✨Leopold I xứ Baden

Leopold I xứ Baden

Leopold (tiếng Đức: Karl Leopold I. Friedrich von Baden; 29 tháng 8 năm 1790 - 24 tháng 4 năm 1852) là Đại công tước đời thứ 4 của xứ Baden, ông trị vì từ năm 1830 cho đến khi qua đời vào năm 1852.

Ông là con trai đầu của Karl Friedrich xứ Baden với người vợ thứ hai, Luise Karoline Geyer von Geyersberg và bà là một thường dân, nên cuộc hôn nhân của hai người bị xem là Quý tiện kết hôn, vì thế các hậu duệ của cuộc hôn nhân này, bao gồm cả Leopold không thể thừa kế tước vị cũng như tài sản của Nhà Zähringen ở Baden. Luise Karoline và các con của bà đã được phong tước hiệu Nam tước và Nữ Nam tước, từ năm 1796 được phong Bá tước và Nữ bá tước von Hochberg.

Nhưng vì các hậu duệ của Karl Friederich với người vợ đầu dần chết đi mà không để lại người thừa kế, khả năng trong tương lai sẽ dẫn đến một cuộc chiến tranh kế vị và Nhà Zähringen sẽ đánh mất Baden vào tay của Quốc vương Bayern là Maximilian I Joseph của Bayern. Cháu trai của Karl Friederich là Đại công tước Karl I đã tiến hành hợp thức hoá quyền thừa kế của hậu duệ người vợ thứ 2 của ông nội mình, bất chấp họ là sản phẩm của quý tiện kết hôn. Vì thế, kể từ thời Leopold, các Đại công tước xứ Baden đều là hậu duệ của Karl Friederich với người vợ thứ 2 - thường dân.

Người thừa kế Hochberg

thumb|[[Xu bạc: 1 Kronenthaler với mặt trước là chân dung của Leopold, được phát hành năm 1831, năm trị vì thứ 2 của ông ở cương vị Đại công tước xứ Baden]] Vì hậu duệ của cuộc hôn nhân đầu tiên giữa Karl Friedrich xứ Baden với Karoline Luise xứ Hessen-Darmstadt khá dồi dào, có đến 3 người con trai sống đến tuổi trưởng thành, cho nên những đứa con từ cuộc hôn nhân thứ 2 không được quan tâm nhiều, và bản thân họ cũng không thể kế thừa bất cứ tước vị hay tài sản nào từ Nhà Zähringen hoàng gia, vì đó là cuộc hôn nhân quý tiện kết hôn. Các hậu duệ của cuộc hôn nhân thứ 2 chỉ được công nhận là có quan hệ huyết thống với gia đình Đại công tước. Vì là con trai trưởng, nên Leopold tiếp nhận tước vị Bá tước xứ Hochberg, khi trưởng thành, ông đã tìm kiếm cơ hội bằng cách trở thành sĩ quan trong quân đội Pháp.

Đến năm 1817, các hậu duệ với người vợ đầu của Karl Friedrich đã chết gần hết, chỉ còn lại 2 người, gồm có đương kim Đại công tước Karl I, cháu trai của Karl Friedrich và người chú không có con của ông, Công tử Ludwig. Cả hai người con trai của Karl I đã qua đời từ lúc bé và ông không có người kế vị nào. Hoàng gia Baden rơi vào khủng hoảng nghiêm trọng vì sẽ phải đối mặt với hiểm hoạ diệt vong trong tương lai gần. Từ lúc này, mọi chú ý được đổ dồn vào các hậu duệ của cuộc hôn nhân thứ 2 của Karl Friedrich, trong đó Leopold là ưu tiên số một trong danh sách kế vị.

Những người bên ngoài triều đình Baden không hề hay biết, vào ngày 24 tháng 11 năm 1787 đám cưới của Phiên hầu tước Karl Frederick khi đó với Luise Karoline Geyer von Geyersberg, ông và ba người con trai của cuộc hôn nhân đầu tiên đã ký một tuyên bố bảo lưu quyền quyết định về tước vị và bất kỳ sự kế vị nào của những người con trai được sinh ra trong cuộc hôn nhân thứ 2 này. Mặc dù các con của Luise Karoline ban đầu không được pháp luật công nhận, những vào ngày 20 tháng 2 năm 1796, Karl Frederick đã làm rõ bằng văn bản (sau đó được các con trai của ông đồng ký) rằng các con trai của cuộc hôn nhân thứ 2 đủ điều kiện để kế vị ngai vàng theo thứ tự nam quyền, xếp sau những người con trai của cuộc hôn nhân đầu tiên. Leopold qua đời ở Karlsruhe vào 24 tháng 4 năm 1852.

Hôn nhân và hậu duệ

thumb|Đại công tước Leopold cùng vợ và các con

Vào ngày 25 tháng 7 năm 1819, Leopold kết hôn với người cháu gái, con của người anh cùng cha khác mẹ với mình là Sofia Wilhelmina của Thụy Điển (21 tháng 5 năm 1801 - 6 tháng 7 năm 1865). Sofia và Leopold có những người con sau:

Đại công nữ Alexandrine xứ Baden (6 tháng 12 năm 1820 - 20 tháng 12 năm 1904) cô kết hôn với Ernst II xứ Sachsen-Coburg và Gotha vào ngày 13 tháng 5 năm 1842. Họ không có con.

Hoàng tử Louis xứ Baden (1822–1822).

Ludwig II, Đại công tước xứ Baden (15 tháng 8 năm 1824 - 22 tháng 1 năm 1858). Ludwig bị bệnh tâm thần và kết quả là em trai của ông là Công tử Friedrich làm Nhiếp chính.

Frederick I, Đại Công tước xứ Baden (9 tháng 9 năm 1826 - 28 tháng 9 năm 1907) ông kết hôn với Luise của Phổ vào ngày 20 tháng 9 năm 1856. Họ có ba người con: Friedrich II, Đại công tước xứ Baden (9 tháng 7 năm 1857 - 9 tháng 8 năm 1928); Đại công nữ Victoria xứ Baden, sau này là Vương hậu của Thụy Điển (7 tháng 8 năm 1862 - 4 tháng 4 năm 1930); và Hoàng tử Ludwig xứ Baden (12 tháng 6 năm 1865 - 23 tháng 2 năm 1888).

Đại Công tử Wilhelm xứ Baden (18 tháng 12 năm 1829 - 27 tháng 4 năm 1897) ông kết hôn với Mariya Maksimilianovna của Leuchtenberg vào ngày 11 tháng 2 năm 1863. Họ có hai con: Đại Công tôn nữ Marie xứ Baden, Nữ công tước Anhalt (26 tháng 7 năm 1865 - 29 tháng 11 năm 1939) và Maximilian xứ Baden (1867–1929), Thủ tướng Đức, và sau này là người thừa kế của Đại công quốc.

Đại công tử Charles (Karl) xứ Baden (9 tháng 3 năm 1832 - 3 tháng 12 năm 1906), ông kết hôn với Nam tước Rosalie von Beust (được tạo ra là Nữ bá tước von Rhena) vào ngày 17 tháng 5 năm 1871. Họ có một con trai, Bá tước Frederick von Rhena (1877–1908).

Đại công nữ Marie xứ Baden (20 tháng 11 năm 1834 - 21 tháng 11 năm 1899) kết hôn với Ernst Leopold, Thân vương thứ 4 xứ Leiningen vào ngày 11 tháng 9 năm 1858. Họ có hai người con: Thân vương nữ Alberta xứ Leiningen (23 tháng 7 năm 1863 - 30 tháng 8 năm 1901); và Emich, Thân vương thứ 5 xứ Leiningen (18 tháng 1 năm 1866 - 18 tháng 7 năm 1939).

Đại công nữ Cecilie xứ Baden (20 tháng 9 năm 1839 - 12 tháng 4 năm 1891) cô kết hôn với Đại công tước Michael Nicolaievich của Nga vào ngày 28 tháng 8 năm 1857. Họ có bảy người con.

Tước hiệu

Tước hiệu và cấp bậc của Leopold và những người con khác của Đại công tước Karl Frederick với người vợ thứ hai, Luise Karoline Geyer von Geyersberg ban đầu không rõ ràng như được quy định trong hợp đồng hôn nhân của cha mẹ ông (được đồng ký bởi những người anh em cùng cha khác mẹ theo lệnh của cha), các cô con gái ít nhất cũng mang tước hiệu Nữ Nam tước của mẹ họ (được quy cho là không chính xác), trong khi chỉ có tước hiệu Reichsgraf von Hochberg một cách hợp pháp từ năm 1796 khi bà được Hoàng đế La Mã Thần thánh phong tước hiệu đó. Leopold và các anh chị em ruột của ông không được chính thức phong tước hiệu Markgraf cho đến năm 1817 khi họ được hoàng gia Baden công khai.

  • 1830: Đại thập tự của Huân chương Thánh Stephen
  • ngày 31 tháng 8 năm 1843: Grand Cordon của Huân chương Leopold

Phả hệ

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Leopold** (tiếng Đức: _Karl Leopold I. Friedrich von Baden_; 29 tháng 8 năm 1790 - 24 tháng 4 năm 1852) là Đại công tước đời thứ 4 của xứ Baden, ông trị vì từ năm
**Ludwig I** (9 tháng 2 năm 1763 – 30 tháng 3 năm 1830) trở thành Đại công tước Baden vào ngày 8 tháng 12 năm 1818, sau cái chết của người cháu là Đại công
Frederick I (tiếng Đức: _Friedrich Wilhelm Ludwig_; 9 tháng 9 năm 1826 – 28 tháng 9 năm 1907) là Đại công tước thứ 7 và áp chót của Đại công quốc Baden, tại vị từ
**Marie Amelie xứ Baden** (tiếng Đức: _Marie Amelie von Baden_; tiếng Hà Lan: _Maria Amalia van Baden_; tiếng Anh: _Mary Amelia of Baden_; tên đầy đủ: _Marie Amelie Elisabeth Karoline_; 11 tháng 10 năm 1817
**Friederike xứ Baden** (tên đầy đủ: _Friederike Dorothea Wilhelmine_; 12 tháng 3 năm 1781 – 25 tháng 9 năm 1826) là Vương hậu Thụy Điển từ năm 1797 đến 1809 với tư cách là phối
**Alexandrine xứ Baden** (tiếng Đức: _Alexandrine Luise Amalie Friederike Elisabeth Sophie_; 6 tháng 12 năm 1820 – 20 tháng 12 năm 1904) là Công tước phu nhân xứ Sachsen-Coburg và Gotha từ ngày 29 tháng
**Karl Friedrich xứ Baden** (; 22 tháng 11 năm 1728 - 10 tháng 6 năm 1811), là một nhà cai trị thế tục của Đế chế La Mã Thần thánh, từ năm 1771 đến 1803,
**Josephine xứ Baden** (tiếng Đức: _Josephine von Baden_; tiếng Pháp: _Joséphine de Bade_; tiếng Hà Lan: _Josefine van Baden_; tiếng Anh: _Josephine of Baden_; tên đầy đủ: _Josephine Friederike Luise_; 21 tháng 10 năm 1813
**Luise xứ Baden** (tiếng Đức: _Luise von Baden_; tiếng Nga: _Луиза Баденская_; tiếng Anh: _Louise of Baden_; tên đầy đủ: _Luise Marie Auguste_; 24 tháng 1, năm 1779 – 16 tháng 5, năm 1826) còn
**Amalie xứ Baden** (tiếng Đức: _Amalie von Baden_; tiếng Hà Lan: _Amalia van Baden_; tiếng Anh: _Amalie of Baden_; tên đầy đủ: Amalie Christine Karoline; 26 tháng 1 năm 1795 – 14 tháng 9 năm
**Ernst I xứ Sachsen-Coburg và Gotha** (tiếng Đức: _Ernst I. von Sachsen-Coburg und Gotha_; tiếng Tây Ban Nha: _Ernesto I de Sajonia-Coburgo y Gotha_; tiếng Anh: _Ernest I of Saxe-Coburg and Gotha_; tên đầy đủ:
**Viktoria của Baden** (; tên đầy đủ: _Sophie Marie Viktoria_; 7 tháng 8 năm 1862 – 4 tháng 4 năm 1930) là Vương hậu Thụy Điển từ ngày 8 tháng 12 năm 1907 cho đến
**Ludwig Wilhelm August von Baden** (18 tháng 12 năm 1829. Wilhelm được nhận nền giáo dục chính thức của mình trong lực lượng quân đội Phổ. Từ năm 1856, Wilhelm phục vụ trong Trung đoàn
**Sofia Wilhelmina của Thụy Điển** (_Sofia Wilhelmina Katarina Maria Lovisa Charlotta Anna_; 21 tháng 5 năm 1801 – 6 tháng 7 năm 1865), là một vương nữ Thụy Điển thuộc Vương tộc Holstein-Gottorp, con gái
Baden là một trong số những Lãnh địa Đế chế (Tiếng Đức: _Reichsstand)_ và sau là một trong những nhà nước Đức giáp biên giới với Pháp, với phần lãnh thổ nằm dọc theo bờ
**Maximilian I Joseph** (; 27 tháng 5 năm 1756 tại Schwetzingen, gần Mannheim – 13 tháng 10 năm 1825 tại München) là Công tước xứ Zweibrücken từ năm 1795, trở thành Tuyển hầu xứ Bayern
**Ernst II xứ Sachsen-Coburg và Gotha** (tiếng Đức: _Ernst II. von Sachsen-Coburg und Gotha_; tiếng Tây Ban Nha: _Ernesto II of Sajona-Coburgo y Gotha_; tiếng Anh: _Ernest II of Saxe-Coburg and Gotha_; tên đầy đủ:
**Leopold của Liên hiệp Anh, Công tước xứ Albany** (_Leopold George Duncan Albert_; 7 tháng 4 năm 1853 - 28 tháng 3 năm 1884) là con thứ tám và là con trai út của Victoria
Đại tướng **John Churchill, Công tước thứ 1 xứ Marlborough, Thân vương thứ 1 xứ Mindelheim, Bá tước thứ 1 xứ Nellenburg, Thân vương của Đế quốc La Mã Thần thánh**, KG PC (26 tháng
**Maximilian II** (11 tháng 7 năm 1662 - 26 tháng 2 năm 1726), còn được gọi là **Max Emanuel** hoặc **Maximilian Emanuel**, là nhà cai trị của Công quốc Bayern, thuộc Nhà Wittelsbach, và là
**Friedrich xứ Hohenzollern-Sigmaringen** hay **Friedrich xứ Hohenzollern** (tiếng Đức: _Friedrich von Hohenzollern-Sigmaringen_; tiếng Pháp: _Frédéric de Hohenzollern-Sigmaringen_; tiếng Anh: _Frederick of Hohenzollern-Sigmaringen_; tên đầy đủ: _Friedrich Eugen Johann_; 25 tháng 6 năm 1843 tại Lâu
**Carol I của România** (Tiếng Anh: Charles I, 20 tháng 4 năm 1839 - 10 tháng 10 năm 1914), là vị quân chủ thứ 2 của România từ năm 1866 đến khi qua đời vào
**Vương tử Philippe của Bỉ, Bá tước xứ Flandre** (24 tháng 3 năm 1837 - 17 tháng 11 năm 1905) là con trai của Vua Léopold I của Bỉ và người vợ thứ hai là
**Friedrich August I của Sachsen** (tiếng Đức: Friedrich August I. von Sachsen; tiếng Ba Lan: Fryderyk August I; 23/12/1750 - 5/5/1827) là thành viên của Nhà Wettin, người cai trị Tuyển đế hầu quốc Sachsen
**Maximilian Joseph xứ Bayern** (gọi đúng hơn là **Maximilian Joseph tại Bayern**; tiếng Đức: _Maximilian Joseph in Bayern_; 4 tháng 12 năm 1808 – 15 tháng 11 năm 1888), thường gọi là **Max tại Bayern**,
**Chiến tranh Kế vị Tây Ban Nha** (1701–1714) là một cuộc xung đột chính trị quân sự ở châu Âu đầu thế kỉ XVIII, được kích nổ bởi cái chết của vị vua cuối cùng
**Phổ** (tiếng Đức: Preußen; tiếng Latinh: _Borussia_, _Prutenia_; tiếng Anh: Prussia; tiếng Litva: _Prūsija_; tiếng Ba Lan: _Prusy_; tiếng Phổ cổ: _Prūsa_) là một quốc gia trong lịch sử cận đại phát sinh từ Brandenburg,
**Eugène de Savoie-Carignan** (18 tháng 10 năm 1663 – 21 tháng 4 năm 1736), hay **François Eugène de Savoie**, thường được biết đến với biệt danh **Hoàng thân Eugène** (, , ), là một lãnh
Từ thời kỳ cổ đại, **Đức** (lúc đó được người La Mã gọi là vùng đất Germania) đã có các bộ lạc người German (tổ tiên trực tiếp của người Đức) chính thức cư ngụ
thumb|Bản đồ đế quốc La Mã Thần Thánh dưới triều Hoàng đế [[Karl IV của Thánh chế La Mã|Karl IV]] **Đế quốc La Mã Thần Thánh** (tiếng Latinh: _Sacrum Romanum Imperium_; tiếng Đức: _Heiliges Römisches
**Franz II** (tiếng Anh: Francis II; 12 tháng 2 năm 1768 – 2 tháng 3 năm 1835) là Hoàng đế cuối cùng của Đế quốc La Mã Thần thánh (1792 – 1806) với đế hiệu
**Innsbruck** (, /ˈɪnʃprʊk/) là thủ phủ của bang Tirol miền tây nước Áo và là thành phố lớn thứ năm ở Áo. Thành phố này nằm ở vùng sông Inn giao với thung lũng Wipptal
thumb|Nguyên bản của [[Quốc kì Đức: Cổ vũ cho cuộc cách mạng ở Berlin, ngày 19 tháng 3, 1848]] **Cách mạng 1848 – 1849** tại các bang nói tiếng Đức, giai đoạn mở đầu còn
**Công quốc Áo** () là một công quốc thời Trung cổ của Đế chế La Mã Thần thánh, được thành lập vào năm 1156 bởi _Privilegium Minus_, khi Phiên hầu quốc Áo (Ostarrîchi) tách khỏi
**Chiến tranh Đại liên minh** (1688-1697) - thường được gọi là **chiến tranh chín năm**, cuộc **chiến tranh Kế vị Palatine**, hoặc **chiến tranh của Liên minh Augsburg** - là một cuộc chiến lớn cuối
**Gustav IV Adolf** hoặc _Gustav IV Adolph_ (1 tháng 11 năm 1778 – 7 tháng 2 năm 1837) là Quốc vương Thụy Điển trị vị từ năm 1792 cho đến khi bị lật đổ vào
**Alix của Hessen và Rhein** (tiếng Đức: _Alix von Hessen und bei Rhein_; tiếng Anh: _Alix of Hesse and by Rhine_; 6 tháng 6 năm 1872 – 17 tháng 7 năm 1918), còn được gọi
thumb|[[Carlo Ferdinando của Hai Sicilie|Carlo Ferdinando của Hai Siclie, Thân vương xứ Capua (trên cùng), cùng với người vợ quý tiện kết hôn của mình Anh-Ailen Penelope Smyth (trái), và con gái của họ, Vittoria
**Áo**, quốc hiệu là **Cộng hòa Áo**, là một quốc gia không giáp biển nằm tại Trung Âu. Quốc gia này tiếp giáp với Cộng hòa Séc và Đức về phía bắc, Hungary và Slovakia
**Jan III Sobieski** (17 tháng 8 năm 1629 - 17 tháng 6 năm 1696) là một trong những vị vua nổi tiếng nhất của Vương quốc Ba Lan và Đại Công quốc Litva, là vua
**Friedrich II** (24 tháng 1 năm 171217 tháng 8 năm 1786) là vua nước Phổ trị vì từ ngày 31 tháng 5 năm 1740 cho đến khi qua đời vào ngày 17 tháng 8 năm
**Hoàng hậu** (chữ Hán: 皇后; Kana: こうごうKōgō; Hangul: 황후Hwang Hu; tiếng Anh: Empress consort) là danh hiệu dành cho chính thê của Hoàng đế, bởi Hoàng đế sách lập. Danh hiệu này tồn tại trong
**Friedrich III của Đức** ( _Prinz von Preußen_; 18 tháng 10 năm 1831 – 15 tháng 6 năm 1888) là Hoàng đế Đức và là Vua của Phổ trong khoảng ba tháng (99 ngày) từ
**Chiến tranh Pháp – Phổ** (19 tháng 7 năm 1870 – 28 tháng 1 năm 1871), thời hậu chiến còn gọi là **chiến tranh Pháp – Đức** (do sự kiện thống nhất nước Đức ở
**Đại chiến Thổ Nhĩ Kỳ** (Tiếng Đức: _Großer Türkenkrieg_), còn được gọi là **Chiến tranh Liên đoàn Thần thánh** (Tiếng Thổ Nhĩ Kỳ: _Kutsal İttifak Savaşları_), là một loạt các cuộc xung đột giữa Đế
**Ingrid Victoria Sofia Louise Margareta** của Thụy Điển (ngày 28 tháng 03 năm 1910 - ngày 07 tháng 11 năm 2000) là Vương hậu của Đan Mạch, vợ của vua Frederik IX của Đan Mạch.
**Klemens Wenzel Lothar von Metternich** (15 tháng 5 năm 1773 – 11 tháng 6 năm 1859), được gọi ngắn gọn là **Klemens von Metternich** hoặc **Vương công Metternich**, là một chính khách và nhà ngoại
**Charlotte của Phổ** (tiếng Đức: _Victoria Elisabeth Augusta Charlotte von Preußen_; 24 tháng 7 năm 1860 – 1 tháng 10 năm 1919) là Công tước phu nhân xứ Sachsen-Meiningen từ năm 1914 cho đến năm
**Gia tộc Battenberg** (; ) là một nhánh của Nhà Hessen-Darmstadt, cai trị Đại Công quốc Hessen cho đến năm 1918. Thành viên đầu tiên là Julia Hauke, người có anh rể là Đại Công
nhỏ|phải|alt=Political map of central Europe showing the 26 areas that became part of the united German Empire in 1891. Germany based in the northeast, dominates in size, occupying about 40% of the new empire.|Bản đồ