✨Ernst II xứ Sachsen-Coburg và Gotha

Ernst II xứ Sachsen-Coburg và Gotha

Ernst II xứ Sachsen-Coburg và Gotha (tiếng Đức: Ernst II. von Sachsen-Coburg und Gotha; tiếng Tây Ban Nha: Ernesto II of Sajona-Coburgo y Gotha; tiếng Anh: Ernest II of Saxe-Coburg and Gotha; tên đầy đủ: Ernst August Karl Johann Leopold Alexander Eduard; 21 tháng 6 năm 1818 – 22 tháng 8 năm 1893) là Công tước xứ Sachsen-Coburg và Gotha, tại vị từ ngày 29 tháng 1 năm 1844 cho đến khi qua đời vào năm 1893. Ông sinh ra tại Coburg, cha của ông là Ernst III xứ Sachsen-Coburg-Saalfeld và Luise Pauline xứ Sachsen-Gotha-Altenburg. Cha ông trở thành Công tước xứ Sachsen-Coburg và Gotha với trị hiệu là Ernst I vào năm 1826 thông qua một cuộc trao đổi lãnh thổ với các họ hàng thuộc nhánh Ernst, từ đó khai sinh ra Công quốc Sachsen-Coburg và Gotha và Vương tộc Sachsen-Coburg và Gotha.

Năm 1842, Ernst kết hôn với Alexandrine xứ Baden và hai người không có con cái. Hai năm sau, ông trở thành Công tước xứ Sachsen-Coburg và Gotha khi cha qua đời. Ernst ủng hộ Bang liên Đức trong Chiến tranh Schleswig-Holstein chống lại Vương quốc Đan Mạch, ông đã gửi hàng nghìn quân đến chiến trường và bản thân ông cũng trở thành chỉ huy của một quân đoàn Đức; ông là người có công trong chiến thắng năm 1849 tại trận Eckernförde chống lại lực lượng Đan Mạch. Sau khi Othon I của Hy Lạp bị phế truất vào năm 1862, chính phủ Anh đã đưa Ernst II lên làm người kế nhiệm tiềm năng. Các cuộc đàm phán về vấn đề này đã thất bại vì nhiều lý do, trong đó lý do quan trọng nhất chính là Ernst II không chấp nhận từ bỏ công quốc và thần dân yêu quý của mình để trở thành vua Hy Lạp.

Là người ủng hộ một nước Đức thống nhất, Ernst đã theo dõi các phong trào chính trị khác nhau với sự quan tâm lớn. Mặc dù ban đầu ông là người ủng hộ chủ nghĩa tự do Đức vĩ đại và thẳng thắn, nhưng ông đã khiến nhiều người ngạc nhiên khi chuyển sang phe khác và ủng hộ những người Phổ bảo thủ hơn (và cuối cùng giành chiến thắng) trong Chiến tranh Áo-Phổ và Chiến tranh Pháp-Phổ và sau đó là sự thống nhất nước Đức. Tuy nhiên, sự ủng hộ của ông đối với những người bảo thủ đã phải trả giá, và ông không còn được coi là nhà lãnh đạo tiềm năng của một phong trào chính trị nữa. Theo nhà sử học Charlotte Zeepvat, Công tước Ernst II đã trở nên "ngày càng lạc lõng trong vòng xoáy của những thú vui riêng tư chỉ nhận được sự khinh miệt từ bên ngoài".

Ernst là anh trai của Albrecht xứ Sachsen-Coburg và Gotha (chồng của Victoria của Anh), cả hai sinh cách nhau chỉ 14 tháng và được nuôi dưỡng như anh em sinh đôi. Họ trở nên gần gũi hơn sau khi cha mẹ ly thân và ly hôn cũng như sau cái chết của mẹ. Mối quan hệ của họ trải qua những giai đoạn gần gũi cũng như những cuộc cãi vã nhỏ khi họ lớn lên. Sau cái chết của Albrecht vào năm 1861, Ernst đã xuất bản những tập sách ẩn danh chống lại nhiều thành viên của Vương thất Anh. Tuy nhiên, ông đã chấp nhận con trai thứ hai của Albrecht và Victoria là Vương tử Alfred, Công tước xứ Edinburgh, làm người thừa kế hợp pháp của mình. Sau cái chết của Công tước Ernst II tại Reinhardsbrunn, Alfred đã kế vị trở thành Công tước đời thứ 3 xứ Sachsen‑Coburg và Gotha.

Cuộc sống đầu đời

thumb|left|Ernst (phải) với em trai [[Albrecht xứ Sachsen-Coburg và Gotha|Albrecht và mẹ Luise Pauline xứ Sachsen-Gotha-Altenburg, ngay trước khi bà bị trục xuất khỏi triều đình]]

Ernst xứ Sachsen-Coburg-Saalfeld, sinh ra tại Cung điện Ehrenburg ở Coburg vào ngày 21 tháng 6 năm 1818. Ông là con trai cả của Ernst III xứ Sachsen-Coburg-Saalfeld (sau này là Ernst I xứ Sachsen-Coburg và Gotha) và người vợ đầu tiên là Luise Pauline xứ Sachsen-Gotha-Altenburg. Ông sớm có thêm một người em trai là Công tử Albrecht, sau này trở thành chồng của Victoria của Anh. Mặc dù Công tước Ernst I có nhiều con trong các mối quan hệ ngoài hôn nhân, nhưng ông chỉ có 2 người con hợp pháp là Ernst và Albrecht. Năm 1826, cha của họ ông lấy trị hiệu Ernst I xứ Sachsen-Coburg và Gotha thông qua việc trao đổi lãnh thổ sau cái chết của người chú của công tước là Friedrich IV xứ Sachsen-Gotha-Altenburg. Vào tháng 5 năm 1820, mẹ của Ernst mô tả cậu là "rất lớn so với tuổi, cũng như thông minh. Đôi mắt đen to của nó tràn đầy tinh thần và sự hoạt bát". Nhà viết tiểu sử Richard Hough viết rằng "ngay từ khi còn nhỏ, rõ ràng là đứa con trai cả giống cha mình, về tính cách và ngoại hình, trong khi Albrecht rất giống mẹ ở hầu hết mọi khía cạnh". Ernst và em trai thường sống với bà nội của họ là Thái Công tước phu nhân xứ Sachsen-Coburg-Saalfeld cho đến khi bà qua đời vào năm 1831.

Ông và Albrecht được nuôi dưỡng và giáo dục cùng nhau như thể họ là anh em sinh đôi. Mặc dù Albrecht kém Ernest 14 tháng tuổi, nhưng về mặt trí tuệ, ông đã vượt trội hơn Ernst. Có lẽ những "nỗi buồn" nói trên liên quan đến cuộc hôn nhân của cha mẹ họ; cuộc hôn nhân không hạnh phúc và Công tước Ernst I liên tục không chung thủy. Năm 1824, Ernst I và Louise ly hôn; sau đó bà rời Coburg và không được phép gặp lại các con trai của mình. Bà sớm tái hôn với Alexander von Hanstein, Bá tước xứ Pölzig và Beiersdorf, qua đời năm 1831 ở tuổi 30. Một năm sau khi bà mất, cha của họ kết hôn với người cháu gái là Marie xứ Württemberg, con gái của chị gái ông là Antoinette xứ Sachsen-Coburg-Saalfeld. Do đó, Marie là chị họ cũng như là mẹ kế của hai anh em. Cặp đôi không thân thiết và không có con; trong khi các cậu bé hình thành mối quan hệ hạnh phúc với mẹ kế của mình, Marie hầu như không can thiệp vào cuộc sống của các con riêng của mình. Việc cha mẹ ly thân và ly hôn, cũng như cái chết sau này của mẹ, đã khiến các cậu bé bị tổn thương và trở nên thân thiết với nhau.

thumb|Một bản [[in thạch bản của Ernst, 1842]]

Năm 1836, Ernst và Albrecht đến thăm người em họ là Vương tôn nữ Alexandrina Victoria xứ Kent, và ở lại Lâu đài Windsor vài tuần. Cả hai chàng trai, đặc biệt là Albrecht, đều được gia đình Công tước xứ Kent coi là một người chồng tiềm năng cho Vương tôn nữ trẻ, và cả hai đều được dạy nói tiếng Anh thành thạo. Lúc đầu, cha của họ nghĩ rằng Ernst sẽ là một người chồng tốt hơn cho Victoria so với Albrecht, có thể là vì sở thích thể thao của anh sẽ được công chúng Anh đón nhận tốt hơn. Tuy nhiên, hầu hết những người khác đều thích Albrecht hơn Ernst. Về tính cách, Victoria giống Ernst hơn nhiều, vì cả hai đều hoạt bát và hòa đồng, thích khiêu vũ, buôn chuyện và thức khuya; ngược lại, nhịp sống nhanh này khiến Albrecht bị ốm. Sáu tuần sau khi học kỳ kết thúc, Victoria lên ngôi Nữ vương Vương quốc Liên hiệp Anh. Khi tin đồn về cuộc hôn nhân sắp xảy ra giữa bà và Albrecht làm ảnh hưởng đến việc học của họ, hai anh em đã rời đi vào ngày 28 tháng 8 năm 1837, khi học kỳ kết thúc để đi du lịch vòng quanh châu Âu. Họ trở lại Bonn vào đầu tháng 11 để tiếp tục việc học. Hai anh em lại đi du lịch Anh vào năm 1839, khi đó Victoria thấy anh họ Albrecht dễ chịu và sớm cầu hôn. Mối quan hệ này sẽ có nhiều ý nghĩa đối với Ernst trong tương lai; ví dụ, ông được chọn làm cha đỡ đầu cho con gái thứ hai của Albrecht là Vương nữ Alice, và ông cũng là người nắm tay cháu gái trong lễ thành hôn của Alice thay cho Albrecht, vì Albrecht đã qua đời vài tháng trước đó.

Nhờ có mối quan hệ rộng rãi với hoàng tộc vương thất châu ÂU, ông đã đi du lịch khắp nơi trong giai đoạn này của cuộc đời mình. Vào năm 1840 và 1841, ông đã đến Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha; ở Bồ Đào Nha, một người anh em họ khác là Công tôn Ferdinand, chồng của Nữ vương Maria II đã tiếp đón ông long trọng.

Hôn nhân

thumb|[[Alexandrine xứ Baden, vợ của Ernst II xứ Sachsen-Coburg và Gotha. Bà vẫn hết lòng hết dạ với Ernst trong suốt cuộc hôn nhân của họ, và tin rằng việc họ không có con là lỗi của bà.]]

Nhiều ứng cử viên hoàng gia được giới thiệu để trở thành vợ của Ernst. Cha ông muốn ông tìm một người phụ nữ có địa vị cao, chẳng hạn như một Nữ đại thân vương Nga để làm vợ. Một ứng viên tiềm năng là Clémentine của Orléans, con gái của Louis-Philippe I của Pháp, người mà ông gặp khi đến thăm triều đình Pháp tại Cung điện Tuileries. Tuy nhiên, một cuộc hôn nhân như vậy sẽ đòi hỏi ông phải cải đạo từ Tin Lành sang Công giáo La Mã, vì thế mà cuộc hôn nhân không thành. và được Victoria của Anh giới thiệu người em họ là Augusta xứ Cambridge.

Tại Karlsruhe vào ngày 3 tháng 5 năm 1842, Ernst kết hôn với Đại công nữ Alexandrine xứ Baden, 21 tuổi. Bà là con gái cả của Leopold, Đại công tước xứ Baden, và Sofia Wilhelmina của Thụy Điển, con gái của Vua bị phế truất Gustav IV Adolf của Thụy Điển. Mặc dù ông đã đồng ý, cha ông vẫn thất vọng vì người con trai đầu lòng của ông không làm nhiều hơn để thúc đẩy các mối quan tâm của triều đình Coburg. Ông đã cư xử theo cách như vậy dưới sự dạy dỗ của cha mình, người đã đưa các con trai của mình đi "thưởng thức những thú vui" của Paris và Berlin, khiến Albrecht "kinh hoàng và xấu hổ". mặc dù một bản hiến pháp khác đã tồn tại ở Coburg từ năm 1821. Vào năm 1852, cả hai bản hiến pháp đã được hợp nhất thành một, chuyển đổi sự hợp nhất cá nhân của hai công quốc thành một sự hợp nhất thực sự; các công quốc giờ đây không thể tách rời, với một tập hợp các thể chế chung. Trong thời kỳ hỗn loạn chính trị, những nhượng bộ kịp thời và thói quen hòa nhập với "người dân trong thú vui của họ" của Ernst đã đóng vai trò quan trọng trong việc giúp ông không mất ngai vàng. Hơn nữa, nhiều nguồn tin đương thời cho rằng Ernst là một nhà cai trị có năng lực, công bằng và rất được lòng dân, điều này cũng có thể giúp ông giữ được quyền lực.

Chiến tranh Schleswig-Holstein

thumb|Tượng bán thân của Ernst tại Nhà hát Landestheater ở Coburg. Ernst là người đam mê âm nhạc và kịch suốt cuộc đời, và là người có sức ảnh hưởng nghệ thuật đằng sau nhiều vở kịch nổi tiếng ở Đức.

Từ năm 1848 đến năm 1864, Đan Mạch và Bang liên Đức đã xảy ra xung đột để giành quyền kiểm soát hai công quốc Schleswig và Holstein. Theo lịch sử, các công quốc đã do các quốc vương Đan Mạch cai trị kể từ thời trung cổ, nhưng vẫn còn một lượng lớn người Đức chiếm đa số dân cư. Họ này đã nổi loạn sau khi Frederik VII của Đan Mạch tuyên bố vào ngày 27 tháng 3 năm 1848 rằng các công quốc sẽ trở thành một phần không thể tách rời của Đan Mạch theo hiến pháp tự do mới của ông. Vương quốc Phổ sớm tham gia xung đột, ủng hộ cuộc nổi loạn và bắt đầu Chiến tranh Schleswig lần thứ nhất. Công tước Ernst II đã cử 8.000 quân đến chiến trường, bổ sung vào quân đội do Bang liên Đức cử đến. Ông cũng mong muốn được giao một công việc quân sự trong chiến tranh, nhưng đã bị từ chối, vì theo hồi ký của ông: "cực kỳ khó để cung cấp cho tôi một vị trí trong quân đội Schleswig-Holstein tương ứng với cấp bậc của tôi". Ông đã đồng ý với một vị trí nhỏ hơn, để lãnh đạo một đội quân Thuringian; ông đã viết thế này trong một lá thư gửi cho em trai mình: "Tôi đáng lẽ đã từ chối bất kỳ vị trí nào khác tương tự, nhưng tôi không thể từ chối vị trí này, vì trong điều kiện hiện tại của Nhà nước chúng ta, điều quan trọng là phải giữ quyền hành pháp trong tay chúng ta". Là chỉ huy của một quân đoàn Đức, Công tước Ernst đã góp phần quan trọng vào chiến thắng trong trận Eckernförde ngày 5 tháng 4 năm 1849, trước lực lượng Đan Mạch, chiếm được hai khinh hạm. Cũng vào thời điểm này, Ernst quan tâm đến Nghị viện Frankfurt và có thể đã hy vọng được bầu làm Hoàng đế Đức, nhưng thay vào đó, ông đã thúc giục Vua Friedrich Wilhelm IV của Phổ đảm nhận vị trí đó, mặc dù không thành công. Ernst cũng đã tổ chức một hội nghị Berlin cùng các Thân vương Đức vào năm 1850; ông đánh giá cao những cơ hội như vậy vì ảnh hưởng chính trị mà chúng mang lại cho ông.

Mối quan hệ với Victoria và Albrecht

Cuộc chiến tranh đầu tiên kết thúc vào năm 1851, nhưng sẽ tiếp tục vào năm 1864. Trong thời gian này, Ernst phản đối kịch liệt cuộc hôn nhân của cháu trai mình là Albert Edward, Thân vương xứ Wales ('Bertie'), với Vương nữ Alexandra của Đan Mạch, con gái của Vua Christian IX tương lai của Đan Mạch (và do đó là kẻ thù của các nhà nước nói tiếng Đức). Ông tin rằng một cuộc hôn nhân như vậy là đi ngược lại lợi ích của Đức. Albrecht trả lời một cách giận dữ: "Điều đó liên quan gì đến anh?... Vicky đã vắt óc để giúp chúng ta tìm một người, nhưng vô ích... Chúng ta không có lựa chọn [hợp lý] nào khác". Albrecht đồng ý rằng sẽ có vấn đề với cuộc hôn nhân này, nhưng vì ông không thể tìm được cô dâu thay thế, ông đã viết thư cho Ernst rằng việc giữ mối quan hệ này là vấn đề riêng tư (và nằm ngoài phạm vi của chính phủ) là "cách duy nhất để ngăn chặn sự rạn nứt với Phổ và là cách duy nhất để giữ trò chơi trong tay chúng ta, áp đặt các điều kiện mà chúng ta cho là cần thiết và trong khả năng của chúng ta, loại bỏ lợi thế chính trị của nó". Albrecht cũng cảnh báo con trai mình về những nỗ lực can thiệp vào cuộc hôn nhân của Ernst, bình luận rằng, "Bác của con... sẽ thử sức với công việc này. Cách phòng thủ tốt nhất của con là không nên đề cập đến vấn đề này, nếu bác ấy đề cập đến".

Ngay sau khi viết những lá thư này, Vương tế Albrecht qua đời vào ngày 14 tháng 12 năm 1861. Cái chết của ông đã giúp Ernst hàn gắn mối quan hệ với em dâu, vì Nữ vương Victoria ngày càng tức giận vì Ernst phản đối cuộc hôn nhân của con trai bà với vương nữ Đan Mạch. Hai anh em luôn thân thiết, bất kể bất đồng quan điểm của họ là gì, và cái chết của Albrecht khiến Ernst "khốn khổ", Victoria lưu ý trong một lá thư gửi cho con gái lớn của bà. Tuy nhiên, cái chết không giải quyết được cuộc tranh cãi của họ; thấy rằng sự tham gia trực tiếp của mình đã không thuyết phục được Victoria, Ernst đã thử một chiến thuật mới. Ông bắt đầu tung tin đồn về Alexandra và gia đình bà, nói rằng mẹ của bà là Luise của Hessen-Kassel "có con ngoài giá thú và Alexandra đã tán tỉnh các sĩ quan trẻ"; ông cũng viết thư cho chính Louise, cảnh báo rằng Bertie sẽ là một lựa chọn không may cho một người chồng. Ngoài ra, Ernst đã gặp cháu trai của mình tại Thebes, Hy Lạp, rất có thể là cố gắng ngăn cản anh ta kết hôn trực tiếp. Trong một lá thư ngày 11 tháng 4, Victoria không vui khi lưu ý với cô con gái lớn của mình, "Con không nói với mẹ rằng Bertie đã gặp bác Ernst tại Thebes... Mẹ luôn lo lắng khi nghĩ đến việc bác Ernst và Bertie ở bên nhau vì mẹ biết bác Ernst sẽ làm mọi cách để ngăn cản Bertie kết hôn với Vương nữ Alix".

Đề cử làm vua Hy Lạp

thumb|[[Xu bạc: 1 Vereinsthaler Kỷ niệm 25 năm trị vì của Công tước Ernst, đúc năm 1869]]

Vào ngày 23 tháng 10 năm 1862, Otto xứ Bayern, người được bầu làm Vua Hy Lạp từ năm 1832, đã bị phế truất trong một cuộc đảo chính không đổ máu. Người Hy Lạp hy vọng sẽ có một người thân cận với Đế chế Anh và Nữ vương Victoria thay thế Otto; một số người muốn để Vương tử Alfred, Công tước xứ Edinburgh (con trai thứ hai của Nữ vương Victoria) kế vị làm Vua Hy Lạp. Vương tử Alfred đã được bầu với 95% số phiếu trong cuộc trưng cầu dân ý về nguyên thủ quốc gia Hy Lạp năm 1862. Tuy nhiên, sau thông báo Vương tử Alfred không đủ tư cách tiếp nhận ngai vàng Hy Lạp được xác nhận, người Hy Lạp bắt đầu tìm kiếm những ứng cử viên khả thi khác, bao gồm Công tước Ernst xứ Sachsen-Coburg và Gotha theo đề xuất của chính phủ Anh. Tuy nhiên, khi các cuộc đàm phán tiếp tục, Nữ vương bắt đầu mất đi sự nhiệt tình với ý tưởng này.

Có những vấn đề đối với việc đề cử; Công tước Ernst không có con hợp pháp, và do đó sẽ phải nhận nuôi một trong những vương tử của gia tộc mình để kế vị ông làm Vua của Hy Lạp sau khi ông qua đời. Để giải quyết vấn đề này, Ernst đã đề xuất với Lãnh chúa xứ Palmerston rằng ông chỉ cần tiếp nhận tước hiệu Nhiếp chính của Hy Lạp và nắm giữ vương quốc để ủy thác cho người thừa kế được ông chọn.

Chiến tranh Áo-Phổ và Pháp-Phổ

Ernst, giống như em trai mình, ủng hộ một nhà nước Đức thống nhất dưới hình thức liên bang. Để đạt được mục tiêu này, Ernst thích dấn thân vào bất kỳ hệ thống chính trị nào hứa hẹn một nhà nước Đức liên bang sẽ hình thành. Quan điểm ủng hộ chủ nghĩa tự do của ông đã khiến công quốc của ông trở thành nơi tị nạn cho những người tị nạn chính trị từ các Nhà nước Đức khác. Năm 1863, ông tham dự Hội nghị Frankfurt tự do, sự kiện đã bị Vương quốc Phổ bảo thủ hơn công khai tránh né.

Chiến tranh Áo-Phổ năm 1866 nổ ra do mong muốn thống nhất của các nhà có lãnh đạo bảo thủ ở Đức, mặc dù theo các điều khoản khác với các đối tác tự do của họ. Ernst thúc giục các nhà lãnh đạo Phổ phản đối cuộc chiến sắp xảy ra và là người ủng hộ tích cực cho sự nghiệp của Đế chế Áo. Chồng của Vương nữ Victoria là Thái tử Friedrich Wilhelm cũng hài lòng với quyết định của Ernst, ông viết trong nhật ký của mình vào ngày 28 tháng 9 năm 1871 rằng "xã hội của công tước luôn mang lại cho tôi niềm vui đặc biệt, đặc biệt là... khi trái tim ông ấy đập rất nồng nhiệt vì nước Đức".

Việc Ernst ủng hộ người Phổ trong Chiến tranh Áo-Phổ và sau đó là Chiến tranh Pháp-Phổ có nghĩa là ông không còn là nhà lãnh đạo tiềm năng của một phong trào chính trị nữa; mặc dù đúng là ông đã có thể giữ lại các công quốc của mình, nhưng điều đó phải trả giá. Theo nhà sử học Charlotte Zeepvat, Ernst "ngày càng lạc vào vòng xoáy của những thú vui riêng tư chỉ nhận được sự khinh miệt từ bên ngoài". Ernst chuyển hướng những suy nghĩ chính trị của mình vào phạm vi riêng tư, thích viết các bài báo được tài trợ bí mật trên báo Coburg ngày càng cay đắng với nước Anh. Nữ vương Victoria rất tức giận, viết cho Vicky, "Những gì con kể với ta về bác Ernst và cuốn sách nhỏ đó thực sự là quái dị. Ta đảm bảo với con rằng ta cảm thấy rất khó khăn khi viết thư cho bác ấy vào ngày sinh nhật của bác ấy, nhưng ta đã viết nó ngắn gọn và bình tĩnh nhất có thể với sự lịch sự".

Những năm cuối đời

thumb|Một [[Danh sách tượng cưỡi ngựa ở Đức|tượng cưỡi ngựa của Ernst trong Hofgarten, Coburg. Vào những năm 1850, Ernst đã biến đổi đáng kể Hofgarten thành một Vườn phong cảnh kiểu Anh. Nó mở cửa cho công chúng vào ngày 27 tháng 4 năm 1857. Bức tượng được xây dựng vào năm 1899 để tưởng nhớ những đóng góp của Ernst.]]

Sau này trong triều đại của mình, hành động của Ernst liên tục khiến em dâu Victoria tức giận. Mặc dù Victoria có cảm tình với Ernst vì ông là anh trai của chồng, nhưng bà không hài lòng khi Ernst viết hồi ký, bà lo lắng về nội dung của chúng chủ yếu liên quan đến người chồng đã khuất của bà.

Trong suốt thời kỳ trị vì của mình, Ernst nổi tiếng với sự xa hoa và lăng nhăng; khi lớn lên, Ernst thích buôn chuyện và "bây giờ là một ông già vô danh tiểu tốt thích sự phẫn nộ do hành động của mình gây ra", khiến Vicky tuyên bố rằng bác của bà "là kẻ thù của chính mình". Cháu gái của ông, Marie xứ Edinburgh sau này mô tả Ernst là "một quý ông đẹp trai già nua, mặc một chiếc áo khoác quá chật so với vóc dáng của mình và bị bó chặt ở eo, đội mũ chóp cao, đeo găng tay màu chanh và cài một nụ hồng trên ve áo". thường trao giải thưởng và danh hiệu cho các thành viên của thế giới nghệ thuật và khoa học, chẳng hạn như Paul Kalisch, một ca sĩ opera người Đức và nhà hóa học người Anh William Ernest Bush. Ernst sáng tác các bài hát, thánh ca và cantata, cũng như các tác phẩm nhạc cho opera và sân khấu, bao gồm Die Gräberinsel (1842), Tony, oder die Vergeltung (1849), Casilda (1851), Santa Chiara (1854) và Zaïre, đã thành công ở Đức. Một trong những vở opera của ông, Diana von Solange (1858), đã thúc đẩy Franz Liszt vào năm sau để viết một tác phẩm Festmarsch nach Motiven von E. H. z. S.-C.-G., S.116 cho dàn nhạc (E. H. z. S.-C.-G. là viết tắt của Ernst Herzog zu Sachsen-Coburg-Gotha). Tuy nhiên, việc dàn dựng tác phẩm này tại Nhà hát Metropolitan Opera ở Thành phố New York vào năm 1890 đã gây ra những đánh giá ảm đạm, với một khán giả bình luận rằng "âm nhạc của tác phẩm chỉ đơn giản là rác rưởi". Ernst cũng là một thợ săn và vận động viên thể thao nhiệt thành; một người đương thời đã nhận xét rằng ông là "một trong những vận động viên thể thao hàng đầu và nhiệt tình nhất được sản sinh ra trong thế kỷ này". Ngoài ra, Ernst còn là người bảo trợ nhiệt tình cho mọi thứ liên quan đến lịch sử tự nhiên, Là một vận động viên suốt đời, những lời cuối cùng của ông dường như là "Hãy bắt đầu cuộc đua!" Ông được chôn cất tại lăng mộ công tước ở Friedhof am Glockenberg [de] mà chính ông đã xây dựng vào năm 1853–1858.

Cố Công tước Ernst được kế vị bởi cháu trai của ông là Vương tử Alfred, Công tước xứ Edinburgh, con trai thứ hai của Victoria của Anh và Albrecht xứ Sachsen-Coburg và Gotha.

Thừa kế Sachsen-Coburg và Gotha

thumb|Người thừa kế hợp pháp của Ernst, [[Alfred xứ Sachsen‑Coburg và Gotha|Vương tử Alfred, Công tước xứ Edinburgh.]]

Trong phần lớn thời gian trị vì của Công tước Ernst, người thừa kế hợp pháp của Sachsen-Coburg và Gotha là người em trai duy nhất của ông là Vương tế Albrecht, chồng của Victoria của Anh.

Vinh dự

Huân chương ở Đức

;Huân chương quốc tế Thập tự lớn của Huân chương quân sự Hoàng gia Chúa Giêsu Kitô của chúng ta, 23 April 1836 Thập tự lớn Tháp và Kiếm, 1 March 1844

  • : Grand Cordon của Huân chương Leopold, 18 November 1839
  • Vương quốc Pháp: Thập tự lớn Bắc Đẩu Bội tinh, May 1843
  • : Hiệp sĩ của Dòng Garter, 12 December 1844
  • : Grand Cross of the Royal Hungarian Order of St. Stephen, 1852
  • : Thập tự lớn của Huân chương Thập tự Phương Nam
  • : Grand Cordon của Huân chương Hoa cúc, 20 April 1883
  • : Huân chương Thập tự lớn của Danh dự và Lòng tận tụy, 16 December 1839
  • : Thập tự lớn của Huân chương Thánh giá Takovo

Tổ tiên

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Ernst II xứ Sachsen-Coburg và Gotha** (tiếng Đức: _Ernst II. von Sachsen-Coburg und Gotha_; tiếng Tây Ban Nha: _Ernesto II of Sajona-Coburgo y Gotha_; tiếng Anh: _Ernest II of Saxe-Coburg and Gotha_; tên đầy đủ:
**Ernst I xứ Sachsen-Coburg và Gotha** (tiếng Đức: _Ernst I. von Sachsen-Coburg und Gotha_; tiếng Tây Ban Nha: _Ernesto I de Sajonia-Coburgo y Gotha_; tiếng Anh: _Ernest I of Saxe-Coburg and Gotha_; tên đầy đủ:
**Alfred của Liên hiệp Anh, Công tước xứ Sachsen-Coburg và Gotha** (Alfred Ernest Albert; 6 tháng 8 năm 1844 – 30 tháng 7 năm 1900) là thành viên của Vương thất Anh và là Công
**Albrecht xứ Sachsen-Coburg và Gotha** (26 tháng 8 năm 1819 – 14 tháng 12 năm 1861), tên đầy đủ cùng tước hiệu khi sinh là **Franz Albrecht August Karl Emanuel von Sachsen-Coburg-Saalfeld, Công tước xứ
**Công quốc Sachsen-Coburg và Gotha** (tiếng Đức: _Herzogtum Sachsen-Coburg und Gotha_) là một nhà nước cấu thành nên Đế quốc Đức, được cai trị bởi một trong những nhánh của dòng Ernestine, chi trưởng của
**Charles Edward** (_Leopold Charles Edward George Albert_;19 tháng 7 năm 1884 - 6 tháng 3 năm 1954) sinh ra là một Vương tử Anh và Công tước xứ Albany, sau cái chết không để lại
**Ferdinand Georg August xứ Sachsen-Coburg và Gotha** (28 tháng 3 năm 1785 – 27 tháng 8 năm 1851) là một Công tử người Đức của Nhà Sachsen-Coburg và Gotha và là tướng kỵ binh của
**Vương tộc Sachsen-Coburg và Gotha** (tiếng Đức: _Haus Sachsen-Coburg und Gotha_) là một dòng dõi quý tộc Đức, một chi nhánh thuộc dòng Ernestine, chi trưởng của Nhà Wettin. Tên này được lấy từ công
**Victoire xứ Sachsen-Coburg-Saalfeld** (17 tháng 8 năm 1786 - 16 tháng 3 năm 1861), là một Công nữ người Đức của Công quốc Sachsen-Coburg-Saalfeld, từng là Vương phi xứ Leiningen với tư cách là vợ
**Franz I xứ Sachsen-Coburg-Saalfeld** (tên đầy đủ: _Franz Friedrich Anton, Herzog von Sachsen-Coburg-Saalfeld_; 15 tháng 7 năm 1750 – 9 tháng 12 năm 1806), là một trong những công tước có chủ quyền thuộc dòng
**Luise Pauline xứ Sachsen-Gotha-Altenburg** (tiếng Đức: _Luise Pauline von Sachsen-Gotha-Altenburg_; tiếng Anh: _Louise Pauline of Saxe-Gotha-Altenburg_; tên đầy đủ: _Luise Dorothea Pauline Charlotte Fredericka Auguste_; 21 tháng 12 năm 1800 – 30 tháng 8 năm
**Ernst I, Công tước xứ Sachsen-Gotha**, có biệt danh là **Ernst Ngoan đạo** (25 tháng 12 năm 1601 – 26 tháng 3 năm 1675) là công tước của Sachsen-Gotha và Sachsen-Altenburg thuộc Các công quốc
**Alexandrine xứ Baden** (tiếng Đức: _Alexandrine Luise Amalie Friederike Elisabeth Sophie_; 6 tháng 12 năm 1820 – 20 tháng 12 năm 1904) là Công tước phu nhân xứ Sachsen-Coburg và Gotha từ ngày 29 tháng
**Léopold I của Bỉ** (16 tháng 12 năm 1790 - 10 tháng 12 năm 1865) là Quốc vương đầu tiên của Vương quốc Bỉ, sau khi Bỉ tuyên bố tách khỏi Hà Lan vào ngày
Dom **Fernando II** (tiếng Đức: _Ferdinand II_; tiếng Anh: _Ferdinand II_) (29 tháng 10 năm 1816 – 15 tháng 12 năm 1885) là một Thân vương người Đức của Nhà Sachsen-Coburg và Gotha-Koháry, và là
**Augusta xứ Sachsen-Weimar-Eisenach** (_Maria Luise Augusta Catherina_; 30 tháng 9 năm 1811 – 7 tháng 1 năm 1890), là Vương hậu Phổ và trở thành hoàng hậu đầu tiên của Đế chế Đức sau khi
**Elisabeth Sophia xứ Sachsen-Altenburg** (tiếng Đức: _Elisabeth Sophia von Sachsen-Altenburg_; tiếng Tây Ban Nha: _Isabel Sofía de Sajonia-Altemburgo_; tiếng Đan Mạch: _Elisabeth Sophie af Sachsen-Altenburg_; tiếng Ba Lan: _Elżbieta Zofia z Saksonii-Altenburga_; tiếng Anh: _Elizabeth
**Victoria của Liên hiệp Anh** (Alexandrina Victoria; 24 tháng 5 năm 1819 – 22 tháng 1 năm 1901) là Nữ vương Vương quốc Liên hiệp Anh từ ngày 20 tháng 6 năm 1837 cho đến
**Ferdinand I của Bulgaria** (Tiếng Bulgaria: ; 26/02/1861 - 10/09/1948),, tên khai sinh là **Ferdinand Maximilian Karl Leopold Maria von Sachsen-Coburg und Gotha**, là vị Vương công thứ hai của Thân vương quốc Bulgaria từ
**Công tước phu nhân xứ Edinburgh** là tước hiệu dành cho vợ của Công tước xứ Edinburgh. Cho đến nay có tất cả 7 vị Công tước phu nhân xứ Edinburgh, trong đó có hai
**Leopold** (tiếng Đức: _Karl Leopold I. Friedrich von Baden_; 29 tháng 8 năm 1790 - 24 tháng 4 năm 1852) là Đại công tước đời thứ 4 của xứ Baden, ông trị vì từ năm
**Friedrich III, Công tước xứ Sachsen-Gotha-Altenburg** (14 tháng 4 năm 1699 - 10 tháng 3 năm 1772), là công tước đời thứ 3 xứ Sachsen-Gotha-Altenburg, thuộc dòng Ernestine, nhánh trưởng của Triều đại Wettin. Ông
**Ludwig Wilhelm August von Baden** (18 tháng 12 năm 1829. Wilhelm được nhận nền giáo dục chính thức của mình trong lực lượng quân đội Phổ. Từ năm 1856, Wilhelm phục vụ trong Trung đoàn
**Victoria Adelaide của Liên hiệp Anh và Ireland, Vương nữ Vương thất, Hoàng hậu Đức và Vương hậu Phổ** (; , 21 tháng 11 năm 1840 – 5 tháng 8 năm 1901) là Vương nữ
**Công quốc Sachsen-Weimar** (tiếng Đức: _Herzogtum Sachsen-Weimar_) là một trong những nhà nước của Các công quốc Ernestine do nhánh Ernestine của triều đại Wettin nắm giữ ở bang Thuringia, Đức ngày nay, vì thế
**Alix của Hessen và Rhein** (tiếng Đức: _Alix von Hessen und bei Rhein_; tiếng Anh: _Alix of Hesse and by Rhine_; 6 tháng 6 năm 1872 – 17 tháng 7 năm 1918), còn được gọi
**Alice của Liên hiệp Anh và Ireland** (**Alice Maud Mary**; ngày 2 tháng 4 năm 1843 – ngày 14 tháng 12 năm 1878) là con gái của Victoria I của Liên hiệp Anh và Albrecht
**George V** (3 tháng 6 năm 1865– 20 tháng 1 năm 1936) là Quốc vương Vương quốc Anh và các quốc gia tự trị của Anh, và Hoàng đế Ấn Độ, từ 6 tháng 5
**Công quốc Sachsen-Gotha-Altenburg** (tiếng Đức: _Sachsen-Gotha-Altenburg_) là một công quốc được cai trị bởi nhánh Ernestine của Nhà Wettin ở Thüringen, Đức ngày nay. Sự tuyệt tự của dòng này diễn ra vào năm 1825
**Sofia Wilhelmina của Thụy Điển** (_Sofia Wilhelmina Katarina Maria Lovisa Charlotta Anna_; 21 tháng 5 năm 1801 – 6 tháng 7 năm 1865), là một vương nữ Thụy Điển thuộc Vương tộc Holstein-Gottorp, con gái
**Laura Williamina Seymour, Nữ Bá tước xứ Gleichen, Thân vương tử phi Viktor xứ Hohenlohe-Langenburg** (tiếng Anh: _Laura Williamina Seymour, Countess of Gleichen, Princess Victor of Hohenlohe-Langenburg_; tiếng Đức: _Laura Wilhelmina Seymour, Gräfin von Gleichen,
**Victoria của Hessen và Rhein,** sau là Victoria Mountbatten, Hầu tước phu nhân xứ Milford Haven (tên đầy đủ: **Victoria Alberta Elisabeth Mathilde Marie**; 5 tháng 4 năm 1863 – 24 tháng 9 năm 1950)
**Karl I xứ Braunschweig-Wolfenbüttel** (1 tháng 08 năm 1713, Braunschweig - 26 tháng 03 năm 1780, Braunschweig), đôi khi viết là **Carl I**, là Công tước xứ Braunschweig và Lüneburg (_Herzöge zu Braunschweig und Lüneburg_)
**Irene của Hessen và Rhein** (Irene Luise Marie Anne; 11 tháng 7 năm 1866 – 11 tháng 11 năm 1953), sau là **Vương tức Heinrich của Phổ**, là người con thứ ba của Alice của
**Công quốc Sachsen-Saalfeld** (tiếng Đức: _Herzogtum Sachsen-Saalfeld_) là một trong những Công quốc Sachsen do dòng Ernestine của Nhà Wettin nắm giữ. Được thành lập vào năm 1680 và trao cho Công tử Johann Ernst,
**Marie của Hessen và Rhein** (tiếng Đức: _Marie von Hessen und bei Rhein_; tiếng Anh: _Marie of Hesse and by Rhine_; tên đầy đủ: _Marie Victoria Feodore Leopoldine_; 24 tháng 5 năm 1874 – 16
**Ernst Ludwig** (; 25 tháng 11 năm 1868 – 9 tháng 10 năm 1937) là Đại công tước cuối cùng của Hessen và Rhein, trị vì từ năm 1892 đến năm 1918, vào cuối Chiến
**Frederick Augustus III** (tiếng Đức: Friedrich August III; 25/05/1865 - 18/02/1932) là vị Vua cuối cùng của Vương quốc Sachsen, tại vị từ năm 1904 đến khi thoái vị vào năm 1918, ông là thành
**Adelheid xứ Hohenlohe-Langenburg** (20 tháng 7 năm 1835 – 25 tháng 1 năm 1900) là con gái của Ernst I xứ Hohenlohe-Langenburg và Feodora xứ Leiningen. Thông qua hôn nhân với Friedrich VIII xứ Schleswig-Holstein,
**Friedrich của Hessen và Rhein** (tiếng Đức: _Friedrich von Hessen und bei Rhein_; tiếng Anh: _Frederick of Hesse and by Rhine_; tên đầy đủ: _Friedrich Wilhelm August Victor Leopold Ludwig_; 7 tháng 10 năm 1870
**Vương tử Augustus Frederick, Công tước xứ Sussex** (27 tháng 1 năm 1773 – 21 tháng 4 năm 1843) là con trai thứ sáu và là người con thứ chín của Vua George III của
thumb|Huy hiệu của dòng Ernestines **Các công quốc Ernestine** (tiếng Đức: _Ernestinische Herzogtümer_), còn được gọi là các công quốc Sachsen (Sächsische Herzogtümer, mặc dù các công quốc được cai trị bởi dòng Albertine gồm
**Charlotte của Phổ** (tiếng Đức: _Victoria Elisabeth Augusta Charlotte von Preußen_; 24 tháng 7 năm 1860 – 1 tháng 10 năm 1919) là Công tước phu nhân xứ Sachsen-Meiningen từ năm 1914 cho đến năm
**Viktoria của Phổ** (Friederike Amalia Wilhelmine Viktoria; 12 tháng 4 năm 1866 – 13 tháng 11 năm 1929) là con gái thứ hai của Hoàng đế Friedrich III của Đức và Victoria Adelaide của Liên
thumb|Lãnh thổ của Nhà Wettin được thể hiện sau Hiệp ước Leipzig: vùng Tuyển đế hầu của dòng Ernestine màu đỏ, vùng đất công tước của dòng Albertine màu vàng. Lãnh thổ cai trị chung
thumb|Huy hiệu Thân vương xứ Hohenlohe-Langenburg **Hohenlohe-Langenburg** () là một Bá quốc và sau được nâng lên Thân vương quốc trong Đế quốc La Mã Thần thánh. Lãnh thổ của nó nằm ở phía Đông
**William IV của Liên hiệp Anh** (William Henry; 21 tháng 8 năm 1765 – 20 tháng 6 năm 1837) là Quốc vương Vương quốc Anh và Vua của Hannover từ 26 tháng 6 năm 1830 cho
nhỏ|Wilhelm von Hahnke **Wilhelm Gustav Karl Bernhard von Hahnke** (1 tháng 10 năm 1833 tại Berlin – 8 tháng 2 năm 1912) là một Thống chế của Phổ, từng tham gia trong ba cuộc chiến
thumb|[[George II của Anh|Prince George Augustus, con trai duy nhất của George I của Anh, là _British prince_ đầu tiên.]] **Vương tử Anh**, **Vương tôn Anh**, **Vương công Anh** hoặc **Công thân Anh**, đôi khi
**Friedrich III của Đức** ( _Prinz von Preußen_; 18 tháng 10 năm 1831 – 15 tháng 6 năm 1888) là Hoàng đế Đức và là Vua của Phổ trong khoảng ba tháng (99 ngày) từ