Engels, nhà vua còn có trong tay một "lực lượng Kỵ binh không ai sánh kịp", đây sẽ là lực lượng giữ vai trò là cú đấm quyết định trong các trận đánh lớn. Không những thế, trong dự toán ngân sách quốc gia hàng năm thì ngân sách quân sự đã chiếm đến 80 phần trăm. Công cuộc cải cách Quân đội Phổ đã tạo cho vị Quốc vương có điều kiện để tiến hành những cuộc chinh phạt mở mang bờ cõi tại Âu châu lục địa.

Sau cuộc chiến tranh Silesia lần thứ hai, tận dụng khoảng thời gian quý báu này, Friedrich II tăng cường cải cách Quân đội Phổ - Brandenburg. Ông chú trọng đưa những đội pháo binh (do chiến mã kéo) trở thành một binh chủng của Quân đội Vương quốc Phổ, qua đó tăng cường sức cơ động cho pháo binh đồng thời ban bố quy định mỗi năm đều phải thực hiện chế độ duyệt binh và diễn tập với mục đích là hoàn tất cơ chế huấn luyện Quân đội.

Trong suốt bảy năm chinh chiến, nhà vua nhận thấy nước Phổ cần có một lực lượng dân quân tự vệ, và do đó ông đã xây dựng lực lượng này. Vào năm 1759, ông thiết lập một khẩu đội pháo bao gồm những khẩu hỏa pháo nặng đến sáu pao và mỗi khẩu pháo được một con chiến mã kéo, được đóng yên cương theo từng cặp với ba kỵ sĩ, và được phục vụ bởi bảy thượng sĩ phụ trách khẩu pháo. Dù khẩu đội pháo thường chịu tổn thất trên trận tiền do những kỵ sĩ không đáng tín nhiệm, "cơ cấu biệt đội" này được nhà vua tin tưởng là lợi thế về chiến thuật của lực lượng Quân đội Phổ, và sẽ còn được di truyền về sau.. Một số cường quốc Âu châu đã xây dựng lực lượng Quân đội theo kiểu nước Phổ dưới triều Friedrich II.

Công cuộc mở mang bờ cõi Phổ

trái|Chân dung Friedrich II. Friedrich II mong muốn đổi mới và thống nhất những vùng đất cát cứ trong Vương quốc của mình. Triều đại lâu dài của ông chứng kiến việc Triều đình Phổ phá vỡ quyền "Thiên tử" toàn bộ Đức của Triều đình Áo như trước đây, nói cách khác là sự ra đời của "chủ nghĩa nhị nguyên Đức" (1740 – 1866) của Áo và Phổ - hai nước hùng mạnh nhất trong đế quốc La Mã Thần thánh. Để đòi quyền thống trị những vùng nói tiếng Đức, ông đã phát động không ít cuộc chiến tranh chống lại đế quốc Áo - do Hoàng gia Habsburg trị vì. Hầu hết các Hoàng đế La Mã Thần thánh cầm quyền từ thế kỷ XV cho tới năm 1806 đều là thành viên của triều đại Habsburg này. Những thắng lợi quân sự của Friedrich đã nâng cấp Phổ từ một nước khá yếu lên thành một cường quốc hàng đầu châu Âu khi đó. Có được thành tựu này là nhờ ông đã phát huy tiềm lực về quân sự vốn có của Phổ từ thời Friedrich Wilhelm I và nói theo lối sống thanh đạm của tổ tiên.

Chiến tranh Kế vị Áo (1740 - 1748) và 10 năm thái bình

Friedrich muốn chiếm Schlesien, tỉnh giàu có nhất Áo. Ông bèn đối kháng "Đạo luật Thừa kế năm 1713" cho Maria Theresia kế ngôi vua Áo. Ông cũng quan ngại rằng, vua Ba Lan kiêm tuyển hầu tước Sachsen August III sẽ chiếm Schlesien hầu cách nối lại những vùng đất rời rạc của mình. Ngày 16 tháng 12 năm 1740, Friedrich đích thân dẫn 28000 quân đi đánh Schlesien, viện cớ thực thi một hiệp ước giữa nhà Hohenzollern với nhà Piast xứ Brieg (Brzeg) năm 1537, mà hầu như không ai biết đến. Trước đó, ông đã đề nghị Maria Theresia nhượng cho ông Glogau và Schlesien, đổi lại ông sẽ tôn chồng bà làm Hoàng đế La Mã Thần thánh Franz I, nhưng bà không hồi âm.

trái|nhỏ|Quân Phổ trong trận Mollwitz (1741)

Cuộc chiến đầu tiên (1740 - 1742)

Friedrich nhanh chóng hạ các đồn binh Áo và thu phục Hạ Silesia tháng 2 năm 1741. Năm 1741, quân Áo phản kích, bị Friedrich phá tan ở trận Mollwitz ngày 10 tháng 4. Đầu trận này kỵ binh Phổ lép vế trước kỵ binh Áo, Friedrich phải rời bỏ trận địa, nhưng bộ binh Phổ do thống chế Schwerin chỉ huy đã đánh bại quân Áo. nhà vua vẫn đóng quân tại đây và nạp thêm tân binh vào Quân đội Phổ, cũng như cải thiện chất lượng của Kỵ binh.

Kết quả trận Molwitz mở đường cho Friedrich II lập liên minh với Pháp, Bayern, một số vua chư hầu người Đức, Tây Ban Nha, Sardinia và Thụy Điển, chống Áo, Anh, Hà Lan và Nga. Sau đó, Friedrich đem quân chiếm Bohemia, lấn sang cả Morava nhưng thất lợi phải lui về Bohemia. Đại quân Áo tới Bohemia, lại thua Friedrich trong trận Chotusitz (Czaslau) ngày 17 tháng 5. Sau đó Friedrich xé bỏ liên minh với Pháp và ký Hòa ước Breslau với Áo vào ngày 11 tháng 6 năm 1742, theo đó người Phổ nhận được vùng Silesia, đổi lại nước Phổ cũng phải gánh món nợ 1,7 triệu đồng Thalers của Áo. Việc Phổ thu phục Schlesien cũng được chính thức công nhận theo Hiệp định Berlin vào ngày 28 tháng 7. Sau cuộc chiến tranh này, đất Phổ mở rộng thêm 1/3.

Cuộc chiến thứ hai (1744 - 1745)

Năm 1744, Áo mưu chiếm lại Silesia, Friedrich nhân danh đồng minh của Pháp và Bayern tái chiến, mở ra chiến tranh Silesia lần thứ hai (1744 – 1745) Ông dẫn 8 vạn đại quân chiếm Sachsen, sau đó tràn sang Bohemia nhưng không thành công do chiến thuật tiêu thổ của Áo. Tướng Áo đem 7 vạn quân Áo-Sachsen phản kích vào Schlesien, Friedrich dẫn 65 nghìn quân bất thần đánh trận địa địch trong trận Hohenfriedberg ngày 4 tháng 6 năm 1745. Liện quân tan chạy về đất Áo. phải|Chiến thắng tại Hohenfriedberg, Cuộc tấn công của Bộ binh Phổ, tranh sơn dầu trên vải bạt của [[Carl Röchling.]]

Ngày 26 tháng 8, Friedrich ký hòa ước với Anh, nhưng Áo quyết không hòa. Tháng 9 Friedrich đánh Bohemia, không thắng. Trên đường rút, khoảng 2 vạn quân Friedrich bị 4 vạn quân Áo đột kích trong trận Soor, nhưng quân Phổ nhờ tinh thần kỷ luật cao nên thắng.

Cuối năm 1745 Friedrich II chia quân làm 2 cánh sang đánh Sachsen. Cánh quân thứ nhất do Friedrich trực tiếp chỉ huy chiếm được Leipzig; cánh quân thứ hai của Thống chế Leopold von Anhalt-Dessau đụng một trận lớn với liên quân Áo-Sachsen ở Kesselsdorf, liên quân thua lớn. Ngày 17 tháng 12 năm 1745, 2 cánh quân gặp nhau ở Dresden. Áo chịu giảng hòa. Theo Hiệp định Dresden vào Giáng sinh năm 1745, Friedrich giữ vững quyền bá chủ các xứ Silesia và Glatz, Dân số nước Phổ đã tăng vọt; ngoài ra, ông cuộc chinh phạt xứ Silesia đã mang lại quyền kiểm soát sông Oder cho Phổ.

Vào tháng 12 năm 1745, Friedrich II kéo quân về Berlin. Dân Phổ đứng chật hai bên đường nghênh đón nhà vua và đây là lần đầu tiên ông đượ gọi là "Friedrich Đại Đế". Sau khi ông hoàn tất cuộc chiếm đóng vùng Silesia, trong khoảng 10 năm sau đó ở châu Âu không có những hoạt động quân sự nào đe dọa đến nền an ninh quốc gia của Phổ. Ông cho rằng, các vua Hohenzollern cần phải chiếm Sachsen, Pomerania thuộc Ba Lan và Phổ thuộc Ba Lan. Bên cạnh đó, trong "Di chúc Chính trị" (1752), nhà vua cũng khuyên các vua kế tục không nên tranh ngôi Hoàng đế La Mã Thần thánh với vua Áo.

Chiến tranh Bảy năm (1756 - 1763)

Nước Áo Habsburg là kẻ thù truyền kiếp của nước Pháp Bourbon. Trước đây vua Pháp Louis XV theo phe Friedrich II trong cuộc chiến 1740-48. Tuy nhiên, năm 1756, liên minh Anh-Áo tan rã, một phần vì Anh bận đánh Pháp giành thuộc địa ở Bắc Mỹ và Ấn Độ từ năm 1755 nên không thiết tha với Áo. Lúc này Phổ đã phất lên ngoạn mục, làm cả Áo và Pháp đều lo sợ. Hai nước bèn bắt tay lập liên minh. Friedrich sợ, liền lập liên minh với Anh tại Hiệp định Westminster ngày 6 tháng 1 năm 1756. Anh sở dĩ chịu liên minh và viện trợ cho Phổ vì Anh muốn dùng Phổ để kiềm chế Pháp tại châu Âu.

Sau đó, Friedrich phán đoán Áo, Pháp sẽ họp quân đánh Schlesien, nên ông phải tung đòn phủ đầu trước. Ông thảo ra 3 mục tiêu: 1) đánh gấp Sachsen (một nước trung lập trong khối La-Đức mà ông nghĩ là theo Áo), xóa sổ đe dọa từ Sachsen và dùng nhân lực, tài lực Sachsen nuôi sống quân Phổ; 2) đánh Bohemia; 3) đánh Mähren theo đường Schlesien, chiếm thành Olmütz, nhân thế chẻ trẻ tiến ra Viên bắt Áo đầu hàng.

Ngày 29 tháng 8 năm 1756, Friedrich sai một tướng đem 25000 quân giữ Schlesien phòng quân Áo từ Mähren và Hungary lấn sang, một tướng khác giữ Đông Phổ phòng Nga lấn (lúc này Nga khá thân thiện với Áo). Tự Friedrich đem 10 vạn đại quân bất thần đánh Sachsen. Ngày 9 tháng 9, quân Phổ vào quốc đô Dresden, quân Sachsen về giữ Pitna. Tiếp theo đó, ngày 10 tháng 9 Friedrich vây thành Pirna. Khi Áo gửi quân tiếp viện giúp Sachsen, Friedrich tiến ra đánh Áo trong trận Lobositz ngày 1 tháng 10. Quân Áo đã được bảo ban, rèn luyện kỹ nên chiến đấu rất ngoan cường. Hai bên đều chết hại cỡ 2900 quân, và Friedrich khó khăn lắm mới thắng được. Ngày 13 tháng 10, Pirna thất tủ, Friedrich II ép quân Sachsen phải nhập ngũ quân đội Phổ. Hành vi này đã gây cho dư luận châu Âu (kể cả nhiều người Phổ) phẫn nộ.

Giai đoạn đầu (1757 - 1758)

Sau khi Friedrich đánh Sachsen, Áo, Nga, Pháp, Thụy Điển và khối La-Đức tính đem 50 vạn quân vây đánh Phổ. Friedrich chỉ có hai đồng minh là Anh và Hanover, nhưng Anh chỉ viện trợ về mặt tài chính. Do vậy tháng 4 năm 1757, Friedrich cầm 64000 quân, cấp tốc đánh Bohemia hòng loại trừ Áo. Ông đánh bại quân Áo do Karl xứ Lothringen chỉ huy tại Praha ngày 6 tháng 5, nhưng Phổ hao hụt hơn 12000 người. Ngày 18 tháng 6, thống chế Áo Leopold Joseph von Daun dẫn viện binh áp sát Praha. Friedrich đem 35000 quân đánh hơn 5 vạn quân Daun trong trận Kolín, kết quả ông thua to, quân Phổ chết hại gần 14000. Chiến dịch Bohemia bị phá sản, Friedrich tháo chạy về Sachsen. trái|Friedrich II trong trận Zorndorf.

Sau chiến thắng Kolín, liên minh Áo-Nga-Pháp-Thụy Điển tung quân vây đánh 4 mặt. Mặt đông, quân Nga đánh tan 3 vạn quân của trấn thủ Đông Phổ Hans von Lehwaldt; mặt bắc, quân Thụy Điển tràn xuống Pommern; mặt nam, Karl xứ Lothringen và Daun đem hơn 8 vạn đại quân Áo thu hồi Schlesien; mặt tây, quân đội Pháp tiến công Sachsen và các nước đồng minh của Phổ ở miền Tây Đức. Cùng lúc đó, vương công Joseph xứ Sachsen-Hildburghausen chiêu mộ 25 nghìn quân khối La-Đức tại thượng lưu sông Rhein hòng chuẩn bị hợp lực với Pháp đánh chiếm Berlin ép Phổ đầu hàng.

Tại Schlesien, Laudon có để lại một đội quân nhỏ, bất thần chiếm Schweidnitz, một trong các trọng tâm của tỉnh. Cùng lúc đó, tân thủ tướng Anh Huân tước Bute tuyên bố ngưng viện trợ cho Phổ. Cùng lúc đó, quân Nga và Thụy Điển hạ được thành Kolberg ở Pommern. Đến đây, tài lực Phổ kiệt quệ, quân số thiếu hụt đến mức phải tuyển cả trẻ con 13, 14 tuổi vào làm lính, tinh thần binh sĩ sa sút trầm trọng. Còn bản thân Friedrich thì tóc bạc trắng, tinh thần suy sụp, hốc hác như một ông già và nhiễm phải chứng phong thấp do phải lăn lộn quá nhiều ngoài sa trường. Ông luôn mang theo người một bình thuốc độc để khi cần thì tự sát.

Giữ vững vương quốc

phải|Friedrich II sau [[Trận Torgau|chiến thắng Torgau, tranh sơn dầu trên vải bạt của Bernhard Rode.]] Đầu năm 1762, Phổ gần kề thất bại, Friedrich II được tin nữ hoàng Nga Yelizaveta Petrovna qua đời vào ngày 5 tháng 1 năm 1762. Do không có con, sinh thời Elizaveta chỉ định cháu là Đại Công tước Pyotr xứ Schleswig-Holstein làm thái tử, tức Nga hoàng Pyotr III. Pyotr III là người ngưỡng mộ Friedrich II, liền lập liên minh tấn công và phòng thủ với Phổ, rút quân khỏi vùng Đông Phổ đồng thời tuyên bố bảo vệ Phổ trước bất cứ một cuộc tấn công nào, Friedrich cũng trao trả tù binh Nga. Theo chân Nga, Thuỵ Điển cũng ký kết Hiệp ước Hamburg với Phổ vào ngày 22 tháng 5 cùng năm đó, đưa Phổ và Thuỵ Điển đến tình trạng status quo ante bellum.

Dù Anh không viện trợ nữa nhưng Friedrich vẫn quyết tâm theo đuổi cuộc chiến. Trên mặt trận phía Tây, Friedrich được công tước Ferdinand xứ Brunswick giúp sức, quân Phổ thắng quân Pháp trong trận Wilhelmstal ngày 24 tháng 6 và đuổi quân Pháp ra khỏi xứ Westphalia, lại thắng ở Lutterberg ngày 23 tháng 7 năm 1762, rồi chiếm luôn thành Cassel. Ngày 1 tháng 7 năm 1762, Nga hoàng Pyotr III gửi một đạo quân Nga tới giúp Phổ, nhưng ít lâu sau đó liên minh Áo - Nga tan rã, theo lời của tướng Nga Zakhar Grigoryevich Chernyshov là do Pyotr III qua đời, triều đình Nga "chịu ảnh hưởng từ các kẻ thù của Đức Vua" nên hạ lệnh rút quân về Nga. Ông bèn khôn khéo giữ quân Nga lại chỉ để "hù dọa" quân Áo. Nhờ vậy, Friedrich đánh bại quân Áo trong trận Burkersdorf vào ngày 21 tháng 7 năm 1762. Đây là lần đầu tiên Friedrich tấn công bằng các đội hình dọc thay vì đội hình ngang.

trái|Friedrich II cùng Quân đội Phổ. Sau khi quân Nga rút lui, Friedrich vây Schweidnitz, đánh bại viện quân của Daun ở Reichenbach ngày 16 tháng 8. Schweidnitz đầu hàng. Tại Sachsen quân Phổ do thân vương Heinrich chỉ huy ở Sachsen phá quân của thống chế Jean-Baptiste Serbelloni trong trận Freiberg. Hai bên đều suy suyển, bèn tiến hành đàm phán. Vào ngày 15 tháng 2 năm 1763, chiến tranh kết thúc với Hòa ước Hubertusburg, theo đó, Theresia thừa nhận khôi phục lại tình trạng ban đầu ("status quo ante bellum"), xác lập chủ quyền của Phổ đối với Silesia. Tuy nhiên, Friedrich phải trao trả độc lập cho Sachsen. Thành công của Friedrich trong việc giữ vững vương quốc đã khẳng định vai trò của Phổ như một cường quốc châu Âu Theo một nhà ngoại giao người Pháp, từ đây thanh thế Phổ rất lớn, được coi là minh chủ các nước Kháng Cách chống Áo trong đế quốc La-Đức. Bên cạnh đó, ngay sau cuộc chiến tranh Bảy năm, nước Phổ không còn có một đồng minh cường quốc nào; nhà vua bằng mọi giá không đẩy Phổ vào bất kỳ một cuộc chiến tranh nào. Ông biết rằng, Vương quốc này chỉ mới trở thành một trong những liệt cường trên lục địa châu Âu, nhưng có thể mất vị thế này - vốn dựa vào sức mạnh của Quân đội đất nước. Nga công nhận quyền cai quản Silesia của Phổ, đổi lại Phổ ủng hộ Nga chống Áo hoặc Thổ Nhĩ Kỳ. Nhờ Phổ chống lưng, Ekaterina II đưa người tình là Stanisław August Poniatowski lên làm vua Ba Lan, từ từ khống chế Ba Lan. tháng 9 năm đó, Stanisław August Poniatowski được phong vương. Liên minh Nga-Phổ kéo dài đến năm 1781. Friedrich không muốn Nga mạnh lên nhờ lấy đất của Thổ, nhưng vẫn viện trợ 30 vạn rúp. Một mặt Friedrich thỏa thuận với vua Áo Joseph II và tổng lý Wenzel Anton (Vương công xứ Kaunitz-Rietberg) để hòa giải với Áo. Ngay từ năm 1731, trong thư gửi Thống chế Dubislav Gneomar von Natzmer, Friedrich đã thấy việc sáp nhập phần Ba Lan thuộc Phổ sẽ giúp cho các lãnh thổ phía Đông của Phổ được thống nhất. trái|Friedrich II, Ekaterina II và Joseph II chia cắt "chiếc bánh" Ba Lan (1772).

Mùa đông 1770 - 1771, em Friedrich là Heinrich đến đến chầu Ekaterina II tại Sankt-Peterburg. Thấy Áo sáp nhập một số vùng đất vào năm 1769, Nga gợi ý Phổ chiếm một số vùng thuộc Ba Lan, chẳng hạn như Warmia. Nghe vậy, Heinrich trình tấu kế hoạch này lên vua anh, và nhà vua gợi ý tiến hành chia cắt Ba Lan giữa Phổ - Áo - Nga. Thấy vậy, tổng lý Áo Kaunitz yêu cầu Phổ, sau khi lấy đất của Ba Lan, phải trả lại tỉnh Silesia cho Áo, nhưng Friedrich II không nghe. Ông sáp nhập 36 nghìn cây số vuông lãnh thổ cùng với 60 vạn dân cư vào Vương quốc Phổ - Brandenburg. Như vậy, Phổ là nước nhận được ít đất đai nhất trong ba liệt cường tham gia cuộc phân chia lãnh thổ của Liên bang Ba Lan-Liva. Tuy nhiên, vùng đất mới Tây Phổ đã hợp nhất với Đông Phổ cùng các vùng Brandenburg, Hinterpommern và khiến cho Phổ nhận được quyền cai quản cửa sông Wisla, một khu vực có giá trị kinh tế quan trọng. Mặc dù Maria Theresia đã chấp thuận việc phân chia này một cách miễn cưỡng, theo Friedrich II, "dù bà ta đã khóc, nhưng bà ta buộc phải đồng ý".

Như vậy, Phổ đã thu được nhiều lợi ích nhất trong cuộc chia cắt Ba Lan lần thứ nhất (1772), dù không chiếm được vùng Danzig hoặc là vùng Thorn (Torun). Ông nhanh chóng thực hiện cải tổ về mặt hành chính, luật pháp, là cải tiến hệ thống trường học ở Tây Phổ. Tuy nhiên, nhà vua tỏ ra coi thường những thần dân mới của mình. Ông không làm gì ngoài việc xúc phạm szlachta, một nhóm quý tộc người Ba Lan, vì viết rằng Ba Lan "là nước có một chính phủ tồi tệ nhất ở châu Âu, nếu không kể Thổ Nhĩ Kỳ". lại còn so sánh người Ba Lan với người Iroquois ở Bắc Mỹ. Trong lá thư gửi Heinrich, ông cho rằng:

Friedrich bèn cho người Đức đến Tây Phổ để quy hoạch tỉnh này. Nhiều quan đại thần người Phổ cũng tỏ thái độ coi thường người Ba Lan. Tuy nhiên, bên cạnh đó nhà vua đối xử tốt với một số người Ba Lan, chẳng hạn như Tổng Giám mục Ignacy Krasicki, người đã làm lễ khai trương Đại giáo đường Thánh Hedwig vào năm 1773. Ngoài ra, ông còn khuyên các vị vua kế tục nên học tiếng Ba Lan. Họ đã làm theo lời khuyên của ông, mãi cho đến khi Friedrich III quyết định không cho con mình là Wilhelm II học ngôn ngữ này. Khi Cách mạng Mỹ bùng nổ, Chính phủ Anh tố cáo ông ngăn cản việc họ thuê một toán quân Nga làm lính đàn áp Cách mạng Mỹ, và cho các tướng tá Phổ đứng về phe Cách mạng, nhưng vô căn cứ. Ông không hề sai tướng nào đánh Anh, và một Nam Tước Phổ là Friedrich Wilhelm Augustin Ludolf Gerhard chỉ tình nguyện giúp cho Cách mạng, không phải là nghe lệnh của nhà vua.. Friedrich Kapp nhìn nhận: phải| Friedrich II qua nét vẽ của Adolph von Menzel, 1859.

Bản thân Friedrich II cũng trơ trẽn thừa nhận ông có ý định "đứng về phe nào có lợi thế trong cuộc chiến tranh". Lúc bấy giờ, ông mong muốn tái lập liên minh Nga-Phổ. Vì thế, ông đồng ý với đề xuất trung gian của Ekaterina II trong cuộc Cách mạng Bắc Mỹ. Khi bà thiết lập "Liên minh các nước trung lập vũ trang" chống lại Đế quốc Thực dân Anh, Friedrich đã tham gia liên minh này. Sau khi cuộc chiến tranh giành độc lập của 13 thuộc địa Anh tại Bắc Mỹ thắng lợi, ông thừa nhận nền độc lập của Hiệp chúng quốc Hoa Kỳ. Một lý do khác khiến ông tham gia "Liên minh các nước trung lập vũ trang" là do ông muốn phát triển nền thương mại nước nhà, như một lá thư giữa quan Khâm sai Đại thần Phổ và một nhà ngoại giao người Mỹ ghi nhận khi Cách mạng còn tiếp diễn: "Theo văn kiện của một viên đại thần trên danh nghĩa vua, vua Phổ tuyên bố: những thương gia Bắc Mỹ chắc chắn sẽ giành độc lập cho non sông, và họ sẽ mang tàu buôn của họ vào các cảng của Đại vương dưới sự cho phép của Ngài" (1779).

Friedrich được các nhà cách mạng Mỹ George Washington, Benjamin Franklin hay Greene thán phục. Đến Mỹ, Nam tước Friedrich Wilhelm Augustin Ludolf Gerhard von Steuben - nguyên là Sĩ quan Quân đội Phổ - được chào mừng như một trong những chiến binh dưới quyền Friedrich. Sự hiện hữu của nhiều nhà hàng mang tên "Quốc vương nước Phổ" là một biểu hiện của lòng yêu mến của dân Mỹ đối với vua Phổ. Không những các nhà hàng và thị trấn, nhân dân các thuộc địa ở Bắc Mỹ cũng đặt tên những con tàu buôn của họ là "Quốc vương nước Phổ", vì nhận thấy những chiến thắng của ông có ảnh hưởng đến sự rút lui của thực dân Pháp ra khỏi Canada. Là vị minh chủ cuộc đấu tranh của người Tin Lành chống đế quốc Áo, những người Đức tại Pennsylvania và New York và cả các lãnh tụ Cách mạng Mỹ xem ông là vị vua tài giỏi nhất, người chiến binh kiệt xuất nhất của Âu châu, và xem cuộc chiến tranh Bảy năm anh hùng của ông như một tấm gương để người Mỹ noi theo.

Cuộc chiến cuối cùng (1778 - 1785)

phải|nhỏ|"Friedrich Đại đế và anh quân y", tranh sơn dầu trên vải bạt của Bernhard Rode. Về cuối đời, Friedrich lại đánh Áo trong Chiến tranh Kế vị Bayern (1778 – 1779), chống lại âm mưu chiếm đóng xứ Bayern của Joseph II. Ông liên minh với tuyển hầu tước Sachsen và quận công Karl xứ Zweibrük. Ngày 3 tháng 7 năm 1778, Friedrich tự làm tướng đánh Bohemia, đến sông Elbe gặp quân Áo bố phòng cẩn mật, nên Friedrich không dám đánh lớn. Maria Theresia sợ, van nài Friedrich rút quân. Friedrich hứa sẽ không gây tính mạng của Joseph II.

Sau nhiều thỏa thuận bí mật với Maria Theresia, Friedrich ký với Áo Hiệp định Teschen. Friedrich lấy được các xứ Ansbach, Baviere; quân Áo chịu rút khỏi Bayern. Cân bằng quyền lực Áo-Phổ được giữ vững.

Đầu thập niên 1780, vua Áo tái lập liên minh Áo-Nga-Pháp hòng sáp nhập Bayern vào Áo. Friedrich hết sức lo buồn, thường than rằng việc thống trị nước Phổ đã trở thành một nỗi lo đối với tấm thân 70 tuổi của mình. Friedrich bèn thiết lập "Liên minh các Vương hầu người Đức" (Fürstenbund) vào ngày 23 tháng 7 năm 1785, cùng với các lãnh chúa xứ Sachsen và Hanover. Nhiều tiểu quốc Đức như Hesse-Cassel, Gotha, Weimar, Brunswick, Ansbach, Baden, Anhalt, v.v... cũng đồng loạt theo về minh chủ Friedrich II. Sự kiện này đã khiến ông được xem là người bảo vệ những đặc quyền của một số tiểu quốc nói tiếng Đức, chứ không còn là vị vua gây chiến với triều đại Habsburg như trước đây nữa.

Nội trị

Bên cạnh những thành tựu về quân sự, Friedrich cũng tiến hành cải cách về chính trị, kinh tế để Phổ từ một xứ lạc hậu trở thành một cường quốc kinh tế. Cuộc chiếm đóng xứ Silesia đã đem lại nguyên liệu cho các ngành công nghiệp non trẻ của nước Phổ. Nhà vua đã thực hiện chính sách khuyến nông và bảo hộ các ngành công nghiệp trong nước bằng các biện pháp như: đánh thuế nhập khẩu cao và giảm bớt tối đa các rào cản trong nội thương. Triều đình huy động nhân dân xây các kênh đào (trong số đó có một kênh nằm giữa sông Vistula và sông Oder) cấp nước cho các đầm lầy để canh tác nông nghiệp, và giới thiệu các loại cây trồng mới như khoai tây và củ cải. Friedrich II đã đặt Oderbruch làm một tỉnh của Vương quốc Phổ, ông cho rằng "Ta đã chinh phạt được Orberuch mà không phải tốn một mũi tên": phần lớn đầm lầy ở đây trở thành nơi trồng trọt sau các năm 1746 – 1753. Vào tháng 5 năm 1744, lãnh chúa Charles Edvard của xứ Đông Frisia qua đời, ông bác bỏ quyền thừa kế của triều đại Hanover và chiếm luôn xứ Đông Frisia, mở rộng tầm nhìn ra Biển Bắc. Ông ao ước thành Emden (Đông Frisia) sẽ là một đối thủ của Amsterdarm tại Đế quốc Hà Lan, do đó ông cho phép họ được tự do buôn bán vào năm 1751. Với sự giúp đỡ của các chuyên gia người Pháp, ông đã cải tổ hệ thống thuế gián thu. Thuế gián thu đã mang lại thu nhập cao (hơn thuế trực tiếp) cho Nhà nước. nhà vua đã giành lấy kiểm quyển soát công ty sản xuất đồ sứ của ông này (KPM), nhưng lại không mua thêm tranh do Gotzkowsky bán. Do đó, công ty sản xuất đồ sứ "KPM" trở thành một công ty thuộc quyền kiểm soát của Hoàng gia Phổ Quốc.

Dưới thời Friedrich II ảnh hưởng từ cuộc chiến tranh Bảy năm và cuộc tấn cong Silesia đã dẫn đến sự thay đổi lớn lao của nền kinh tế đất nước. Trong bảy năm chinh chiến, Fiedrich xuống chiếu khuyến nhân dân đóng thuế đến 43 triệu thaler. Suốt bảy năm ấy, có 3 lần nhà vua giảm giá đồng tiền Phổ. Không những thế, ông cũng thu thập những đồng tiền mà ông chiếm được từ tay liên quân chống Phổ tại các tỉnh Silesia, Pomerania, v.v... Vào năm 1763, sau ngày khải hoàn, ông bắt tay vào việc tái thiết dần dần nước Phổ đang ở trong tình trạng đổ nát. Trong công cuộc tái thiết Vương quốc, sử sách ghi chép rõ: nhà vua không hề nợ của ai bất kỳ một đồng đô la nào.

Friedrich cũng thiết lập Ngân hàng Berlin vào năm 1764, và đặt ngân hàng này làm ngân hàng quốc gia. Ông đã gửi một số tiền tương đương với 8 triệu thalers vào Ngân hàng Berlin. Cũng sau ngày khải hoàn, ông ban hạt giống cho địa chủ của ruộng đất bị bỏ hoang để họ gieo trồng, Tổng cộng, cuối đời Friedrich II, ông dùng 24 triệu thaler để cải thiện nền nông nghiệp và công nghiệp.

trái|nhỏ|"Đức Vua ở khắp mọi nơi", hoạ phẩm của Robert Warthmüller (1886), cho thấy Friedrich thăm một trang trại khoai tây.

Nhà vua theo dõi chặt chẽ hệ thống hành chính nước Phổ. Friedrich đã xây dựng một hệ thống Chính phủ Đế chế Phổ - Brandenburg thời cận đại, hiệu quả nhất trên toàn cõi châu Âu. Cho đến năm 1760, trụ cột của hệ thống hành chính Đế chế Phổ - Brandenburg là viên Bộ trưởng Chiến tranh (kiêm luôn chức Bộ trưởng Tài chính) Adam Ludwig von Blumenthal. Vào năm 1764, cháu trai của A. L. Blumenthal là Joachim lên nối nghiệp, tiếp tục làm quan qua nhiều đời vua. Có một lần, nhà vua nước Phổ đã căn dặn Thủ tướng Heinrich von Podewils:

Cho đến năm 1786, nhà vua vẫn nghiêm khắc hạn chế những ảnh hưởng từ các vị đại thần trong triều, chẳng hạn như Bá tước Finck von Finckenstein. Khi còn làm Thủ tướng Chính phủ, Heinrich von Podewils có ít ảnh hưởng đến nền thống trị Phổ thời đó, chỉ là kẻ làm theo những mệnh lệnh khe khắc của Quốc vương. Theo Hamish Scott, "Podewils... được tiếp cận với các phái bộ sứ thần tại thủ đô, và được nghe bất cứ những gì các sứ thần nói. Tuy nhiên, ông không được trả lời khi chưa có lệnh bua. Nói cách khác, vị thượng quan này, là người phát ngôn và là lỗ tai của vua. Tuy nhiên, ông không được phát biểu đường lối chính trị và không thể hiểu nổi những ý định thực sự của vua" Theo Giáo sư R. Lodge (Britain and Prussia, trang 72), Thủ tướng Von Finckenstein chỉ là một "kẻ phát ngôn của những ý định khẩn cấp của ông" và "bản thân ông không hề có ảnh hưởng gì đối với chính sách của Friedrich". Tuy nhiên, theo cuốn Liên minh Anh - Phổ và cuộc chiến tranh Bảy năm: nghiên cứu về các chính sách liên minh và ngoại giao, sự dè đặt kín đáo trong những bức thư giữa nhà vua và Thủ tướng cho thấy Von Finckenstein có những quan điểm rõ rệt trong chính sách đối nội và đối ngoại của nhà vua..

Friedrich đã tìm cách thiết lập một số cơ quan cùng làm việc với bộ máy Chính phủ Phổ sẵn có, nhưng lệ thuộc vào nhà vua hơn, và thi hành trách nhiệm mau lẹ hơn. Ông đã cải cách 'Hội đồng Chấp chính', được vua cha Friedrich Wilhelm I thiết lập trước đây. Để tăng hiệu quả của Hội đồng này, Friedrich II tiếp tục cải cách: ông xuống chiếu thành lập một số Bộ mới để chăm lo kinh tế, khuyến khích công - thương nghiệp và cung cấp quân nhu cho Quân đội Phổ. Không may thay, do những trục trặc (chẳng hạn như mâu thuẫn giữa các Bộ), những cải cách 'Hội đồng Chấp chính' không thành công lắm. Vào năm 1763, ông lại đề xướng cải cách khác. Có thể nói, đây là ý tưởng giảm bớt quyền lợi của 'Hội đồng Chấp chính', và nâng cao ảnh hưởng của Quân vương trong mọi việc triều chính. Sau đó, ông xuống chiếu thiết lập một số Bộ, và giao cho họ những trách nhiệm riêng biệt. Dù Bộ trưởng các Bộ này thuộc về 'Hội đồng Chấp chính', trên thực tế họ là những quan chức hoàn toàn riêng lẻ và trực tiếp trao đổi mọi chuyện với nhà vua. Friedrich II không có ý định xóa bỏ các Tổ chức Hành pháp Chiến tranh và Ruộng đất cấp tỉnh do Friedrich Wilhelm I lập ra, nhưng ông cố gắng giảm bớt quyền hành của các Tổ chức này, và buộc họ phải thi hành Huấn lệnh của Hoàng gia nhanh chóng hơn. Do đó, khi nhà vua chiến thắng tại Silesia, ông giao xứ này cho các Tổ chức Hành pháp Ruộng đất - họ không lệ thuộc vào 'Hội đồng Chấp chính' nhưng trung thành với Quân vương. Nhà vua cũng làm điều tương tự khi chiếm đóng Tây Phổ sau cuộc chia cắt Ba Lan lần thứ nhất (1772). Vào năm 1783, ông nói với viên Thống đốc thành Breslau:

phải|Friedrich và người cháu - sau là vua Friedrich Wilhelm III.

Theo nhận định của cựu Thủ tướng Cộng hoà Liên bang Đức Helmut Kohl, tên tuổi của Friedrich II "gắn liền với sự mở đầu của nền thống trị bằng Luật pháp và một Chính phủ hiện đại". Ông cho rằng hình phạt tra tấn không chỉ "tàn bạo" (grausam), mà cũng không phải là một cách tìm công lý; và hạn chế số lượng tội phạm có thể bị tử hình. Hình phạt những cô gái phá thai cũng bị Triều đình ông xóa sổ.

Friedrich cũng đầu tư nhiều công sức vào việc xây dựng một nền giáo dục tốt. Sau khi ông lên ngôi năm 1740, các trường dạy tiếng La Tinh ở Phổ đã được cải tổ. Tiếng Hy Lạp trở thành một trong những bộ môn quan trọng nhất trong các trường dạy tiếng La Tinh. Vào năm 1753, ông hạ lệnh cho mở trường học tại những ngôi làng quê. Nhiều năm sau (1770), ông thiết lập Viện Hàn Lâm Mỏ ở Berlin, mở đầu cho quá trình hình thành của Trường Đại học Kỹ thuật Berlin. Nhiều nước tích cực cạnh tranh với hệ thống giáo dục Phổ, trong số đó có cả Hoa Kỳ Triều đình Friedrich II cho phép những quý tộc Junker tha hồ mua ruộng đất, đổi lại họ phải giúp vua trong chiến tranh. So với nước Nga thời bấy giờ, nước Phổ của Friedrich II mang tính tư sản hơn, nhưng so với nước Pháp - vốn có ảnh hưởng lớn đến nhà vua Phổ - Phổ là một cường quốc gần như không có tầng lớp trung lưu; thậm chí, nước Phổ của Friedrich II là quốc gia ít tính chất tư sản nhất trong các nước thuộc đế quốc La Mã Thần thánh.

Mặc khác, nhà vua nước Phổ, trong những lần đi bộ ngao du, thường thăm hỏi và nói chuyện thân mật với bà con nông dân. Người ta gọi nước Phổ trong thời kỳ trị vì lâu dài của ông là một "chính thể quân chủ chuyên chế lập hiến". Friedrich II còn tự tấn phong làm "Đức Vua của Phổ" sau khi chiếm được vùng Prusy Królewskie (Tây Phổ, ngoại trừ vùng Gdańsk) vào những năm 1770 – 1772, chứ không còn là "Đức Vua Phổ" như trước nữa. Tước hiệu "Đức Vua Phổ" đã được dùng kể từ khi Friedrich I von Hohenzollern làm lễ đăng quang tại Königsberg năm 1701. Trong khi lãnh thổ Phổ trước kia rộng 119000 ki-lô-mét vuông, ông đã mở rộng đến 185.000 ki-lô-mét vuông. Đến khi nhà vua qua đời vào năm 1786,à ngân khố quốc gia chứa đến 70 triệu thalers.

Chính sách tự do tôn giáo

Đối với tôn giáo, Friedrich thực hiện chính sách tự do khoan hồng. Sau khi Friedrich Wilhelm I qua đời, Friedrich II đã ân xá cho nhà triết học Christian Wolff - người từng bị trục xuất khỏi Phổ vì tội "vô thần". Friedrich II đã phủ nhận bất cứ một mối quan hệ nào giữa quốc gia và những tín điều giáo lý. Ngay từ khi lên ngôi, vào ngày 22 tháng 6 năm 1740, nghe lời than phiền rằng cộng đồng Công giáo Phổ đang tìm cách mở trường học để giảm số lượng tín đồ của Hội thánh Tin Lành, ông đã lưu ý với Bộ Tôn giáo Phổ:

Dưới triều đại ông, ở các xứ bị ông chinh phạt, tín đồ Công giáo được sinh sống tự do. Tại Berlin, một giáo đường của người Công giáo được xây dựng. Nhà vua dạy những thần dân Kháng Cách rằng, họ cũng có quyền hạn ngang với các tín đồ Công giáo Rôma, và không được ngược đãi tôn giáo này. Nhà vua còn tuyên bố ông sẽ xây cất các nhà thờ Hồi giáo hay Thiên Chúa giáo nếu "bọn Thổ Nhĩ Kỳ và bọn ngoại giáo đến sinh sống ở nước ta". Trong Tiểu luận về các hình thức Chính phủ (1777) của ông, nhà vua cho rằng: "Sự đàn áp là thứ gây ra những cuộc nội chiến, đẫm máu nhất, lâu dài nhất và huỷ diệt kinh khủng", và phủ nhận cả tư tưởng cấm đoán tôn giáo lẫn chính sách cấm đoán tôn giáo. Phổ tự do tín ngưỡng đến mức không một nước nào ở Đức sánh bằng, Triều đình Friedrich II cũng xuống chiếu mời những người ngoại quốc đến di cư ở các làng bản hoang tàn, góp phần tái thiết Vương quốc sau cuộc chiến tranh Bảy năm kinh hoàng. Sau khi Giáo hoàng Clêmentê XIV giải thể Dòng Tên, ông vẫn cho phép các giáo sĩ Dòng Tên được giảng đạo tại vùng Silesia, Warmia, và quận Netze. Ông thích đem những tinh hoa khác nhau đến vương quốc của mình, từ các giáo sĩ Dòng Tên, những tín đồ Huguenot, hay những nhà buôn và chủ ngân hàng Do Thái, chủ yếu là từ Vương quốc Tây Ban Nha. Ông mong muốn phát triển tất cả các miền đất trên khắp đất nước, đặc biệt là tại những vùng đất mà ông cho là rất cần phải phát triển. Song, những cuộc cải cách của nhà vua tự do tư tưởng không hề gặp bất kỳ sự phản đối nào từ tầng lớp hạ lưu theo đạo Luther.

Dưới triều Friedrich II, người ta đã trồng trọt được nhiều vùng đất hoang, Vương quốc Phổ đã có dấu hiệu chuyển hóa thành một nước theo chủ nghĩa thực dân. Nhà vua nhấn mạnh rằng dân tộc và tôn giáo không phải là những vấn đề mà ông lo sợ.

Nhà vua với văn hoá - nghệ thuật

Nhà triết học Voltaire có nhận định về Vương quốc Phổ dưới triều đại lâu dài của Friedrich II:

Âm nhạc, triết học, văn học thời Friedrich II

Bức tranh The Flute Concert of Sanssouci của [[Adolph von Menzel, 1852, miêu tả cảnh Friedrich II thổi sáo trong phòng hoà nhạc tại cung điện Sanssouci.]] Không những là một tướng lĩnh, Friedrich II còn là một nhà văn và nhà soạn nhạc khá tài hoa. Dù bận chính sư, ông vẫn chơi sáo hằng ngày. Chính ông đã sáng tác 100 bản xô-nát để thổi sáo, và bốn bản nhạc giao hưởng. Một ngày của Triều đình Friedrich II thường bắt đầu vào 4 giờ sáng, rồi kết thúc với một bữa ăn tối, và một buổi hoà nhạc về đêm, khi ông chơi những bản công-xéc-tô sáo mà ông biết. Ông còn ví von mình với Moses ở bán đảo Sinai, tức coi mình là vị vua dẫn dắt nền văn hóa đồ sộ của nước nhà trở nên tiến bộ hơn. Dưới triều đại ông diễn ra sự kiện querelle des bouffons: nền âm nhạc Ý vượt trội Pháp, tạo điều kiện cho Đức phát triển và vươn lên vượt trợi cả Ý sau này.

Tương truyền rằng Friedrich II đã soạn bản "Hành khúc Hohenfriedberg" để kỷ niệm chiến thắng của ông tại Hohenfriedberg (1745). Dưới triều đại lâu dài của ông, những nhạc sĩ cung đình Phổ bao gồm C. P. E. Bach, Johann Joachim Quantz, và Franz Benda. Johann Joachim Quantz là thầy dạy thổi sáo của ông trong vòng nhiều năm, làm nhạc sĩ cung đình cho đến qua đời vào năm 1773. Joachim Quantz đã viết cho Quốc vương 300 bản côngxéctô sáo. Ngoài ra, năm 1747, ông vời nhạc sĩ Johann Sebastian Bach đến gặp ông tại thành phố Potsdam, cuộc gặp gỡ này đã tạo cảm hứng để Sebastian Bach sáng tác bản "Musikalisches Opfer", còn được gọi là Das Musikalische Opfer.

Friedrich II là một trong những người mở ra thời kỳ Khai sáng tại Phổ. Vào ngày 14 tháng 8 năm 1738 (gần hai năm trước ông lên làm vua), ông bí mật tham gia Hội Tam Điểm tại Brunswick. Khi lên làm vua vào năm 1740, ông trở thành "Đại sư" của chi nhánh Hội Tam Điểm tại lâu đài Rheinsberg. Do đó, nhánh này có tên là "Chi nhánh thứ nhất", hay "Chi nhánh của Thánh thượng - vị Đại sư của chúng ta". Theo đề nghị của Quốc vương, vào ngày 13 tháng 9 năm 1740, một chi nhánh mới của Hội Tam Điểm được thiết lập ngay tại Berlin, lấy tên là "Ba thế giới". Ông có cùng quan điểm với triết học Khai sáng của Pháp, và rất ngưỡng mộ Voltaire - một nhà văn đồng thời là triết gia lừng danh của triết học Khai sáng. Là vị quân vương có tư tưởng tự do nhất châu Âu thời bấy giờ, ông và Voltaire trở thành đôi bạn thân thiết trong một thời gian lâu dài. Có người nói: "Ông vua này đã cùng Voltaire trị vì chế độ quân chủ tiến bộ vào thế kỷ XVIII". Vào tháng 7 năm 1750, Voltaire đến Berlin, sau đó đến Postdam theo lời mời của Friedrich II. Quốc vương Phổ đã khuyến khích nhà triết học Pháp gửi gắm quan điểm của mình về đạo đức, tôn giáo và xã hội trong bộ Từ điển Triết học, tuy nhiên mãi đến năm 1764 Voltaire mới xuất bản tác phẩm này. Họ bất hòa với nhau vào năm 1753 và nhà triết học trở về nước Pháp. Trong Tân Hoàng cung của nhà vua ở Sanssouci, có một "căn phòng của Voltaire" - nơi Voltaire cư ngụ trong thời gian đại văn hào này sống tại Postdam từ năm 1750 đến năm 1753. Trong những năm tháng chiến tranh, trong đại bản doanh tại thành phố Breslau, ông vẫn đọc những cuốn sử sách của De Thou và Fleury, hay những tập thơ của nhà triết học người La Mã là Lucretius. Ông từng nói với D'Alembert: "Khi ta phiền toái, ta đọc tập thơ thứ III của Lucretius và nỗi buồn của ta trôi qua: đây là một viên thuốc bổ, nhưng viên thuốc này chữa được những dịch bệnh mà không gì có thể chữa nổi!".

Trong thời gian cầm quyền của Friedrich, nhân dân Phổ có quyền tự do ngôn luận và tự do báo chí hạn chế. Vào năm 1741, ông sáng lập ra tiền thân của tờ báo "Schlesische Zeitung" tại thành phố Breslau thuộc Phổ, với tên gọi là "Schlesisch privillegierte Staats-, Krieg- un Friendenszeitung" (Báo Nhà nước, Chiến tranh và Hoà bình, được Hoàng gia bảo trợ). Ngay từ khi lên ngôi vua, ông đã mong muốn Vương quốc mình sẽ là nơi quy tụ của nhiều nhà bác học kiệt xuất. Chính vì thế, tháng 7 năm 1741, ông đã triệu nhà toán học Leonhard Euler đến Berlin. Nhà vua thiết lập Viện Hàn lâm Khoa học Berlin vào ba năm sau và bổ nhiệm một nhà toán học tên Pierre-Louis Moreau de Maupertuis làm Viện trưởng của Viện này. Ông còn giao cho Euler phụ trách các ngành vật lý và toán học tại Viện Hàn lâm Khoa học Berlin. Bước sang thập niên 1760, Friedrich lại bất hòa với Leonhard Euler, do một ý tưởng độc tài và những rắc rối nhỏ nhặt. Nhà vua cũng viết cuốn "Discours de l'utilité des sciences et des arts dans un État" để phản hồi các tác phẩm "Discours" trong các năm 1750 và 1753, "Guy-li hay Nàng Hê-lô-i-dơ mới" (1760), "Contrat Social", và "Ê-min hay Về giáo dục" (cùng vào năm 1762) của nhà văn Jean-Jacques Rousseau, được đọc trước Viện Hàn lâm Khoa học Berlin vào ngày 27 tháng 1 năm 1772.

trái|Die Tafelrunde, tranh vẽ của Adolph von Menzel. Friedrich Đại đế đang tiếp khách tại Sanssouci, bao gồm những thành viên Viện Hàn lâm Khoa học Phổ và Voltaire (ngồi, người thứ ba từ bên trái).

Tuy vậy, Vương quốc Triết học của Friedrich II đã lôi cuốn nhiều văn sĩ lớn, không những Pierre Louis Maupertuis mà còn có Francesco Algarotti, d'Argens và Julien Offray de La Mettrie. Cũng trong thời gian cầm quyền của ế Friedrich II, nhà triết học nổi tiếng Immanuel Kant (1724 – 1804) đã xuất bản những tác phẩm viết về tôn giáo tại Berlin, tại châu Âu có nơi đã kiểm duyệt những tác phẩm này. Thủ đô Berlin trở thành trung tâm văn hóa, nghệ thuật và nghiên cứu của lục địa Âu châu trong thời gian này. Không những thế, ông cũng cho Johann Christian Edelman - một người theo học thuyết Spi-nô-da tiến bộ - đến tị nạn tại Berlin. Vào năm 1747, giới tăng lữ Calvin và Luther đã công kích Edelman, họ xem Edelman là một mối hiểm họa và là thành viên của một môn phái thù địch. Nhà vua cũng tỏ ra thiếu thiện ý với J. C. Edelman, do Edelman có tư tưởng chống đối chế độ quân chủ chuyên chế, và phê phán bài ca tụng việc lên nối ngôi của Friedrich II do Voltaire sáng tác. Nhưng Friedrich II không hề phản đối chủ nghĩa t

👁️ 3 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Friedrich Wilhelm II** (25 tháng 9 năm 1744 – 16 tháng 11 năm 1797) là vị vua thứ 4 của Vương quốc Phổ, tại vị từ năm 1786 cho đến khi qua đời vào năm
**Friedrich II** (24 tháng 1 năm 171217 tháng 8 năm 1786) là vua nước Phổ trị vì từ ngày 31 tháng 5 năm 1740 cho đến khi qua đời vào ngày 17 tháng 8 năm
**Friedrich I**, còn viết là **Frederic** (đọc là **Frêđêrich**) (11 tháng 7 năm 1657 – 25 tháng 2 năm 1713) là một thành viên của Nhà Hohenzollern. Ông là Tuyển hầu tước xứ Brandenburg (1688
**Luise Philippine của Phổ** (tiếng Đức: _Luise Philippine von Preußen_; tiếng Anh: _Louise Philippine of Prussia_; tên đầy đủ: _Friederike Dorothea Luise Philippine_; 24 tháng 5 năm 1770 – 7 tháng 12 năm 1836) là
**Friederike Luise của Phổ** (; 29 tháng 8 năm 1714 – 4 tháng 2 năm 1784) là con gái của Friedrich Wilhelm I của Phổ và Sophie Dorothea của Hannover. Thông qua cuộc hôn nhân
**Wilhelmine của Phổ** (3 tháng 7 năm 1709 – 14 tháng 10 năm 1758), là một Vương nữ Phổ và là nhà soạn nhạc. Wilhelmine là con gái lớn của Friedrich Wilhelm I của Phổ
Sự ra đời của Frederick II. **Friedrich II** (26 tháng 12, 1194 – 13 tháng 12, 1250), của triều đại Hohenstaufen, là người Ý, tranh ngôi Vua của người La Mã từ năm 1212, trở
**Philippine Charlotte của Phổ** (13 tháng 3 năm 1716, Berlin – 17 tháng 2 năm 1801, Braunschweig) là Công tước phu nhân xứ Braunschweig-Wolfenbüttel thông qua hôn nhân với Karl I xứ Braunschweig-Wolfenbüttel. Philippine Charlotte
**Wilhelmine của Phổ** (tiếng Đức: _Wilhelmine von Preußen_; tiếng Hà Lan: _Wilhelmina van Pruisen_; tiếng Anh: _Wilhelmina of Prussia_; tên đầy đủ: _Friederike Sophie Wilhelmine_; 7 tháng 8 năm 1751 tại Berlin – 9 tháng
**August Wilhelm** là một hoàng thân nước Phổ. Ông sinh vào ngày 9 tháng 8 năm 1722 tại kinh thành Berlin, là con của Friedrich Wilhelm I của Phổ và Sophia Dorothea của Đại Anh,
**Joseph II** (tên đầy đủ là **Joseph Benedikt Anton Michael Adam**; sinh ngày 13 tháng 3 năm 1741, mất ngày 20 tháng 2 năm 1790) là Hoàng đế của đế quốc La Mã Thần thánh
**Charlotte của Phổ** (tiếng Đức: _Victoria Elisabeth Augusta Charlotte von Preußen_; 24 tháng 7 năm 1860 – 1 tháng 10 năm 1919) là Công tước phu nhân xứ Sachsen-Meiningen từ năm 1914 cho đến năm
**Yekaterina II Đại đế** (tiếng Nga: Екатерина II Великая; sinh ngày 2 tháng 5 năm 1729 – mất ngày 6 hoặc 17 tháng 11 năm 1796), đôi khi được viết là **Ekaterina II**, hay **Yekaterina
**Friedrich Karl Nikolaus của Phổ** (1828 – 1885) là cháu trai Wilhelm I – vị hoàng đế khai quốc của đế quốc Đức – và là một Thống chế quân đội Phổ-Đức. Ông thường được
nhỏ| [[James Gillray: _Sự tương phản thời trang; – hoặc – chiếc giày nhỏ của Công tước phu nhân bị khuất phục trước bàn chân to lớn của ngài Công tước_, được xuất bản lần
**Sophie của Phổ** (tiếng Đức: _Sophie von Preußen_; tiếng Hy Lạp: Σοφία της Πρωσίας; 4 tháng 6 năm 1870 – 13 tháng 1 năm 1932) là Vương hậu Hy Lạp từ ngày 18 tháng 3
**Friedrich Wilhelm III** hoặc **Friedrich Công Chính** (sinh ngày 3 tháng 8 năm 1770 - mất ngày 7 tháng 6 năm 1840) là vua của Vương quốc Phổ từ năm 1797-1840. Ông trị vì Phổ
**Joachim của Phổ** (tên đầy đủ: _Joachim Franz Humbert_; 17 tháng 12 năm 1890 – 18 tháng 7 năm 1920) là con trai út và con thứ sáu của Wilhelm II của Đức, và Auguste
**Hoàng tử Albrecht của Phổ** (tên đầy đủ là **Friedrich Heinrich Albrecht**; 4 tháng 10 năm 1809 tại, thủ phủ Königsberg của Đông Phổ – 14 tháng 10 năm 1872 tại thủ đô Berlin của
**Leopold II** (tiếng Đức: _Peter Leopold Josef Anton Joachim Pius Gotthard_; tiếng Ý: _Pietro Leopoldo Giuseppe Antonio Gioacchino Pio Gottardo_; tiếng Anh: _Peter Leopold Joseph Anthony Joachim Pius Godehard_; 5 tháng 5 năm 1747 1
**Pedro II** (tiếng Anh: _Peter II_; 02 tháng 12 năm 1825 - 5 tháng 12 năm 1891), có biệt danh là "**Người cao thượng**", là vị hoàng đế thứ 2 và cuối cùng của Đế
**Viktoria Margarete của Phổ** (Viktoria Margarete Elisabeth Marie Adelheid Ulrike; 17 tháng 4 năm 1890 – 9 tháng 9 năm 1923) là một thành viên của Vương tộc Hohenzollern. Viktoria Margarete là con gái lớn
**Ludwig II** (_Ludwig Otto Friedrich Wilhelm_; 25 tháng 8 năm 1845 – 13 tháng 6 năm 1886), còn được gọi là **Vua Thiên nga** hoặc **Vua truyện cổ tích** (der Märchenkönig), là Vua của Bayern
**Friedrich của Phổ** có thể là: *Friedrich I của Phổ (1657–1713), Vua ở Phổ *Friedrich II của Phổ (1712–1786), Vua của Phổ *Friedrich III của Phổ (1831-1888), Vua của Phổ *Hoàng tử Friedrich của Phổ
**Wilhelmine của Phổ** (tiếng Đức: _Wilhelmine von Preußen_; tiếng Anh: _Wihelmine of Prussia_; tên đầy đủ: _Friederike Luise Wilhelmine_; 18 tháng 11 năm 1774 – 12 tháng 10 năm 1837) là Vương hậu đầu tiên
**Auguste của Phổ** (Christine Friederike Auguste; 1 tháng 5 năm 1780 – 19 tháng 2 năm 1841) là chủ của một salon, họa sĩ và thông qua hôn nhân với Wilhelm II xứ Hessen là
**Antonia của Phổ**, Công tước phu nhân xứ Wellington (tiếng Đức: _Antonia von Preußen_; tiếng Anh: _Antonia of Prussia_; tên đầy đủ: _Antonia Elizabeth Brigid Louise Mansfeld_; ngày 28 tháng 4 năm 1995) là cháu
**Phổ** (tiếng Đức: Preußen; tiếng Latinh: _Borussia_, _Prutenia_; tiếng Anh: Prussia; tiếng Litva: _Prūsija_; tiếng Ba Lan: _Prusy_; tiếng Phổ cổ: _Prūsa_) là một quốc gia trong lịch sử cận đại phát sinh từ Brandenburg,
phải|Nữ hoàng Nga [[Elizaveta Petrovna đã tham gia Liên minh chống Phổ trong Bảy năm chinh chiến.]] Thành ngữ **Phép lạ của Nhà Brandenburg** (tiếng Đức: _Mirakel des Hauses Brandenburg_, tiếng Pháp: _Miracle de la
**Friedrich Heinrich Ludwig** (18 tháng 1 năm 1726 – 3 tháng 8 năm 1802), thường được gọi là _Heinrich_, là một Vương thân của Vương quốc Phổ, em trai của vua Phổ Friedrich II Đại
**Friedrich Wilhelm I**, tên thật là **Friedrich Wilhelm von Hohenzollern**, (14 tháng 8 năm 1688 – 31 tháng 5 năm 1740), phiên âm tiếng Việt là **Phriđrích I Vinhem** là một thành viên của Hoàng
**Friedrich Wilhelm IV** (15 tháng 10 năm 1795 – 2 tháng 1 năm 1861) là vua nước Phổ từ ngày 4 tháng 6 năm 1840 cho đến khi băng hà vào ngày 2 tháng 1
**Anna Amalie của Phổ** (; 9 tháng 11 năm 1723 – 30 tháng 3 năm 1787) là một nhà soạn nhạc và giám tuyển âm nhạc người Đức thời kỳ cận đại, và là Nữ
**Viktoria của Phổ** (Friederike Amalia Wilhelmine Viktoria; 12 tháng 4 năm 1866 – 13 tháng 11 năm 1929) là con gái thứ hai của Hoàng đế Friedrich III của Đức và Victoria Adelaide của Liên
**Margarethe của Phổ** (tiếng Đức: _Margarethe von Preußen_; tên đầy đủ: _Margarethe Beatrice Feodora_; 22 tháng 4 năm 1872 – 22 tháng 1 năm 1954) là con út của Hoàng đế Friedrich III của Đức
**Eitel Friedrich của Phổ** (tên đầy đủ: _Wilhelm Eitel Friedrich Christian Karl_;7 tháng 7 năm 1883 – 8 tháng 12 năm 1942) là con trai thứ hai của Hoàng đế Wilhelm II của Đức với
**Sophie Dorothea của Phổ** (; 25 tháng 1 năm 1719 – 13 tháng 11 năm 1765) là người con thứ chín và là con gái thứ năm của Friedrich Wilhelm I của Phổ và Sophie
**Hoàng thân Adalbert của Phổ** (sinh ngày 29 tháng 10 năm 1811 tại Berlin – mất ngày 6 tháng 6 năm 1873 tại Karlsbad), tên khai sinh là **Heinrich Wilhelm Adalbert** là một hoàng tử
**Viktoria Luise của Phổ** (tiếng Đức: _Viktoria Luise von Preußen_; tên đầy đủ: _Viktoria Luise Adelheid Mathilde Charlotte_; 13 tháng 9 năm 1892 – 11 tháng 12 năm 1980) là người con cuối cùng của
**Chiến tranh Áo – Phổ** (hay còn gọi là **Chiến tranh bảy tuần**, **Nội chiến Đức** hoặc **Chiến tranh Phổ – Đức**; ) là cuộc chiến tranh diễn ra vào năm 1866 giữa 2 cường
**Willem II của Hà Lan** (Willem Frederik George Lodewijk van Oranje-Nassau) (6 tháng 12 năm 1792 - 17 tháng 3 năm 1849) là vua của Hà Lan, Đại công tước của Luxembourg, và Công tước
**Charlotte Wilhelmine của Phổ** (; 13 tháng 7, năm 1798 – 1 tháng 11, năm 1860), được biết đến ở Nga với cái tên **Aleksandra Fyodorovna** (), là Hoàng hậu Đế quốc Nga với vai
**Adalbert của Phổ** (tên đầy đủ: _Adalbert Ferdinand Berengar Viktor_; 14 tháng 7 năm 1884 – 22 tháng 9 năm 1948) là con trai của Wilhelm II của Đức với Auguste Viktoria xứ Schleswig-Holstein. ##
**Heinrich của Phổ** (14 tháng 8 năm 1862 – 20 tháng 4 năm 1929) là em trai của Hoàng đế Đức Wilhelm II và là con trai của Friedrich III của Đức và Victoria Adelaide
nhỏ|Quân thập tự chinh bao vây Damascus năm 1148 **Friedrich I Barbarossa** (1122 – 10 tháng 6 năm 1190) là Hoàng đế của Đế quốc La Mã Thần thánh từ năm 1155 cho đến khi băng
**Maria Theresia Walburga Amalia Christina của Áo** (; 13 tháng 5, năm 1717 - 29 tháng 11, năm 1780) là một thành viên và cũng là Nữ quân vương duy nhất của Nhà Habsburg, một
**Friedrich Wilhelm Viktor Abert von Hohenzollern, Wilhelm II** của Phổ và Đức, (27 tháng 1 năm 1859 – 4 tháng 6 năm 1941) là vị Hoàng đế (_Kaiser_) cuối cùng của Đế quốc Đức, đồng
**Binh đoàn số 3** () là một biên chế đơn vị quân sự được thành lập trong thời gian ngắn trong Chiến tranh Pháp–Phổ. Nó được tạo thành từ các đơn vị quân đội của
**Maximilian II của Bayern** (28 tháng 11 năm 1811 – 10 tháng 3 năm 1864) có dòng dõi nhà Wittelsbach, là vua của Bayern từ năm 1848 đến năm 1864. Ông là con trai của
**Trung đoàn Lính ném lựu đạn "Thái tử Friedrich III" (Đông Phổ số 1) số 1** (_Grenadier-Regiment „Kronprinz" (1. Ostpreußisches) Nr. 1_) một trung đoàn bộ binh tồn tại dưới nhiều tên gọi khác nhau