✨Công quốc Sachsen-Coburg và Gotha

Công quốc Sachsen-Coburg và Gotha

Công quốc Sachsen-Coburg và Gotha (tiếng Đức: Herzogtum Sachsen-Coburg und Gotha) là một nhà nước cấu thành nên Đế quốc Đức, được cai trị bởi một trong những nhánh của dòng Ernestine, chi trưởng của Nhà Wettin. Lãnh thổ của nó nằm trong bang Thüringen và Bayern, Đức ngày nay. Nó tồn tại từ năm 1826 đến Cách mạng Đức năm 1918 thì chế độ quân chủ bị bãi bỏ trên toàn bộ Đế chế Đức. Vào tháng 11 năm 1918, Carl Eduard xứ Sachsen-Coburg và Gotha, đã buộc phải thoái vị. Năm 1920, phần phía bắc của Công quốc (kể từ năm 1918, bang tự do Gotha; về mặt văn hóa và ngôn ngữ Thüringen) đã được hợp nhất với sáu bang tự do khác để tạo thành bang tự do Thüringen: Sachsen-Weimar-Eisenach (cho đến năm 1918 là một đại công quốc), Sachsen-Altenburg và Sachsen-Meiningen (cho đến năm 1918 là những công quốc), Schwarzburg-Rudolstadt và Schwarzburg-Sondershausen cũng như bang nhân dân Reuss (cho đến năm 1918 là lãnh thổ của Thân vương quốc Reuss-Gera). Phần phía nam của công quốc (kể từ năm 1918 là bang tự do Coburg; về mặt văn hóa và ngôn ngữ Franken), nằm về chót phía nam của các bang Thüringen, là bang duy nhất, sau một cuộc trưng cầu dân ý, đã trở thành một phần của bang Bayern tự do.

Tiền thân của Công quốc Sachsen-Coburg và Gotha chính là Công quốc Sachsen-Coburg-Saalfeld, nó chính thức thay đổi quốc hiệu từ năm 1826, khi Công tước Ernst III được thừa kế phần lãnh thổ Gotha sau cái chết không có người thừa kế của Friedrich IV, Công tước xứ Sachsen-Gotha-Altenburg, nhưng đổi lại ông phải mất Saalfeld cho công tước xứ Sachsen-Meiningen. Con trai của Ernst là Công tử Albrecht đã kết hôn với Nữ vương Victoria, khởi đầu cho việc Sachsen-Coburg và Gotha trở thành một vương tộc ở Vương quốc Anh. Em trai út của Công tước Ernst là Công tử Leopold được bầu lên ngai vàng của Vương quốc Bỉ, trong khi đó một người em trai khác là Thân vương Ferdinand đã hôn phối với nữ thừa kế Nhà Koháry để tạo ra nhánh Sachsen-Coburg và Gotha-Koháry, sau trở thành vương tộc trị vì Bồ Đào Nha và Bulgaria.

Cái tên Sachsen-Coburg-Gotha cũng đề cập đến vương tộc Sachsen-Coburg và Gotha, đóng nhiều vai trò khác nhau trong lịch sử triều đại và chính trị của châu Âu trong thế kỷ 19 và 20. Vào đầu thế kỷ 20, trước Thế chiến thứ nhất, đó là vương tộc của các chủ quyền Vương quốc Anh, Bỉ, Bồ Đào Nha, Bulgaria và Sachsen-Coburg-Gotha. Năm 1910, nhà vua Bồ Đào Nha đã bị phế truất, và điều tương tự cũng xảy ra ở Sachsen-Coburg-Gotha vào năm 1918 và ở Bulgaria năm 1946. Cho đến 2022, một nhánh của vương tộc vẫn trị vì ở Bỉ, Vương quốc Anh, và các lãnh thổ Thịnh vượng chung khác, Simeon II (trị vì năm 1943-46), giữ họ của mình trong khi làm thủ tướng Bulgaria từ năm 2001 đến 2005.

Sachsen-Coburg và Gotha là cách gọi thống nhất dưới vương quyền của một công tước, nhưng trên thực tế thì nó là 2 công quốc riêng biệt với 2 chính phủ và nghị viện riêng biệt, trị vì dưới hình thức liên minh cá nhân và chưa bao giờ được hợp nhất dưới hình thức một nhà nước. Trong Hạ viện của Đế quốc Đức, Sachsen-Coburg và Gotha có 2 ghế cho 2 công quốc, một ghế cho Coburg và một ghế cho Gotha. Trong suốt quá trình tồn tại của nó từ năm 1826 cho đến khi xoá bỏ chế độ quân chủ vào năm 1918, 2 công quốc đã trải qua 4 đời công tước trị vì dưới hình thức liên minh cá nhân, bao gồm: Ernst I, Ernst II, Alfred và Carl Eduard.

Lịch sử

thumb|Ducal standard xứ Sachsen-Coburg và Gotha

Công quốc ra đời khi Friedrich August I, vua của Vương quốc Sachsen đứng ra làm trọng tài và đưa ra Hiệp ước Hildburghausen vào ngày 12 tháng 11 năm 1826, áp dụng cho Gothaische Teilung (Phân khu Gothan), sự sắp xếp lại rộng rãi Các công quốc Ernestine. Sau khi dòng Công tước Sachsen-Gotha-Altenburg tuyệt tự, Công tước xứ Sachsen-Hildburghausen đã đổi Công quốc của mình lấy Công quốc Sachsen-Altenburg. Dòng dõi Sachsen-Meiningen trở thành Sachsen-Hildburghausen và nhận thêm từ Công quốc Sachsen-Coburg-Saalfeld các vùng lãnh thổ Saalfelder cũng như huyện Themar và các địa điểm Mupperg, Mogger, Liebau và Oerlsdorf. Công quốc Sachsen-Coburg-Saalfeld đã nhận được Công quốc Sachsen-Coburg, các huyện Königsberg và Sonnefeld từ Công quốc Sachsen-Hildburghausen, và các tài sản của Callenberg và Gauerstadt từ Công quốc Sachsen-Meiningen.

Vào thời điểm đó, Thân vương quốc Lichtenberg, trên Sông Nahe, đã là một phần của Công quốc Coburg trong 10 năm. Ernst III, Công tước xứ Sachsen-Coburg-Saalfeld, đã nhận được nó vào năm 1816 từ Đại hội Viên vì đã hỗ trợ Đồng minh trong cuộc chiến chống lại Đệ Nhất Đế chế Pháp của Napoleon I. Nhưng, vì khoảng cách quá xa từ Coburg và tình trạng bất ổn do Hambach Festival gây ra, Công tước đã bán Công quốc vào năm 1834 cho Vương quốc Phổ.

thumb|400x400px|[[Các nhà nước Thuringia và thủ đô của họ cho đến năm 1918
Các bang tự do 1918-1920; thống nhất thành Thuringia từ năm 1920
Các công quốc Ernestine
(Ernestines → Nhà Wettin)

Các Thân vương quốc Reussian
(Nhà Reuss → Vögte (advocates) của Weida, Gera và Plauen)

Thống nhất thành Nhà nước Nhân dân Reuss (Gera) 1919-1920
Các Thân vương quốc Schwarzburgian
(Nhà Schwarzburg)

Các nhà nước xung quanh và thủ đô của họ

Không có trong Đế quốc Đức ]]

Công quốc Sachsen-Coburg và Gotha mới thành lập ban đầu là một công quốc kép, do Ernst III cai trị với tư cách là Công tước Ernest I trong một liên minh cá nhân, nhưng chỉ có một phiếu bầu tại Bundesrat. Cơ hội thống nhất hai công quốc vào năm 1826 đã bị bỏ lỡ. Sau Staatsgrundgesetz (Luật của Hạ viện) năm 1852, các công quốc đã bị ràng buộc trong một liên minh chính trị. Khi đó, chúng là một nhà nước đơn nhất bán liên bang. Những nỗ lực sau đó nhằm sáp nhập các công quốc đã thất bại vào năm 1867 vì Landtag của Gotha không muốn gánh các khoản nợ nhà nước cao hơn của Coburg và vào năm 1872 vì những câu hỏi về việc quản lý toàn bộ liên minh.

Công quốc Sachsen-Coburg và Gotha đã nhận được một hiến pháp nhà nước vào ngày 3 tháng 5 năm 1852, trong đó đã lấy đi một phần đáng kể các quyền cơ bản từ Hiến pháp của Nghị viện Frankfurt. Nó cũng gia nhập Zollverein của Đức vào năm 1834, Liên bang Bắc Đức vào năm 1866 và Đế quốc Đức vào năm 1871. Tại Bundesrat ở Berlin, nơi nó có văn phòng đại diện,nhưng kể từ năm 1913, giống như hầu hết các nhà nước Thuringian khác, nó phải nhờ đến Đại công quốc Sachsen-Meiningen để được đại diện.

Ernst I qua đời vào năm 1844. Con trai cả và người kế vị của ông, Ernst II, đã trị vì cho đến khi qua đời vào năm 1893. Vì ông qua đời mà không có con, nên ngai vàng của hai công quốc sẽ được chuyển cho hậu duệ nam của người em trai quá cố của ông là Thân vương Albert. Nhưng Thân vương Albert là chồng của Nữ hoàng Victoria của Vương quốc Anh và con trai cả của ông, Edward, Thân vương xứ Wales, đã là người thừa kế của vương quyền Anh. Bên cạnh đó, ông bị Hiến pháp của cả hai công quốc cấm thừa kế ngai vàng nếu có những người thừa kế nam đủ điều kiện khác. Nhưng Edward đã từ bỏ yêu sách của mình để ủng hộ người em trai kế của mình là Vương tử Alfred, Công tước xứ Edinburgh. Vì vậy Alfred đã trở thành Công tước tiếp đời thứ 3 của Sachsen-Coburg và Gotha.

left|thumb|Cộng hòa Sachsen-Gotha sau đó là Bang tự do Sachsen-Gotha left|thumb|Bang tự do Coburg left|thumb|Vùng đất bao bọc của Bang tự do Sachsen-Coburg, [[Königsberg, Bavaria|Königsberg ở Bavaria]] left|thumb|[[Thân vương quốc Lichtenberg, (1816–1834)]]

Người con trai duy nhất của Alfred, là Công tử Alfred Alexander, mất năm 1899, vì vậy khi Công tước Alfred mất năm 1900, người kế vị ông là cháu trai của mình là Charles Edward, Công tước xứ Albany, 16 tuổi, con duy nhất của Vương tử Leopold (con trai út của Nữ hoàng Victorai), vì em trai thứ hai của Công tước Alfred là Vương tử Arthur, Công tước xứ Connaught và con trai của ông là Vương tôn tử Arthur xứ Connaught đã từ bỏ yêu sách kế vị của riêng họ. Trị vì với tư cách là Công tước Carl Eduard, dưới sự Nhiếp chính của Thân vương Ernst von Hohenlohe-Langenburg cho đến khi ông đủ tuổi nắm vương vị vào năm 1905. Công tước mới cũng tiếp tục sử dụng tước hiệu Anh của mình, Công tước xứ Albany. Nhưng, vì ông đã chọn đứng về phía người Đức chống lại người Anh trong Thế chiến thứ nhất, nên ông đã bị tước bỏ tước hiệu Anh của mình vào năm 1919.

Sau khi Cách mạng tháng Mười Một chấm dứt chế độ quân chủ vào năm 1918, hai công quốc trở thành hai bang riêng biệt và độc lập, Bang Tự do Coburg và Cộng hòa Gotha, sau này đổi tên thành Nhà nước Tự do Gotha. Tuy nhiên, các nhà lãnh đạo của họ tin rằng các bang mới của họ không khả thi về mặt kinh tế, vì vậy họ bắt đầu tìm kiếm các vụ sáp nhập có thể xảy ra. Cuối cùng, một cuộc trưng cầu dân ý đã được tổ chức vào ngày 30 tháng 11 năm 1919 và quyết định đã được đưa ra. Vào ngày 1 tháng 5 năm 1920, Bang Tự do Gotha đã sáp nhập với Bang Thuringia mới, và Bang Tự do Coburg cũng theo sau hai tháng sau đó, vào ngày 1 tháng 7 năm 1920, bằng cách hợp nhất với Bang Tự do Bayern.

Chính trị

Trong Đế quốc Đức của Nhà Hohenzollern, Công quốc Sachsen-Coburg và Gotha chỉ có một phiếu bầu tại Bundesrat (Thượng viện Đế chế) và hai phiếu bầu (cho hai Công quốc Coburg và Công quốc Gotha) tại Reichstag (Hạ viện Đế chế).

Tuy nhiên, đối với cả hai công quốc, đều có một Bộ Nhà nước tại Gotha nhưng Coburg và Gotha có các bộ trực thuộc và gần như độc lập. Bộ trưởng Nhà nước chỉ đạo Bộ Công quốc của Gotha nhưng đối với cả hai Công quốc, ông chịu trách nhiệm về các vấn đề nhà nước, chính sách kinh tế và thương mại, tư pháp và việc thực hiện luật pháp của Đế quốc. Tại Coburg, đối với các vấn đề của nhà nước như dịch vụ cộng đồng, nhiệm vụ cảnh sát, hỗ trợ nhà thờ nhà nước và giáo dục, cũng như quản lý tài sản và tài chính, và cho đến năm 1891, các vấn đề của tòa án, chính quyền địa phương không thể can thiệp vào các quyết định từ Gotha.

Tài chính của cả hai Công quốc về cơ bản vẫn không liên quan đến nhau. Nhưng trong quá trình quản lý, luôn có sự phân biệt giữa doanh thu của vương quyền từ các lãnh địa và doanh thu của Nhà nước từ thuế và nghĩa vụ. Cữ 4 năm một lần, một ngân sách chung, đặc biệt là trong các giao dịch tài chính với Đế chế Đức, được lập ra, ngay cả khi nó can thiệp vào các hoạt động địa phương và nhà nước của hai Công quốc. Các khoản tài trợ từ ngân sách nhà nước của cả hai Công quốc được thực hiện theo tỷ lệ 7:3 giữa Gotha và Coburg.

Do quy mô và tài chính của mình, Công quốc không có đại sứ nhưng có các lãnh sự thương mại. Họ đã giao thương với Đế quốc Áo-Hung, Bỉ, Brazil, Chile, Cuba, Ecuador, Pháp, Anh, Ý, Mexico, Peru, Bồ Đào Nha, Vương quốc Phổ, Đế quốc Nga, Tây Ban Nha, Thụy Sĩ và Đế quốc Ottoman. Hoa Kỳ có lãnh sự riêng tại Coburg từ năm 1897 đến năm 1918.

Trong Nội chiến Hoa Kỳ, Ernst Raven được giao chức vụ lãnh sự tại tiểu bang Texas. Ông đã nộp đơn lên Chính phủ Liên minh miền Nam để xin giấy phép ngoại giao vào ngày 30 tháng 7 năm 1861 và đã được chấp nhận.

Quốc phòng

thumb|[[Veste Coburg|Coburg Fortress]]

Trước năm 1867, Công quốc Sachsen-Coburg và Gotha có Quân đội riêng. Nhưng, vào ngày 26 tháng 6 năm 1867, do một hiệp ước được ký kết vào năm 1866 với Vương quốc Phổ, Quân đội của công quốc này đã được bổ sung, cho mục đích phòng thủ và tuyển dụng, vào Trung đoàn Bộ binh Thuringian số 6, số 95 của Sư đoàn 22, Quân đoàn XI. Ba tiểu đoàn của Thuringian số 6 được phân công đến Gotha (số 1), Hildburghausen (số 2) và Coburg (số 3) nhưng trụ sở của Quân đoàn lại ở Kassel. Không giống như Phổ, nơi nghĩa vụ quân sự là bắt buộc, Sachsen-Coburg và Gotha đã lấp đầy hạn ngạch của mình trong Quân đội Đế quốc Đức bằng lệnh động viên.

Hành chính

Thủ phủ của Sachsen-Coburg và Sachsen-Gotha là Coburg và Gotha. Đến năm 1914, diện tích và dân số của hai công quốc là:

Công tước có cả dinh thự cư trú ở cả Gotha và Coburg. Do đó, toàn bộ triều đình công tước, bao gồm cả Nhà hát triều đình, phải di chuyển hai lần một năm: từ Gotha đến Coburg vào mùa hè, từ Coburg đến Gotha vào mùa đông.[9] Đối với Nhà hát triều đình, hai tòa nhà gần như giống hệt nhau đã phải được xây dựng vào năm 1840 tại Gotha (bị phá hủy trong Thế chiến thứ hai) và Coburg (nay là Nhà hát Landestheater Coburg) và sau đó được bảo trì cùng một lúc. Ngoài các dinh thự cư trú, Lâu đài Friedenstein ở Gotha và Lâu đài Ehrenburg ở Coburg, gia đình công tước còn sử dụng Schloss Reinhardsbrunn ở Gotha cũng như các lâu đài Rosenau và Lâu đài Callenberg ở Coburg và nhà nghỉ săn bắn Lâu đài Greinburg, Grein, Áo (hai lâu đài sau hiện vẫn thuộc sở hữu của nhánh công tước thuộc Vương tộc Sachsen-Coburg và Gotha).

Chỉ có Công quốc Gotha, cùng với các Công quốc Sachsen-Meiningen và Sachen-Altenburg lân cận và đặc biệt là Đại công quốc Sachsen-Weimar-Eisenach – mới có thể trở thành một trong những nhà nước tài trợ cho Đại học Jena. Coburg không có trường đại học riêng. Nó cũng không có tòa án riêng. Gotha có tòa án riêng trong khi Coburg phải đến Meiningen để quản lý pháp lý.

File:Coburg-Veste4.jpg|Veste Coburg File:Coburg-Ehrenburg1.jpg|Cung điện Ehrenburg, Coburg File:Gotha Schloss 1900.jpg|Cung điện Friedenstein, Gotha File:Reinhardsbrunn Schloss Winter.JPG|Lâu đài Reinhardsbrunn, Gotha File:Schloss Callenberg Luftbild.jpg|Lâu đài Callenberg, Coburg File:CO Schloss Rosenau1.jpg|Lâu đai Rosenau, Coburg

Vương quyền

Tước hiệu và phong cách của nhà cầm quyền

Theo Staatsgrundgesetz (luật Hoàng gia) của Công quốc Sachsen-Coburg và Gotha, tước hiệu đầy đủ của Công tước là: Wir, Ernst, Herzog zu Sachsen-Coburg und Gotha, Jülich, Cleve und Berg, auch Engern und Westphalen, Landgraf in Thüringen, Markgraf zu Meißen, gefürsteter Graf zu Henneberg, Graf zu der Mark und Ravensberg, Herr zu Ravenstein und Tonna usw.

Dịch: Chúng tôi, Ernst, Công tước xứ Sachsen-Coburg và Gotha, Jülich, Cleves và Berg, cũng như Angria và Westphalia, Landgraf ở Thuringia, Markgraf xứ Meissen, Bá tước thân vương xứ Henneberg, Bá tước xứ Mark và Ravensberg, Lãnh chúa xứ Ravenstein và Tonna, vân vân.

Chức danh và phong cách của các thành viên khác trong gia đình

Việc sử dụng các danh hiệu Công tước và Thân vương có thể bị hạn chế nếu cuộc hôn nhân xung đột với các yêu cầu của Staatsgrundgesetz hoặc nếu một thành viên của gia đình từ bỏ các yêu sách của mình đối với bản thân và con cháu của mình.

Các Công tước xứ Sachsen-Coburg and Gotha (1826–1918)

thumb|Quốc huy xứ Sachsen-Coburg
và Gotha thumb|[[Heraldic shield xứ Sachsen-Coburg và Gotha]]

  • Ernst I xứ Sachsen-Coburg và Gotha (1784–1844) trị vì 1826–1844 Ernst II xứ Sachsen-Coburg và Gotha (1818–1893) trị vì 1844–1893 Albrecht xứ Sachsen-Coburg và Gotha (1819–1861), Vương tế của Vương quốc Anh và Ireland 1840–1861 Vua Edward VII của Anh (1841–1910), trị vì 1901-1910; Alfred, Công tước xứ Sachsen-Coburg và Gotha, Công tước xứ Edinburgh (1844–1900), trị vì 1893–1900 Alfred, Công tử xứ Sachsen-Coburg và Gotha (1874–1899), mất trước cha mình * Vương tử Arthur, Công tước xứ Connaught và Strathearn (1850–1942) ** Vương tôn tử Arthur xứ Connaught (1883–1938) * Alastair Windsor, Công tước thứ 2 xứ Connaught và Strathearn (1914–1943) * Vương tử Leopold, Công tước xứ Albany (1853–1884) ** Carl Eduard xứ Sachsen-Coburg và Gotha (1884–1954), trị vì 1900–1918, thoái vị năm 1918
👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Công quốc Sachsen-Coburg và Gotha** (tiếng Đức: _Herzogtum Sachsen-Coburg und Gotha_) là một nhà nước cấu thành nên Đế quốc Đức, được cai trị bởi một trong những nhánh của dòng Ernestine, chi trưởng của
**Ernst II xứ Sachsen-Coburg và Gotha** (tiếng Đức: _Ernst II. von Sachsen-Coburg und Gotha_; tiếng Tây Ban Nha: _Ernesto II of Sajona-Coburgo y Gotha_; tiếng Anh: _Ernest II of Saxe-Coburg and Gotha_; tên đầy đủ:
**Albrecht xứ Sachsen-Coburg và Gotha** (26 tháng 8 năm 1819 – 14 tháng 12 năm 1861), tên đầy đủ cùng tước hiệu khi sinh là **Franz Albrecht August Karl Emanuel von Sachsen-Coburg-Saalfeld, Công tước xứ
**Sibylla của Sachsen-Coburg và Gotha, Công tước phu nhân xứ Västerbotten** (18 tháng 1 năm 1908 - 28 tháng 11 năm 1972), tên đầy đủ là Vương tằng tôn nữ _Sibylle Calma Maria Alice Bathildis
**Alfred của Liên hiệp Anh, Công tước xứ Sachsen-Coburg và Gotha** (Alfred Ernest Albert; 6 tháng 8 năm 1844 – 30 tháng 7 năm 1900) là thành viên của Vương thất Anh và là Công
**Ferdinand Georg August xứ Sachsen-Coburg và Gotha** (28 tháng 3 năm 1785 – 27 tháng 8 năm 1851) là một Công tử người Đức của Nhà Sachsen-Coburg và Gotha và là tướng kỵ binh của
**Vương tộc Sachsen-Coburg và Gotha** (tiếng Đức: _Haus Sachsen-Coburg und Gotha_) là một dòng dõi quý tộc Đức, một chi nhánh thuộc dòng Ernestine, chi trưởng của Nhà Wettin. Tên này được lấy từ công
**Charles Edward** (_Leopold Charles Edward George Albert_;19 tháng 7 năm 1884 - 6 tháng 3 năm 1954) sinh ra là một Vương tử Anh và Công tước xứ Albany, sau cái chết không để lại
**Ernst I xứ Sachsen-Coburg và Gotha** (tiếng Đức: _Ernst I. von Sachsen-Coburg und Gotha_; tiếng Tây Ban Nha: _Ernesto I de Sajonia-Coburgo y Gotha_; tiếng Anh: _Ernest I of Saxe-Coburg and Gotha_; tên đầy đủ:
**August Victor Louis của Saxe-Coburg và Gotha** (Tiếng Đức: August Viktor Ludwig; 13/06/1818 - 26/07/1881), là một công tử người Đức thuộc nhà Saxe-Coburg và Gotha-Koháry. Ông từng là Thiếu tướng trong Quân đội Hoàng
**Victoria Melita của Sachsen-Coburg và Gotha** (tên khai sinh là **Victoria Melita của Edinburgh**; 25 tháng 11 năm 1876 – 2 tháng 3 năm 1936), là con thứ ba và con gái thứ hai của
**Nhà Sachsen-Coburg và Gotha-Koháry** là một nhánh phụ đến từ Vương tộc Sachsen-Coburg và Gotha, được thành lập sau cuộc hôn nhân của Ferdinand xứ Sachsen-Coburg và Gotha và Mária Antonia Koháry xứ Csábrág và
**Sachsen-Coburg-Saalfeld** là một trong những Công quốc Sachsen do dòng Ernestine của Nhà Wettin nắm quyền. Được thành lập vào năm 1699, Công quốc Sachsen-Coburg-Saalfield tồn tại cho đến khi cải tổ các lãnh thổ
**Franz I xứ Sachsen-Coburg-Saalfeld** (tên đầy đủ: _Franz Friedrich Anton, Herzog von Sachsen-Coburg-Saalfeld_; 15 tháng 7 năm 1750 – 9 tháng 12 năm 1806), là một trong những công tước có chủ quyền thuộc dòng
**Arthur của Liên hiệp Anh, Công tước của Connaught và Strathearn** (Arthur William Patrick Albert; 01 tháng 5 năm 1850 - 16 tháng 1 năm 1942), là ngươi con thứ 7 và con trai thứ
**Victoire xứ Sachsen-Coburg-Saalfeld** (17 tháng 8 năm 1786 - 16 tháng 3 năm 1861), là một Công nữ người Đức của Công quốc Sachsen-Coburg-Saalfeld, từng là Vương phi xứ Leiningen với tư cách là vợ
**Mária Antónia Gabriella Koháry de Csábrág et Szitnya** (tiếng Hungary: _csábrági és szitnyai herceg Koháry Mária Antónia Gabriella_; 2 tháng 7 năm 1797 – 25 tháng 9 năm 1862) là một nữ quý tộc Hungary
**Công quốc Sachsen-Gotha-Altenburg** (tiếng Đức: _Sachsen-Gotha-Altenburg_) là một công quốc được cai trị bởi nhánh Ernestine của Nhà Wettin ở Thüringen, Đức ngày nay. Sự tuyệt tự của dòng này diễn ra vào năm 1825
thumb|Huy hiệu của dòng Ernestines **Các công quốc Ernestine** (tiếng Đức: _Ernestinische Herzogtümer_), còn được gọi là các công quốc Sachsen (Sächsische Herzogtümer, mặc dù các công quốc được cai trị bởi dòng Albertine gồm
**Louise của Bỉ** (18 tháng 2 năm 1858 – 1 tháng 3 năm 1924) là Vương nữ Bỉ, con gái lớn của Léopold II của Bỉ và Marie Henriette của Áo. Louise là thành viên
**Léopold I của Bỉ** (16 tháng 12 năm 1790 - 10 tháng 12 năm 1865) là Quốc vương đầu tiên của Vương quốc Bỉ, sau khi Bỉ tuyên bố tách khỏi Hà Lan vào ngày
**Ferdinand I của Bulgaria** (Tiếng Bulgaria: ; 26/02/1861 - 10/09/1948),, tên khai sinh là **Ferdinand Maximilian Karl Leopold Maria von Sachsen-Coburg und Gotha**, là vị Vương công thứ hai của Thân vương quốc Bulgaria từ
Dom **Fernando II** (tiếng Đức: _Ferdinand II_; tiếng Anh: _Ferdinand II_) (29 tháng 10 năm 1816 – 15 tháng 12 năm 1885) là một Thân vương người Đức của Nhà Sachsen-Coburg và Gotha-Koháry, và là
**Charlotte của Bỉ** (Marie Charlotte Amélie Augustine Victoire Clémentine Léopoldine; 7 tháng 6 năm 1840 – 19 tháng 1 năm 1927), được biết đến với tên theo tiếng Tây Ban Nha là **Carlota**, bà sinh
**Leopold của Liên hiệp Anh, Công tước xứ Albany** (_Leopold George Duncan Albert_; 7 tháng 4 năm 1853 - 28 tháng 3 năm 1884) là con thứ tám và là con trai út của Victoria
**Edward VII của Anh** (Albert Edward; 9 tháng 11 năm 1841 – 6 tháng 5 năm 1910) là Quốc vương Vương quốc Anh và các quốc gia tự trị của Anh, và Hoàng đế Ấn
thumb|Quốc huy của các nhà nước trong Đế chế Đức (5 hàng trên) và huy hiệu của các tỉnh trong [[Vương quốc Phổ (2 hàng dưới), năm 1900]] thumb|Bản đồ các Nhà nước cấu thành
**Louis-Philippe của Bỉ** (24 tháng 7 năm 1833 - 16 tháng 5 năm 1834) là con trai lớn của Vua Léopold I của Bỉ và người vợ thứ hai là Vương nữ Louise Marie của
**Tuyển hầu xứ Sachsen** (tiếng Đức: _Kurfürstentum Sachsen_, cũng được gọi là _Kursachsen_) là một nhà nước thuộc Đế chế La Mã Thần thánh, được thành lập sau khi Hoàng đế Karl IV nâng Công
thumb|Chân dung Công tước và Công tước phu nhân xứ [[Scania năm 1905]] **Công quốc** (, , ), hay **lãnh địa công tước** (), là lãnh thổ quốc gia có chủ quyền do một công
**Albert II của Bỉ** (**Albert Félix Humbert Théodore Christian Eugène Marie**, sinh ngày 6 tháng 6 năm 1934) là cựu quốc vương của Vương quốc Bỉ. Ông là một thành viên của Hoàng gia Bỉ,
**Công tước xứ Albany** (tiếng Anh: _Duke of Albany_) là một tước hiệu thuộc Đẳng cấp quý tộc Scotland, và từ thế kỷ XIX thuộc Đẳng cấp quý tộc Vương quốc Liên hiệp Anh, thường
**Elisabeth Sophia xứ Sachsen-Altenburg** (tiếng Đức: _Elisabeth Sophia von Sachsen-Altenburg_; tiếng Tây Ban Nha: _Isabel Sofía de Sajonia-Altemburgo_; tiếng Đan Mạch: _Elisabeth Sophie af Sachsen-Altenburg_; tiếng Ba Lan: _Elżbieta Zofia z Saksonii-Altenburga_; tiếng Anh: _Elizabeth
**Victoria của Liên hiệp Anh** (Alexandrina Victoria; 24 tháng 5 năm 1819 – 22 tháng 1 năm 1901) là Nữ vương Vương quốc Liên hiệp Anh từ ngày 20 tháng 6 năm 1837 cho đến
**Công quốc Sachsen-Römhild** (tiếng Đức: _Herzogtum Sachsen-Römhild_) là một nhà nước của Các công quốc Ernestine thuộc Đế quốc La Mã Thần thánh, toạ lạc ở chân đồi phía Nam của Rừng Thuringia. Nó chỉ
**Công quốc Sachsen-Weimar** (tiếng Đức: _Herzogtum Sachsen-Weimar_) là một trong những nhà nước của Các công quốc Ernestine do nhánh Ernestine của triều đại Wettin nắm giữ ở bang Thuringia, Đức ngày nay, vì thế
**Viktoria Adelheid của Schleswig-Holstein-Sonderburg-Glücksburg** (; 31 tháng 12 năm 1885 – 3 tháng 10 năm 1970) là Công tước phu nhân xứ Sachsen-Coburg và Gotha với tư cách là phối ngẫu của Công tước Carl
**Marie Henriette của Áo** (23 tháng 8 năm 1836 – 19 tháng 9 năm 1902), tên đầy đủ là _Marie Henriette Anne_, là vợ của vua Léopold II của Bỉ. Bà là Vương hậu Bỉ
**Vương nữ Clémentine của Orléans** (tiếng Pháp: Clémentine d'Orléans) (3/06/1817 - 16 tháng 02 năm 1907), Thân vương phi xứ Sachsen-Coburg và Gotha và Công tước phu nhân xứ Sachsen, là con gái út của
**Saxe-Weimar-Eisenach** (tiếng Đức: _Sachsen-Weimar-Eisenach_) là một nhà nước cấu thành nên Đế quốc Đức, được thành lập như một công quốc vào năm 1809 bởi sự hợp nhất của Sachsen-Weimar và Sachsen-Eisenach thuộc các công
**Ernst I, Công tước xứ Sachsen-Gotha**, có biệt danh là **Ernst Ngoan đạo** (25 tháng 12 năm 1601 – 26 tháng 3 năm 1675) là công tước của Sachsen-Gotha và Sachsen-Altenburg thuộc Các công quốc
**Victoria Adelaide của Liên hiệp Anh và Ireland, Vương nữ Vương thất, Hoàng hậu Đức và Vương hậu Phổ** (; , 21 tháng 11 năm 1840 – 5 tháng 8 năm 1901) là Vương nữ
**George V** (3 tháng 6 năm 1865– 20 tháng 1 năm 1936) là Quốc vương Vương quốc Anh và các quốc gia tự trị của Anh, và Hoàng đế Ấn Độ, từ 6 tháng 5
**Helena của Liên hiệp Anh và Ireland** (tiếng Anh: _Princess Helena of the United Kingdom_; tên đầy đủ: Helena Augusta Victoria; 25 tháng 5 năm 1846 – 9 tháng 6 năm 1923), sau này là
**Beatrice của Liên hiệp Anh và Ireland,** hay **Beatrice của Liên hiệp Anh** (tiếng Anh: _Princess Beatrice of the United Kingdom_; tên đầy đủ: Beatrice Mary Victoria Feodore; 14 tháng 4 năm 1857 – 26
**Alice của Liên hiệp Anh và Ireland** (**Alice Maud Mary**; ngày 2 tháng 4 năm 1843 – ngày 14 tháng 12 năm 1878) là con gái của Victoria I của Liên hiệp Anh và Albrecht
**Alix của Hessen và Rhein** (tiếng Đức: _Alix von Hessen und bei Rhein_; tiếng Anh: _Alix of Hesse and by Rhine_; 6 tháng 6 năm 1872 – 17 tháng 7 năm 1918), còn được gọi
**Công tước phu nhân xứ Edinburgh** là tước hiệu dành cho vợ của Công tước xứ Edinburgh. Cho đến nay có tất cả 7 vị Công tước phu nhân xứ Edinburgh, trong đó có hai
**Louise của Liên hiệp Anh** (tiếng Anh: _Louise of the United Kingdom_; tiếng Tây Ban Nha: _Luisa del Reino Unido_; tiếng Đức: _Louise des Vereinigtes Königreich_; tiếng Pháp: _Louise du Royaume-Uni_; tiếng Bồ Đào Nha:
**Augusta xứ Sachsen-Weimar-Eisenach** (_Maria Luise Augusta Catherina_; 30 tháng 9 năm 1811 – 7 tháng 1 năm 1890), là Vương hậu Phổ và trở thành hoàng hậu đầu tiên của Đế chế Đức sau khi