✨Ernst I xứ Sachsen-Coburg và Gotha

Ernst I xứ Sachsen-Coburg và Gotha

Ernst I xứ Sachsen-Coburg và Gotha (tiếng Đức: Ernst I. von Sachsen-Coburg und Gotha; tiếng Tây Ban Nha: Ernesto I de Sajonia-Coburgo y Gotha; tiếng Anh: Ernest I of Saxe-Coburg and Gotha; tên đầy đủ: Ernst Anton Karl Ludwig; 2 tháng 1 năm 1784 – 29 tháng 1 năm 1844) là Công tước xứ Sachsen-Coburg và Gotha đầu tiên từ năm 1826 đến năm 1844 cũng như là Công tước xứ Sachsen-Coburg-Saalfeld cuối cùng với công hiệu là Ernst III từ năm 1806 đến năm 1826 (tiếng Đức: Ernst III. von Sachsen-Coburg-Saalfeld). Ernst I đã chiến đấu chống lại Napoléon Bonaparte, và thông qua các dự án xây dựng cũng như việc thành lập một nhà hát cung đình, Ernst I đã để lại dấu ấn mạnh mẽ cho Coburg - nơi ông cư trú.

Năm 1825, người họ hàng Friedrich IV xứ Sachsen-Gotha-Altenburg qua đời mà không có hậu duệ, vì thế mà các công tước nhánh Ernst được thừa kế tài sản và lãnh thổ của Sachsen-Gotha-Altenburg, trong đó Ernst nhận được Gotha nhưng phải nhượng lại Saalfeld cho Công tước xứ Sachsen-Meiningen. Từ dấu mốc này, Công quốc Sachsen-Coburg-Saalfeld được đổi thành Sachsen-Coburg và Gotha và khai sinh ra Nhà Sachsen-Coburg và Gotha.

Ernst I là cha của Albrecht xứ Sachsen-Coburg và Gotha, chồng của Victoria I của Liên hiệp Anh.

Thân thế

trái|nhỏ|259x259px|Ernst và chị gái Juliane xứ Sachsen-Coburg-Saalfeld. Ernst sinh ngày 2 tháng 1 năm 1784. Ernst là con trai đầu tiên của Franz xứ Sachsen-Coburg-Saalfeld và Augusta Reuß xứ Ebersdorf. Trước khi Ernst ra đời, Franz và Augusta đã có ba người con gái là Sophie (kết hôn với Emmanuel von Mensdorff-Pouilly), Antoinette (kết hôn với Alexander Friedrich Karl xứ Württemberg) và Juliane (kết hôn với Konstantin Pavlovich của Nga). Các em của Ernst là Ferdinand (kết hôn với Mária Antónia xứ Csábrág và Szitnya, nữ thừa kế của Nhà Koháry, một trong 3 chủ đất lớn nhất ở Vương quốc Hungary, và tạo ra Vương tộc Sachsen-Coburg và Gotha-Koháry, nắm giữ các ngai vàng Vương quốc Bồ Đào Nha và Vương quốc Bulgaria sau này), Victoire (kết hôn với Edward của Liên hiệp Anh, Công tước xứ Kent và Strathearn, sinh ra Victoria của Anh và là tổ mẫu của các nhiều Vương thất châu Âu hiện đại), Marriane, Leopold (được bầu chọn lên ngai vàng của Vương quốc Bỉ vào năm 1831, cai trị với vương hiệu Léopold I và hậu duệ của Léopold vẫn trị vì Vương quốc Bỉ cho đến tận ngày nay) và Maximilian. Dưới sự giám sát của cha mẹ, Ernst được tận hưởng một nền giáo dục tốt.

Công tước xứ Sachsen-Coburg-Saalfeld

nhỏ|Chân dung bởi Sir George Hayter. Vào ngày 10 tháng 5 năm 1803, ở tuổi 19, Ernst được tuyên bố là đã đủ tuổi trường thành và vì cha bị bệnh nặng nên Ernst đã đảm nhận vị trí nhiếp chính vương cho công quốc. Khi cha qua đời vào ngày 9 tháng 12 năm 1806, Ernst kế vị cha trở thành công tước xứ Sachsen-Coburg-Saalfeld với công hiệu Ernst III. Tuy nhiên, Ernst III không thể ngay lập tức nắm quyền cai trị công quốc một cách chính thức vì công quốc đã bị quân đội Đệ Nhất Đế chế Pháp của Napoléon I chiếm đóng. Năm sau, Hòa ước Tilsit (tháng 7 năm 1807) được ký kết, công quốc Sachsen-Coburg-Saalfeld được thống nhất (trước đó đã bị giải thể) và Ernst được phục vị. Điều này xảy ra do Đế quốc Nga tạo áp lực lên Pháp, vì chị gái của Ernst là Juliane xứ Sachsen-Coburg và Gotha đã kết hôn với em trai của Sa hoàng Aleksandr I của Nga.

Sau năm 1813, Ernst là tướng Phổ và tham gia các hoạt động quân sự chống lại quân Pháp của Hoàng đế Napoléon I. Ông đã chiến đấu trong các trận Lützen và Leipzig (1813), và năm 1814 đã tiến vào pháo đài Mainz của Pháp.[1] Sau trận Leipzig, Ernst được trao quyền chỉ huy quân đoàn 5 của Armeekorps.

Sau thất bại của Napoléon trong trận Waterloo, tại Đại hội Viên vào ngày 9 tháng 6 năm 1815, Ernst được trao cho một khu vực rộng 450 km2 với 25.000 cư dân xung quanh thị trấn Sankt Wendel. Diện tích của nó được tăng thêm phần nào nhờ Hiệp ước Paris thứ hai. Năm 1816, khu đất này được đổi tên thành Thân vương quốc Lichtenberg. Ernst bán nó cho Vương quốc Phổ vào năm 1834.

Hôn nhân và hậu duệ

nhỏ|[[Luise Pauline xứ Sachsen-Gotha-Altenburg.]] Ngày 31 tháng 7 năm 1817, Ernst III kết hôn với Luise Pauline xứ Sachsen-Gotha-Altenburg ở Gotha. Luise bấy giờ là một thiếu nữ 16 tuổi xinh đẹp với mái tóc vàng và đôi mắt xanh lam. Hai vợ chồng có hai người con:

  • Ernst II xứ Sachsen-Coburg và Gotha (21 tháng 6 năm 1818 – 22 tháng 8 năm 1893), kết hôn với Alexandrine xứ Baden vào ngày 3 tháng 5 năm 1842. Cuộc hôn nhân của hai vợ chồng không có con cái.
  • Albrecht xứ Sachsen-Coburg và Gotha (26 tháng 8 năm 1819 – 14 tháng 12 năm 1861), kết hôn với Victoria I của Liên hiệp Anh vào ngày 10 tháng 2 năm 1840 và có 9 người con. Vì thế, các vị quân chủ của Vương quốc Liên hiệp Anh từ Edward VII cho đến Elizabeth II đều là hậu duệ dòng nam của Vương tộc Sachsen-Coburg và Gotha. Ngoài ra, thông qua mẹ là Victoire xứ Sachsen-Coburg-Saalfeld, Ernst không chỉ là ba chồng mà còn là bác bên ngoại của Nữ vương Victoria. Sau khi anh trai Ernst II qua đời, theo thỏa thuận hôn nhân của Albrecht, ngai vàng của Vương quốc Liên hiệp Anh và của Công quốc không thể hợp nhất nên quyền cai trị được truyền cho con trai thứ hai của Albrecht là Vương tử Alfred của Liên hiệp Anh. Sau khi Alfred qua đời, ngai vàng được truyền cho Vương tử Arthur và con trai, nhưng hai cha con lại chuyển quyền kế vị cho con trai của Vương tử Leopold. nhỏ|[[Luise Pauline xứ Sachsen-Gotha-Altenburg, Công tước phu nhân xứ Sachsen-Coburg-Saalfeld cùng với hai con trai, Ernst II và Albrecht xứ Sachsen-Coburg và Gotha.]] Luise Pauline là hậu duệ cuối cùng của nhánh Sachsen-Gotha-Altenburg nên thông qua cuộc hôn nhân với Luise, quyền thừa kế lãnh địa thuộc nhánh Altenburg sau khi nam duệ cuối cùng của dòng họ qua đời của Ernst được củng cố. Vì theo luật Salic, Luise không thể kế thừa tước vị của gia đình, nhưng có thể chuyển giao quyền cai trị cho chồng và các con trai. Trong những năm đầu của cuộc hân, Luise cảm thấy hạnh phúc với cuộc sống mới của một Công tước phu nhân, thế nhưng Ernst lại cảm thấy vợ mình nhàm chán. Sau khi việc kế vị Công quốc được đảm bảo với sự ra đời của hai con trai, Ernst lạnh nhạt với vợ và Luise phải tìm kiếm niềm vui ở những hoạt động khác. Biết được mối quan hệ của chồng và tình nhân Pauline Panam, Luise cũng bắt đầu ngoại tình với người đàn ông khác. Ernst và Luise ly thân vào năm 1824 vì Ernst muốn đảm bảo quyền thừa kế phần lãnh thổ thuộc Sachsen-Gotha-Altenburg, cũng chính là nguyên nhân Ernst kết hôn với Luise. Hai người chính thức ly hôn vào năm 1826. Là những người thừa kế của Coburg, những đứa trẻ ở lại với cha và không bao giờ gặp lại mẹ từ khi Luise và Ernst ly thân. Luise tái hôn với Alexander von Hanstein, Bá tước xứ Pölzig và Beiersdorf vào ngày 31 tháng 3 năm 1826 và qua đời vào ngày 30 tháng 8 năm 1831 ở Paris khi chỉ được 30 tuổi.nhỏ|Chân dung [[Marie xứ Württemberg, người vợ thứ hai cũng như là cháu gái gọi cậu của Ernst I xứ Sachsen-Coburg và Gotha, Công tước phu nhân xứ Sachsen-Coburg và Gotha đàu tiên.]]Ngày 23 tháng 12 năm 1832, ở độ tuổi 48, Ernst tái hôn với người cháu gái kém 15 tuổi là Marie xứ Württemberg, con gái của chị gái Antoinette tại Coburg. Sau khi nghe tin vợ cũ qua đời Ernst I bắt đầu tìm kiếm một người vợ mới có xuất thân cao quý, thế nhưng tuổi tác của Ernst I đã giới hạn đối tượng hôn nhân của ngài Công tước và lựa chọn tốt nhất là cháu gái Marie. Cuộc hôn nhân của Ernst I và Marie không được khuyến khích vì đây là hôn nhân giữa hai cậu cháu. Marie không sinh cho Ernst I một người con nào và sống tách biệt với chồng, nằm ngoài tầm kiểm soát của Công tước. Thông qua hôn nhân, Marie không chỉ là là chị họ mà còn là mẹ kế của Công tước Ernst II và Công tử Albrecht. Marie cũng có mối quan hệ tốt đẹp với hai người con riêng của chồng cũng như là em họ của mình cho đến khi qua đời.

Ernst còn có ba người con ngoại hôn:

  • Berta Ernestine von Schauenstein (26 tháng 1 năm 1817 – Coburg, 15 tháng 8 năm 1896), sinh ra bởi Sophie Fermepin de Marteaux, kết hôn với người anh họ là Eduard Edgar Schmidt-Löwe von Löwenfels, con trai ngoài giá thú của chị gái của cha cô, Juliane.
  • Ernst Albert và Robert Ferdinand, cặp song sinh sinh năm 1838, sinh ra bởi Margaretha Braun. Hai anh em được ban tước hiệu Freiherren xứ Bruneck vào năm 1856.

Công tước xứ Sachsen-Coburg và Gotha

nhỏ|Chân dung Ernst I xứ Sachsen-Coburg và Gotha.Năm 1825, Friedrich IV xứ Sachsen-Gotha-Altenburg, chú của Luise, người vợ đầu tiên của Ernst, qua đời mà không có người thừa kế. Điều này dẫn đến việc sắp xếp lại các công quốc Ernestine. Với tư cách là một thành viên của triều đại Ernestine (chứ không phải với tư cách là chồng của Luise), Ernest mới có quyền đòi thừa kế tài sản của cố công tước. Tuy nhiên, lúc đó ông đang làm thủ tục ly hôn với Luise, và các chi nhánh khác đã lợi dụng điều này như một đòn bẩy để đạt được một thỏa thuận tốt hơn cho mình bằng cách nhấn mạnh rằng ông ta không nên thừa kế Gotha. Họ đạt được thỏa hiệp vào ngày 12 tháng 11 năm 1826: Ernst nhận Gotha, nhưng phải nhượng Saalfeld cho Bernhard II xứ Sachsen-Meiningen. Do đó Ernst trở thành "Ernst I, Công tước xứ Sachsen-Coburg và Gotha". Mặc dù Công tước đã đưa ra hiến pháp cho Coburg vào năm 1821 nhưng Ernst I không can thiệp vào hệ thống chính quyền ở Gotha.

Tại Coburg, Ernst chịu trách nhiệm về nhiều dự án xây dựng khác nhau, bao gồm cả việc thành lập Hofttheater trong tòa nhà mới. Schlossplatz như ngày nay phần lớn là do hoạt động dưới sự cai trị của ông.

Huân chương

Ông đã nhận được các huân chương sau:

  • Đế quốc Nga: Thanh kiếm vàng cho lòng dũng cảm, hạng kim cương, tháng 6 năm 1807 Hiệp sĩ Thánh George, hạng 4, 9 tháng 9 năm 1813 Hiệp sĩ Thánh Alexander Nevsky, hạng kim cương, năm 1813 Hiệp sĩ Rue Crown, năm 1810 ** Thập tự lớn Huân chương quân sự Thánh Henry, năm 1815
    • Đế quốc Áo: Thập tự lớn Huân chương Thánh Stephen, năm 1820
  • Sachsen-Weimar-Eisenach: Thập tự lớn Đại bàng Trắng, 6 tháng 1 năm 1828
  • Sachsen-Coburg và Gotha, Sachsen-Meiningen, Sachsen-Altenburg: Các công quốc Ernestine: Đồng sáng lập và Grand Master của Huân chương Nhà Sachsen-Ernestine, 25 tháng 12 năm 1833 Grand Master của Huân chương Thánh Joachim
  • : Grand Cordon của Huân chương Leopold, 15 tháng 7 năm 1835
  • : Thập tự lớn Tháp và Kiếm, 9 tháng 12 năm 1835 Thập tự lớn Huân chương quân sự Hoàng gia Our Lord Jesus Christ, 23 tháng 4 năm 1836
  • : Hiệp sĩ Stranger Garter, 16 tháng 7 năm 1838
  • Vương quốc Pháp: Thập tự lớn của Bắc Đẩu Bội Tinh, tháng 5 năm 1840
  • : Hiệp sĩ của Huân chương Nhà Fidelity, năm 1842 Thập tự lớn của Sư tử Zähringer, năm 1842
  • Vương quốc Phổ: Hiệp sĩ Đại bàng Đen Thập tự lớn Đại bàng Đỏ

Tổ tiên

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Ernst I xứ Sachsen-Coburg và Gotha** (tiếng Đức: _Ernst I. von Sachsen-Coburg und Gotha_; tiếng Tây Ban Nha: _Ernesto I de Sajonia-Coburgo y Gotha_; tiếng Anh: _Ernest I of Saxe-Coburg and Gotha_; tên đầy đủ:
**Ernst II xứ Sachsen-Coburg và Gotha** (tiếng Đức: _Ernst II. von Sachsen-Coburg und Gotha_; tiếng Tây Ban Nha: _Ernesto II of Sajona-Coburgo y Gotha_; tiếng Anh: _Ernest II of Saxe-Coburg and Gotha_; tên đầy đủ:
**Alfred của Liên hiệp Anh, Công tước xứ Sachsen-Coburg và Gotha** (Alfred Ernest Albert; 6 tháng 8 năm 1844 – 30 tháng 7 năm 1900) là thành viên của Vương thất Anh và là Công
**Ferdinand Georg August xứ Sachsen-Coburg và Gotha** (28 tháng 3 năm 1785 – 27 tháng 8 năm 1851) là một Công tử người Đức của Nhà Sachsen-Coburg và Gotha và là tướng kỵ binh của
**Công quốc Sachsen-Coburg và Gotha** (tiếng Đức: _Herzogtum Sachsen-Coburg und Gotha_) là một nhà nước cấu thành nên Đế quốc Đức, được cai trị bởi một trong những nhánh của dòng Ernestine, chi trưởng của
**Vương tộc Sachsen-Coburg và Gotha** (tiếng Đức: _Haus Sachsen-Coburg und Gotha_) là một dòng dõi quý tộc Đức, một chi nhánh thuộc dòng Ernestine, chi trưởng của Nhà Wettin. Tên này được lấy từ công
**Victoire xứ Sachsen-Coburg-Saalfeld** (17 tháng 8 năm 1786 - 16 tháng 3 năm 1861), là một Công nữ người Đức của Công quốc Sachsen-Coburg-Saalfeld, từng là Vương phi xứ Leiningen với tư cách là vợ
**Antoinette xứ Sachsen-Coburg-Saalfeld** (28 tháng 8 năm 1779 – 14 tháng 3 năm 1824) là Công nữ xứ Sachsen-Coburg-Saalfeld. Thông qua con trai Alexander, Antoinette là tổ tiên của nhánh Công giáo cùa Vương tộc
**Franz I xứ Sachsen-Coburg-Saalfeld** (tên đầy đủ: _Franz Friedrich Anton, Herzog von Sachsen-Coburg-Saalfeld_; 15 tháng 7 năm 1750 – 9 tháng 12 năm 1806), là một trong những công tước có chủ quyền thuộc dòng
**Sophie xứ Sachsen-Coburg-Saalfeld** (16 tháng 8 năm 1778 – 9 tháng 7 năm 1835) là Công nữ xứ Sachsen-Coburg-Saalfeld. Thông qua hôn nhân, Sophie là Bá tước phu nhân xứ Mensdorff-Pouilly. ## Những năm đầu
**Ernst I, Công tước xứ Sachsen-Gotha**, có biệt danh là **Ernst Ngoan đạo** (25 tháng 12 năm 1601 – 26 tháng 3 năm 1675) là công tước của Sachsen-Gotha và Sachsen-Altenburg thuộc Các công quốc
**Luise Pauline xứ Sachsen-Gotha-Altenburg** (tiếng Đức: _Luise Pauline von Sachsen-Gotha-Altenburg_; tiếng Anh: _Louise Pauline of Saxe-Gotha-Altenburg_; tên đầy đủ: _Luise Dorothea Pauline Charlotte Fredericka Auguste_; 21 tháng 12 năm 1800 – 30 tháng 8 năm
**Léopold I của Bỉ** (16 tháng 12 năm 1790 - 10 tháng 12 năm 1865) là Quốc vương đầu tiên của Vương quốc Bỉ, sau khi Bỉ tuyên bố tách khỏi Hà Lan vào ngày
**Ferdinand I của Bulgaria** (Tiếng Bulgaria: ; 26/02/1861 - 10/09/1948),, tên khai sinh là **Ferdinand Maximilian Karl Leopold Maria von Sachsen-Coburg und Gotha**, là vị Vương công thứ hai của Thân vương quốc Bulgaria từ
**Alexandrine xứ Baden** (tiếng Đức: _Alexandrine Luise Amalie Friederike Elisabeth Sophie_; 6 tháng 12 năm 1820 – 20 tháng 12 năm 1904) là Công tước phu nhân xứ Sachsen-Coburg và Gotha từ ngày 29 tháng
**Victoria của Liên hiệp Anh** (Alexandrina Victoria; 24 tháng 5 năm 1819 – 22 tháng 1 năm 1901) là Nữ vương Vương quốc Liên hiệp Anh từ ngày 20 tháng 6 năm 1837 cho đến
**Augusta xứ Sachsen-Weimar-Eisenach** (_Maria Luise Augusta Catherina_; 30 tháng 9 năm 1811 – 7 tháng 1 năm 1890), là Vương hậu Phổ và trở thành hoàng hậu đầu tiên của Đế chế Đức sau khi
**Leopold** (tiếng Đức: _Karl Leopold I. Friedrich von Baden_; 29 tháng 8 năm 1790 - 24 tháng 4 năm 1852) là Đại công tước đời thứ 4 của xứ Baden, ông trị vì từ năm
**Elisabeth Sophia xứ Sachsen-Altenburg** (tiếng Đức: _Elisabeth Sophia von Sachsen-Altenburg_; tiếng Tây Ban Nha: _Isabel Sofía de Sajonia-Altemburgo_; tiếng Đan Mạch: _Elisabeth Sophie af Sachsen-Altenburg_; tiếng Ba Lan: _Elżbieta Zofia z Saksonii-Altenburga_; tiếng Anh: _Elizabeth
**Friedrich III, Công tước xứ Sachsen-Gotha-Altenburg** (14 tháng 4 năm 1699 - 10 tháng 3 năm 1772), là công tước đời thứ 3 xứ Sachsen-Gotha-Altenburg, thuộc dòng Ernestine, nhánh trưởng của Triều đại Wettin. Ông
**Leopold của Liên hiệp Anh, Công tước xứ Albany** (_Leopold George Duncan Albert_; 7 tháng 4 năm 1853 - 28 tháng 3 năm 1884) là con thứ tám và là con trai út của Victoria
**Louis-Philippe của Bỉ** (24 tháng 7 năm 1833 - 16 tháng 5 năm 1834) là con trai lớn của Vua Léopold I của Bỉ và người vợ thứ hai là Vương nữ Louise Marie của
Dom **Fernando II** (tiếng Đức: _Ferdinand II_; tiếng Anh: _Ferdinand II_) (29 tháng 10 năm 1816 – 15 tháng 12 năm 1885) là một Thân vương người Đức của Nhà Sachsen-Coburg và Gotha-Koháry, và là
**Karl I xứ Braunschweig-Wolfenbüttel** (1 tháng 08 năm 1713, Braunschweig - 26 tháng 03 năm 1780, Braunschweig), đôi khi viết là **Carl I**, là Công tước xứ Braunschweig và Lüneburg (_Herzöge zu Braunschweig und Lüneburg_)
**Công tước phu nhân xứ Edinburgh** là tước hiệu dành cho vợ của Công tước xứ Edinburgh. Cho đến nay có tất cả 7 vị Công tước phu nhân xứ Edinburgh, trong đó có hai
**Victoria Adelaide của Liên hiệp Anh và Ireland, Vương nữ Vương thất, Hoàng hậu Đức và Vương hậu Phổ** (; , 21 tháng 11 năm 1840 – 5 tháng 8 năm 1901) là Vương nữ
**Alix của Hessen và Rhein** (tiếng Đức: _Alix von Hessen und bei Rhein_; tiếng Anh: _Alix of Hesse and by Rhine_; 6 tháng 6 năm 1872 – 17 tháng 7 năm 1918), còn được gọi
**Alice của Liên hiệp Anh và Ireland** (**Alice Maud Mary**; ngày 2 tháng 4 năm 1843 – ngày 14 tháng 12 năm 1878) là con gái của Victoria I của Liên hiệp Anh và Albrecht
**George V** (3 tháng 6 năm 1865– 20 tháng 1 năm 1936) là Quốc vương Vương quốc Anh và các quốc gia tự trị của Anh, và Hoàng đế Ấn Độ, từ 6 tháng 5
**Ernst August** (sinh ngày 05 tháng 06 năm 1771 – mất ngày 18 tháng 11 năm 1851), là vua của Vương quốc Hannover từ này 02/06/1837 cho đến khi ông qua đời vào năm 1851.
**Ludwig Wilhelm August von Baden** (18 tháng 12 năm 1829. Wilhelm được nhận nền giáo dục chính thức của mình trong lực lượng quân đội Phổ. Từ năm 1856, Wilhelm phục vụ trong Trung đoàn
**Công quốc Sachsen-Weimar** (tiếng Đức: _Herzogtum Sachsen-Weimar_) là một trong những nhà nước của Các công quốc Ernestine do nhánh Ernestine của triều đại Wettin nắm giữ ở bang Thuringia, Đức ngày nay, vì thế
**Victoria của Hessen và Rhein,** sau là Victoria Mountbatten, Hầu tước phu nhân xứ Milford Haven (tên đầy đủ: **Victoria Alberta Elisabeth Mathilde Marie**; 5 tháng 4 năm 1863 – 24 tháng 9 năm 1950)
**Công quốc Sachsen-Saalfeld** (tiếng Đức: _Herzogtum Sachsen-Saalfeld_) là một trong những Công quốc Sachsen do dòng Ernestine của Nhà Wettin nắm giữ. Được thành lập vào năm 1680 và trao cho Công tử Johann Ernst,
**Marie của Hessen và Rhein** (tiếng Đức: _Marie von Hessen und bei Rhein_; tiếng Anh: _Marie of Hesse and by Rhine_; tên đầy đủ: _Marie Victoria Feodore Leopoldine_; 24 tháng 5 năm 1874 – 16
**Irene của Hessen và Rhein** (Irene Luise Marie Anne; 11 tháng 7 năm 1866 – 11 tháng 11 năm 1953), sau là **Vương tức Heinrich của Phổ**, là người con thứ ba của Alice của
**Frederick Augustus III** (tiếng Đức: Friedrich August III; 25/05/1865 - 18/02/1932) là vị Vua cuối cùng của Vương quốc Sachsen, tại vị từ năm 1904 đến khi thoái vị vào năm 1918, ông là thành
**Adelheid xứ Hohenlohe-Langenburg** (20 tháng 7 năm 1835 – 25 tháng 1 năm 1900) là con gái của Ernst I xứ Hohenlohe-Langenburg và Feodora xứ Leiningen. Thông qua hôn nhân với Friedrich VIII xứ Schleswig-Holstein,
**Friedrich của Hessen và Rhein** (tiếng Đức: _Friedrich von Hessen und bei Rhein_; tiếng Anh: _Frederick of Hesse and by Rhine_; tên đầy đủ: _Friedrich Wilhelm August Victor Leopold Ludwig_; 7 tháng 10 năm 1870
**Sofia Wilhelmina của Thụy Điển** (_Sofia Wilhelmina Katarina Maria Lovisa Charlotta Anna_; 21 tháng 5 năm 1801 – 6 tháng 7 năm 1865), là một vương nữ Thụy Điển thuộc Vương tộc Holstein-Gottorp, con gái
**Laura Williamina Seymour, Nữ Bá tước xứ Gleichen, Thân vương tử phi Viktor xứ Hohenlohe-Langenburg** (tiếng Anh: _Laura Williamina Seymour, Countess of Gleichen, Princess Victor of Hohenlohe-Langenburg_; tiếng Đức: _Laura Wilhelmina Seymour, Gräfin von Gleichen,
thumb|Huy hiệu của dòng Ernestines **Các công quốc Ernestine** (tiếng Đức: _Ernestinische Herzogtümer_), còn được gọi là các công quốc Sachsen (Sächsische Herzogtümer, mặc dù các công quốc được cai trị bởi dòng Albertine gồm
**Công quốc Sachsen-Römhild** (tiếng Đức: _Herzogtum Sachsen-Römhild_) là một nhà nước của Các công quốc Ernestine thuộc Đế quốc La Mã Thần thánh, toạ lạc ở chân đồi phía Nam của Rừng Thuringia. Nó chỉ
**Charlotte của Phổ** (tiếng Đức: _Victoria Elisabeth Augusta Charlotte von Preußen_; 24 tháng 7 năm 1860 – 1 tháng 10 năm 1919) là Công tước phu nhân xứ Sachsen-Meiningen từ năm 1914 cho đến năm
**Viktoria của Phổ** (Friederike Amalia Wilhelmine Viktoria; 12 tháng 4 năm 1866 – 13 tháng 11 năm 1929) là con gái thứ hai của Hoàng đế Friedrich III của Đức và Victoria Adelaide của Liên
thumb|Lãnh thổ của Nhà Wettin được thể hiện sau Hiệp ước Leipzig: vùng Tuyển đế hầu của dòng Ernestine màu đỏ, vùng đất công tước của dòng Albertine màu vàng. Lãnh thổ cai trị chung
**William IV của Liên hiệp Anh** (William Henry; 21 tháng 8 năm 1765 – 20 tháng 6 năm 1837) là Quốc vương Vương quốc Anh và Vua của Hannover từ 26 tháng 6 năm 1830 cho
thumb|Huy hiệu Thân vương xứ Hohenlohe-Langenburg **Hohenlohe-Langenburg** () là một Bá quốc và sau được nâng lên Thân vương quốc trong Đế quốc La Mã Thần thánh. Lãnh thổ của nó nằm ở phía Đông
thumb|[[George II của Anh|Prince George Augustus, con trai duy nhất của George I của Anh, là _British prince_ đầu tiên.]] **Vương tử Anh**, **Vương tôn Anh**, **Vương công Anh** hoặc **Công thân Anh**, đôi khi
**Nhà Wettin** (tiếng Đức: _Haus Wettin_) là một trong những triều đại cầm quyền lâu đời nhất ở châu Âu, nguồn gốc của gia tộc Wettin đến từ thị trấn Wettin, Sachsen-Anhatl. Khởi đầu với