✨Lịch sử Đức

Lịch sử Đức

Từ thời kỳ cổ đại, Đức (lúc đó được người La Mã gọi là vùng đất Germania) đã có các bộ lạc người German (tổ tiên trực tiếp của người Đức) chính thức cư ngụ ở tại đó. Quân dân German hết mực là can trường, mãnh liệt, chân chất, yêu nước và dưới sự lãnh đạo tài ba của tù trưởng Arminius, họ tiêu diệt hoàn toàn ba binh đoàn Lê dương La Mã vào năm 9, làm vỡ mộng xâm lược của Đế quốc La Mã. Dần dần, các bộ tộc Giéc-man xâm nhập La Mã, dẫn đến sự sụp đổ của Đế quốc Tây La Mã vào năm 476. Vua Frank là Chlodwig I nhất thống các bộ lạc German và chuyển sang Ki-tô giáo. Đời vua Karl Đại Đế, nước Frank khuếch trương mở cõi, và vào năm 800 ông được tấn phong Hoàng đế, tái lập Đế quốc Tây La Mã. Đế quốc bị chia cắt sau khi Karl Đại Đế mất, trong đó vua Ludwig Đức nhận phần đất phía Đông và khởi lập nước Đức Trung Cổ. Quận công Heinrich xứ Sachsen xưng làm vua Heinrich I, lập triều Sachsen vào năm 919 nước Đức khuếch trương mở mang cương thổ. Đế quốc La Mã Thần thánh phục hồi khi vua Đức là Otto I xưng đế. Các Vương hầu trong Đế quốc chia cắt nước Đức và chẳng vua nào thống nhất được đất nước. Từ giữ thế kỷ 15, các Hoàng đế thường là người Áo nhà Habsburg. Vào thời kỳ cận đại, để chống lại ách thống trị của Hoàng đế và Giáo hội Công giáo La Mã, giáo sĩ Martin Luther tiến hành công cuộc cải cách Kháng Cách vĩ đại, do đó Triều đình Karl V loại bỏ đức tin của ông ra khỏi vòng pháp luật. Cuộc Chiến tranh Nông dân nổ ra để hưởng ứng Luther, nhưng bị Hoàng đế đàn áp. Cuộc Chiến tranh Ba Mươi Năm (1618 - 1648) bùng nổ giữa hai phe Kháng Cách và Công giáo, trong đó có khi vua Thụy Điển là Gustav II Adolf kéo binh vào đánh bại quân của Hoàng đế. Hòa ước Westfalen làm tiêu tan giấc mộng thống nhất nước Đức thành một quốc gia quân chủ chuyên quyền của Hoàng đế, giấc mộng thống nhất đất nước thêm xa vời. Ngay từ năm 1525, Quận công xứ Phổ là Albrecht theo Kháng Cách, sau Phổ hợp nhất với Brandenburg. Sau chiến tranh, dù lãnh địa bị tàn phá nặng nề nhưng Tuyển hầu tước Vĩ đại Friedrich Wilhelm I đã gầy dựng quân đội Phổ - Brandenburg tinh nhuệ, bách chiến bách thắng, dùng chính sách ngoại giao liên minh với triều Habsburg chống ngoại bang là nước Pháp.

Với các vua Friedrich I và Friedrich Wilhelm I, Vương quốc Phổ ra đời và mạnh lên hẳn. Sau khi lên ngôi vào năm 1740, ông vua thiên tài Friedrich II Đại Đế tiến hành bảo trợ nền văn nghệ rực rỡ tại kinh kỳ Bá Linh; ngoài ra, ông lập tức điều binh đánh chiếm tỉnh Silesia của triều Habsburg, tiếp theo đó đại thắng liên quân Áo - Sachsen trong cuộc Chiến tranh Silesia lần thứ hai, và rồi đó đánh tan tác liên quân Áo - Nga - Pháp - Thụy Điển và phần lớn các Vương hầu của Đế quốc La Mã Thần thánh trong cuộc Chiến tranh Bảy Năm. Chiến thắng vẻ vang của người Phổ trong những cuộc chiến này đã đưa nền văn hóa dân tộc Đức trở nên phát triển vinh quang. Với những danh sĩ như J. W. Von Goethe, F. G. Klopstock nền văn chương Đức nở rộ độc lập khỏi sự bá đạo về văn hóa của Pháp. Vào năm 1804, Hoàng đế Franz II xưng đế nước Áo, hai năm sau từ bỏ ngôi Hoàng đế La Mã Thần thánh trong cuộc xâm lược của quân Pháp do Napoléon Bonaparte chỉ huy. Quân xâm lược cũng đánh bại quân Phổ vào năm 1806. Tuy nhiên, trong các năm 1813 - 1815 người Phổ đã chặn đứng và đại phá tan tành đại quân của Napoléon, dẫn đến sự sụp đổ hoàn toàn của chế độ Napoléon và giải phóng nước Đức. Trong khi nước Phổ trở nên hùng mạnh, chiến thắng vang dội này làm gia tăng tinh thần dân tộc chủ nghĩa và tự do chủ nghĩa với khát vọng một nước Đức thống nhất nước Đức. Một cuộc Cách mạng dân tộc - tự do của nhân dân Đức bùng nổ vào năm 1848, bị nhóm thống trị bảo thủ và phản động đàn áp.

Dù sao đây nữa thì Triều đình Phổ cũng phải ban hành bản Hiến pháp năm 1850, theo đó nước Phổ vẫn theo chế độ quân chủ chuyên chế quân sự như dưới triều vị đại anh quân Friedrich II Đại Đế, song có cải tiến hơn, với công cuộc công nghiệp hóa nhanh chóng. Nhà quý tộc Otto von Bismarck lên làm Thủ tướng Phổ vào năm 1862, và đã tiến hành một cuộc Cách mạng làm nên thay đổi hết sức lớn lao trong lịch sử Âu châu, mà kết thúc với thắng lợi vang dội về chính trị và ngoại giao: nước Phổ đánh thắng Đan Mạch vào năm 1864, đánh thắng Áo vào năm 1866 và đè bẹp Pháp trong các năm 1870 - 1871. Đây là một đòn giáng sấm sét vào Pháp, mở mang đất nước Đức. Cho đến năm 1914, nước Đức là siêu cường kinh tế của cả thế giới. Nhân dân Đức trở nên kỷ cương và tài năng hơn hẳn dân Pháp và các nước khác. Trong các ngành khoa học - kỹ nghệ, Đế chế Đức dẫn đầu thế giới, với hàng hóa chất lượng siêu việt, trong khi lực lượng Quân đội và Hải quân thật hùng hậu. Trong cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914 - 1918), tuy thật ít đồng minh nhưng nước Đức vẫn kháng cự được trong suốt bốn chống lại quân Đồng Minh bao gồm Anh - Pháp - Ý - Nga - Hoa Kỳ - Bỉ và hầu hết cả thế giới.. Nước Đức thất thế, vào tháng 3 năm 1918, dần đến một cao trào Cách mạng khắp cả nước lật đổ vị Hoàng đế Wilhelm II, khiến nước Đức lần đầu tiên có nền cộng hòa và dân chủ lãnh đạo: nước Cộng hòa Weimar ra đời vào năm 1919. Nền kinh tế đất nước được hồi phục, nền văn nghệ trở nên hưng thịnh và nhiều ngành công nghiệp trỗi dậy mạnh mẽ. Nhưng rồi cuộc Đại Khủng hoảng kinh tế thế giới vào năm 1929 đã gây nhiều hậu quả cho đất nước, thể hiện sự yếu kém của Chính phủ dân chủ Weimar. Vào năm 1933, sau khi Tổng thống cuối cùng của Cộng hòa Weimar mất, lãnh tụ Đảng Quốc xã là Adolf Hitler lên nắm quyền bính, thành lập lực lượng SS để thanh trừng các phe cánh đối lập. Không những thế nước Đức Quốc xã còn làm nên một thành tựu quan trọng là nhanh chóng khôi phục nền kinh tế nước nhà. Hitler cho quân tấn công Ba Lan vào năm 1939, làm Anh Quốc và Pháp tuyên chiến với nước Đức và mở đầu cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ hai. Sau chiến thắng ban đầu của mình, vị lãnh tụ dễ dàng chiếm lĩnh hàng loạt quốc gia châu Âu, trong đó có Pháp và Bỉ. Quân Anh cũng đại bại tại châu Phi, nhưng quân Đức không diệt nổi Liên bang Xô viết và quân Mỹ nhảy vào tham chiến. Cho đến năm 1945, đất nước bại trận. Chia Đức thành 4 khu chiếm đóng với 2 ý thức hệ của quân Đồng Minh, và bọn họ thực hiện chính sách Phi Quốc xã hóa (de-Nazification), đồng thời Hoa Kỳ viện trợ cho Đức hồi phục kinh tế. Nước Đức được độc lập vào năm 1949, và cuộc Chiến tranh Lạnh dẫn đến việc hình thành Nhà nước Cộng hòa Liên bang Đức theo chế độ dân chủ và Cộng hòa Dân chủ Đức theo chủ nghĩa cộng sản. Nhiều người Đức tỵ nạn khỏi phía Đông được Cộng hòa Liên bang Đức hỗ trợ, đồng thời Nhà nước này cũng tiến hành khôi phục kinh tế đến mức thần kỳ, đưa đất nước trở thành một trong những nền kinh tế công nghiệp hàng đầu thế giới. Nhờ có Thủ tướng Konrad Adenauer, nước Cộng hòa Liên bang Đức đạt thành tựu ngoại giao vang dội, nhờ đó tích cực tham gia chính trường Âu châu.. Thủ tướng Helmut Kohl cũng tiếp tục đưa đất nước trở nên gắn bó với các quốc gia châu Âu khác, và đạt thành tựu to lớn là thỏa thuận tái thống nhất đất nước: nhờ đó vào năm 1990 dưới sự lãnh đạo của Kohl, Đức được thống nhất chỉnh chu cả giang sơn như xưa và trở thành đại cường quốc trên toàn thế giới.

Các bộ lạc người German cổ đại

nhỏ|phải|Nhà tắm nước nóng của người La Mã tại Trier

Không rõ lịch sử nước Đức chính xác bắt đầu từ năm nào nhưng dân tộc họ có 1 nền lịch sử, văn hóa lớn dài mà cực kỳ rực rỡ và hào hùng. Dân tộc Đức ngày nay có cội nguồn từ người German thuộc chủng người Arya - một dân tộc thuộc khu vực miền Nam châu Á vào thời cổ đại. Chúng ta không rõ rằng dòng giống Aryan này định cư cụ thể trên các miền đất nào, chỉ biết rằng trong đợt di dân cuối cùng tràn đến Đông Âu và Nga hàng ngàn năm trước khi Chúa Giêsu của tộc Do Thái ra đời. Trước khi người Aryan đến an cư lạc nghiệp, dòng sông Rhine đã chảy xiết, dãy Anpơ đã trang hoàng bầu trời bằng những đỉnh đồi hùng vĩ của nó. Các dòng sông Rhone và Donau đã cuồn cuộn đổ ra biển. Và, phong cảnh đẹp đẽ ấy không dễ mà đón chào người Aryan giàu có từ Á châu, mà hẳn là họ phải di cư gian khổ lắm. Có lẽ dòng giống táo tợn này đã gây những cuộc xung đột kinh hoàng bạt vía tại châu Âu, tạo điều kiện cho họ đạt chân đến vùng đất ngày nay là Đức. Vào thế kỷ thứ ba trước Công Nguyên, ba nhánh lớn của tộc Aryan chiếm lĩnh châu Âu phía Bắc nền văn minh Hy Lạp cổ đại và bán đảo Ý: trong đó có người German. Trường hợp của người Teuton thì có khác: họ không định cư tại một miền đất nào đã hoàn toàn được cha ông họ xác lập từ xưa. Hai nền văn minh Hy - La cổ đại chưa hề biết gì về người Teuton, cho tới khi nhà hàng hải Hy Lạp là Pythias đi qua vào năm 330 trước Công Nguyên, đã nghe được những câu chuyện kinh hoàng về các chiến binh người Goth. Người Goth cũng là một dân tộc thiện chiến German, họ xâm nhập theo đường biển tràn vào Bắc Ý, cướp phá dữ dội. Họ có mắt xanh, dữ tợn, tóc vàng hoe và dài, gây cho người Âu kinh sợ. Đến cả thành La Mã dần cũng biết về người Goth man rợ, nhất là những nữ tu áo trắng và thường tiên đoán, hiến tế chư thần của họ. Song, người German vẫn không thể chống nổi các binh đoàn Lê dương La Mã của quan Tổng tài Gaius Marius. Vào năm 102 trước Công Nguyên, quân dân German kiên cường nhưng bại trận, quân La Mã đánh chiếm đồi núi gần Aix. Phần lớn dân German tự sát để bảo toàn khí tiết, phần còn lại bị quân La Mã giải về thủ đô trong ngày khải hoàn. Ấy là lần đầu tiên người German hiện diện trước cổng thành La Mã nguy nga.

Dù sao chăng nữa thì người Teuton và đồng minh là người Cimbri và người Ambronen trở thành một mối đe dọa ghê gớm của người La Mã, đến mức chính cái tên Teuton của họ được người La Mã dùng để chỉ hiểm họa từ dân man rợ ở phương Bắc. Sau này, bất kỳ một đội quân German nào đánh phá La Mã cũng được gọi là bọn Teuton, và chính từ đó "người Teuton" được coi là mọi dân tộc German thời cổ đại, và người Đức ngày nay. Và, trong hai khái niệm người Germanngười Đức, khái niệm người Đức ra đời trễ hơn rất nhiều, khi ấy nhân dân Đức bắt đầu trỗi dậy ý thức dân tộc của riêng mình. Quân dân German hợp lực đánh tan nát quân địch, tiêu diệt hoàn toàn cả ba binh đoàn Lê dương La Mã của Varus. Varus cùng nhiều binh tướng khác phải tự tử vì sợ rơi vào tay quân German, và chỉ duy nhất một số ít chiến binh La Mã chạy thoát khỏi trận kịch chiến. Những binh lính La Mã còn lại cũng bị các chiến binh German thiêu sống, chôn sống hoặc là dùng làm vật cúng tế bách thần. Arminius trở thành vị anh hùng dân tộc của nước Đức, là vị dũng tướng giải phóng dân tộc, kiên cường chống chọi với Đế quốc La Mã khổng lồ. Các bộ lạc người German đều tôn vinh ông, và chiến thắng vẻ vang của ông là một trong những trận thắng quyết định nhất trong quân sử phương Tây. Chiến thắng huy hoàng này cũng được xem là mốc khởi đầu cho nền lịch sử dân tộc Đức: nền văn hóa Đức phát triển riêng rẽ bên ngoài Đế quốc La Mã bại trận. Song, La Mã cũng có thể coi là một điểm khởi phát của nước Đức: ngay cả Arminius trước khi đại thắng trận chiến rừng Teutoburg cũng có thời cư ngụ tại La Mã, và từng là một chiến binh của La Mã. Chính giai đoạn làm lính La Mã và chứng kiến sự thịnh vượng của thị dân La Mã đã khiến cho ông luôn luôn mong ước nhất thống dân tộc Đức trong sự vững mạnh giống như Đế chế La Mã phía bên kia, song những xung đột nội bộ giữa các thị tộc German sẽ còn tiếp diễn lâu dài 1 cách phức tạp sau này gây cản trở đà phát triển của dân tộc.

Người German cổ theo Đa Thần giáo, tôn thờ các vị thần của người Aryan xưa. Họ trọng đạo, dũng cảm, trung thành, hiếu khách, song không có văn minh, chữ viết và văn nghệ. Trong suốt ba thế kỷ sau khi Arminius tận diệt quân xâm lược La Mã, xã hội Đức dần tiến triển, xuất hiện hai tầng lớp người tự dokhông tự do. Các bộ lạc phía Nam khác hẳn có bộ lạc phía Bắc: chỉ sống mai đây mai đó, không nơi ở. Ở phía Bắc (tổ tiên của người Angeln-Sachsen) thì các nhân vật các thế lực nhất trong bộ tộc nắm quyền bính, và cứ thế cha truyền con nối, còn tầng lớp không tự do phải chịu kiếp nô dịch phụng sự tầng lớp tự do, và không được đi lính. Nước Đức cổ không hề có thành thị, chỉ có các làng mạc, tại đây họ sống trong các túp lều thô sơ. Mỗi làng trao cho 100 người quyền hạn bầu chọn tù trưởng hoặc là vua. Trong những buổi tham kiến tại làng bản, tầng lớp tự do yết kiến vua và trao đổi các vấn đề dân sự với vua. Đến giữa thế kỷ thứ ba, các bộ tộc German nhỏ hợp nhất thành các liên minh hùng mạnh. Tỷ như người Alamannen, luôn chung sống cộng đồng với nhau trong một lãnh thổ ở miền Nam. Người Frank chiếm lĩnh các bờ sông Rhine và sông Saal. Người Sachsen mở đất khắp miền Bắc Đức, và người Goth, hai bên sông Dnieper, chia làm hai tộc người Đông Goth và Tây Goth. Vào năm 238, quân Goth tấn công thành phố Histria của La Mã ở cửa sông Danube. Vào năm 250, vua Kniva thân chinh vượt sông Danube xâm phạm lãnh thổ của La Mã. Họ nhanh chóng chiến thắng, rồi trong trận Abrittus vào năm 251 họ đại thắng và tiêu diệt được Hoàng đế Decius.

Tuy người Alemanni và người Schwaben thường đe doạ đến biên thùy của La Mã bên sông Rhine, mối hiểm nguy lớn nhất đối với La Mã là những cuộc di dân quy mô lớn của người German. Ngay sau đó, trong trận Thessalonica (380) họ đánh tan nát quân Đông La Mã do tân Hoàng đế Theodosius I, cuối cùng nền hòa bình được tái lập. Người La Mã bắt đầu cởi mở hơn cho sự di trú của các dân tộc man rợ German. Cuối cùng, trên đà suy yếu, Đế quốc Tây La Mã bị một thủ lĩnh quân đánh thuê German là Odoacer tiêu diệt vào năm 476.

Quá trình nước Đức thành hình

Những cuộc di trú của người German cho thấy diễn tiến của quá trình Teuton hóa châu Âu cổ.

Gần như không thể khẳng định một cách khách quan là người ta bắt đầu nói đến "nước Đức" (Deutschland) từ lúc nào. Không có thời điểm rõ ràng cho việc hình thành một quốc gia Đức độc lập, cả về chủng tộc, về ngôn ngữ lẫn về lãnh thổ. Nhiều nhóm dân và bộ tộc được gộp chung dưới khái niệm người German (người Giecman), những người đã định cư từ trước thời Thượng cổ trong vùng đất của nước Đức ngày nay.

Các bộ tộc người Indogerman hay con cháu của họ đã di dân đến đấy trong thời kỳ Đồ Đồng và Đồ Sắt và đã tự pha trộn với những người dân tại chỗ đã định cư ở đấy từ cuối thời kỳ Băng hà và sau đó là với những dân tộc hay người dân "đi ngang qua", thí dụ như:

  • Người Celt gốc Indogerman trong miền Nam nước Đức, những người đã có ảnh hưởng lớn đến văn hóa châu Âu trong nhiều vùng đất rộng lớn cho đến cuối thời Thượng Cổ.
  • Người La Mã trong vùng miền Nam và miền Tây nước Đức ngày nay, quân đội của họ đã chiếm đóng miền Nam và miền Tây của Germanien dọc theo sông Donau và Rhein cho đến khoảng thế kỷ thứ 5.
  • Người Slavơ phía đông sông Elbe trong lúc di dân về phía Đông từ thế kỷ 11 đến thế kỷ 14.
  • Những dân tộc khác trong thời di dân, thí dụ như người Sarmante (tiếng Anh: Sarmatian).

nhỏ|phải|Vương quốc Franken sau Hiệp ước Verdun Vùng đất Trung Âu lục địa giữa Đại Tây Dương, biển Baltic và phía Nam dãy núi Alpen chỉ được thống nhất vào thời kỳ của Vương quốc Frank (hay vương quốc Karoling) của vua Charlemagne, còn được gọi là Karl I Đại đế. Sau cái chết của Charlemagne, vương quốc này được chia làm ba trong Hiệp ước Verdun vào năm 843 cho 3 người cháu của ông. Nước Pháp hình thành sau này từ Vương quốc Frank Tây, hình thành từ Vương quốc Frank Đông là nước Đức ngày nay, trong khi "Vương quốc giữa", sau này là Bourgogne và Lorraine, bị chia sẻ giữa Pháp và Vương quốc Frank Đông trong thời Trung Cổ.

Vương quốc Frank Đông chưa phải là "Đức" nhưng ít nhất đã tạo thành một khuôn khổ về địa lý cho nước Đức sau này. Mãi đến giữa thời kỳ của dòng họ Otto, tên regnum teutonicum (tiếng La tinh cho "Vương quốc Đức") mới bắt đầu xuất hiện thường xuyên hơn. Người ta có thể xem thời gian từ khi Vương quốc Karoling tan rã cho đến giữa thời Trung cổ là giai đoạn tiếp chuyển của sự hình thành khái niệm "nước Đức". Việc xưng vua và đăng quang của Otto I Đại đế đánh dấu sự kết thúc đầu tiên cho gian đoạn này.

Từ thế kỷ 11, một cấu trúc quốc gia đã hình thành mà về mặt chính trị có thể xem là độc lập và từ đó đã hình thành cái mà ngày nay gọi là "nước Đức" (xem Đế quốc La Mã Thần thánh).

Thời Trung cổ

Thời gian đầu của Trung cổ: Vương quốc Karolinger tan rã

nhỏ|phải|Charlemagne giữa các giáo hoàng Gelasius I và Gregor I :Đọc bài chính về nước Đức trong thời gian đầu của Trung cổ Vương quốc Frank bắt đầu tan rã khi bị phân chia trong năm 843. Con trai của Charlemagne, Ludwig Ngoan đạo (Ludwig der Fromme), vẫn còn có thể gìn giữ được sự thống nhất của vương quốc. Ông chỉ định người con trai đầu là Lothar I (tiếng Pháp: Lothaire I) làm người nối ngôi. Lothar I nhận lãnh vương quốc ở giữa và danh hiệu hoàng đế, Karl Hói (Karl der Kahle, tiếng Pháp: Charles le Chauve) nhận phần phía tây và Ludwig Đức (Ludwig der Deutsche) phần phía đông. Sau khi các người con trai của Lothar I chết, vương quốc giữa được chia về cho Karl Hói và Ludwig Đức. Khi Ludwig chết năm 876 vương quốc Frank Đông cũng được chia cho 3 người con trai của ông là Karlmann, Ludwig Trẻ (Ludwig der Jüngere) và Karl Béo (Karl der Dicke). Năm 880 ranh giới với Vương quốc Frank Tây được xác định và từ đấy đã phân chia gần như không thay đổi Đế chế Đức với nước Pháp trong suốt cả thời Trung cổ. Vua Frank Đông, Karl Béo, đã có thể thống nhất Vương quốc Frank một thời gian ngắn sau khi anh em của ông và vua của Frank Tây chết, nhưng lại bị cháu của ông là Arnulf của Kärnten, con trai của Karlmann, đẩy lui trong năm 887 do quyền lực cai trị quá yếu ớt. Dòng dõi Karolinger (tiếng Anh: Carolingian) Đông chấm dứt khi Ludwig Con trẻ (Ludwig Trẻ con), con trai của Arnulf và là người cuối cùng của dòng họ, chết vào năm 911.

Triều đại Otto

nhỏ|phải|Otto I Đại đế chiến thắng vua [[Ý.]] Sau khi dòng họ Karolinger tuyệt hậu, nhằm để không gây nguy hại đến quyền lực riêng, các dux của các bộ tộc đã bầu một người trong số họ là dux của xứ Franconia là Konrad Trẻ (Konrad das Kind), người được cho là yếu đuối, lên làm vua của họ vào năm 911. Người được bầu kế vị ông là dux của xứ Saxonia Heinrich Người săn chim (Heinrich der Finkler) với hiệu Heinrich I, từ dòng họ Liudolfing, khởi đầu Vương triều Otto. Heinrich I đã bảo vệ vương quốc chống lại những cuộc tấn công của người Hung và người Slav. Bên cạnh di sản Frank, một tính cách Đức riêng biệt ngày càng nổi bật. Heinrich I chỉ định con trai của ông là Otto làm người kế vị. Vị vua này dựa vào Nhà thờ để bảo vệ quyền lực của ông (Hệ thống Giáo hội Đế chế hay Reichskirchensystem). Năm 955, Otto I chiến thắng người Hung trong Trận Lechfeld. Các xứ Bohemia (từ năm 950) và Ba Lan (từ năm 963) đã có thời gian là lãnh thổ phụ thuộc vào vương quyền La Mã - Đức. Otto I mở rộng vùng thống trị của ông với nhiều phần đất của nước Ý. Sau khi kết hôn với Adelaide của Burgundia ông tự xưng là Vua của người Langobard (rex Langobardorum). Năm 962, Otto I đăng quang ngôi vị Hoàng đế La Mã Thần thánh dưới sự chủ phong của Giáo hoàng Gioan XII. Ở Nam Ý ông sa vào tranh chấp với hoàng đế Byzantine. Con trai của ông, Otto II, cuối cùng kết hôn với Theophanu, cháu gái của hoàng đế Byzantine, thế nhưng Nam Ý vẫn thuộc về Đế quốc Byzantine. Năm 983 Otto II bị thất trận nặng nề trước người Ả Rập Hồi giáo. Các vùng đất phía đông sông Elbe bị mất đi cho đến gần 20 năm trong cuộc nổi dậy của người Slavơ. Con trai của Otto, Otto III, chết trước khi ông kịp thực hiện kế hoạch chuyển dời quyền lực về Roma. Vị vua Otto cuối cùng, Heinrich II, phải chống cự lại Ba Lan (vua Bolesław I) và Hungary (vua István I). Dưới thời của ông, hệ thống nhà thờ vương quốc tiếp tục được mở rộng.

Giữa thời Trung cổ: Các hoàng đế nhà Salier

nhỏ|phải|[[Heinrich IV của Thánh chế La Mã|Hoàng đế Heinrich IV]]

Năm 1024, các tuyển hầu Đức đã bầu Konrad II, thuộc nhà Salier, lên làm Hoàng đế. Ông thu phục được vương quốc Burgund trong năm 1032. Người kế thừa ông, Heinrich III, đã truất phế ba giáo hoàng kình địch lẫn nhau, đưa Giám mục Suitger, Bá tước xứ Morsleben và Hornburg, một người thuộc phe cải tổ, lên làm Giáo hoàng, và để cho Clêmentê II làm chủ phong lễ lên ngôi hoàng đế cho ông vào năm 1046. Dưới thời Hoàng đế Heinrich IV, cuộc tranh cãi về quyền bổ nhiệm các giám mục bùng nổ lớn vì những người muốn cải cách Giáo hội quy tội Hoàng đế buôn bán các chức vụ của Giáo hội. Heinrich IV tuyên bố truất phế Giáo hoàng Grêgôriô VII. Sau đấy Giáo hoàng lại tuyên bố phạt vạ tuyệt thông Hoàng đế Heinrich IV. Để hủy bỏ vạ tuyệt thông, Heinrich IV đã phải đích thân đến Canossa để xin giải vạ. Năm 1084, ông lại truất phế Giáo hoàng Grêgôriô VII và để cho Giáo hoàng Clêmentê III làm lễ đăng quang trở thành Hoàng đế tại Roma. Con của ông là Heinrich V cuối cùng lại liên kết với các dux chống lại và truất ngôi ông. Một cuộc chiến tranh kéo dài chỉ được tránh khỏi do người cha mất trong năm 1106. Cùng với Giáo ước Worms (Wormser Konkordat), Hoàng đế Heinrich V giảng hòa với Giáo hội trong năm 1122. Sau khi Heinrich V qua đời, các tuyển hầu đã bầu Lothar III của gia tộc Suplinburg lên làm vua. Việc nhà Welfen nhiều quyền lực ủng hộ Lothar chống lại Friedrich thuộc nhà Staufer đã gây ra cuộc tranh chấp quyền lực kéo dài trong suốt thế kỷ 12 giữa hai dòng họ Welfen và Staufer.

Triều đại Staufer

Sau khi Lothar qua đời năm 1138, Konrad III thuộc nhà Staufer kế vị ngôi Vua La Mã Đức, thu hồi lại quyền cai trị xứ Bavaria của con rể của Lothar là Công tước Heinrich Kiêu hãnh (Heinrich der Stolze). Friedrich I nối ngôi Konrad đã cố gắng giảng hòa bằng cách trao lại cho Heinrich Sư tử (Heinrich der Löwe) các xứ mà cha ông từng cai trị là Saxonia và Bavaria vào năm 1156. Trở thành lãnh chúa mới, Heinrich Sư tử đã khuất phục được người Slav ở Mecklenburg và Pommern.

nhỏ|trái|Hoàng đế Friedrich I Barbarossa và các con trai Friedrich đạt đến ngôi vị Hoàng đế nhờ vào Hiệp định Konstanz năm 1153. Ông chiến thắng các thành phố vùng Lombardia (Ý) đòi hỏi có nhiều quyền tự chủ hơn. Cùng với Giáo hoàng mới là Alexanđê III, cuộc tranh chấp giữa Hoàng đế và Giáo hoàng lại tái bắt đầu. Sau khi thất trận ở Legnano, Friedrich phải công nhận Alexanđê III là Giáo hoàng. Năm 1180 Friedrich thu lại các lãnh địa của Heindrich Sư tử vì Heindrich đã không ủng hộ chính sách nước Ý của ông. Bắt đầu từ 1187 Friedrich I dẫn đầu đoàn quân Thập tự chinh chống Hồi giáo. Ông chết ở Syria năm 1190. Con trai của Friedrich là Heinrich VI trở thành vua của Sicilia năm 1194 nhờ vào cuộc hôn nhân với công chúa Konstanze người Norman. Khi Heindrich VI qua đời năm 1197 cùng một lúc Philipp xứ Schwaben nhà Staufer là em của Heindrich VI và Otto IV nhà Welfen, con trai của Heindrich Sư tử, đều được bầu lên làm vua. Sau khi Philipp bị giết chết năm 1208, Otto IV lên ngôi vua. Thế nhưng vì những cuộc chinh chiến ở Ý của Otto, Giáo hoàng lại ủng hộ Friedrich II thuộc dòng họ Staufer, là con trai của Heinrich VI. Trận Bouvines đã mang lại thắng lợi cho Friedrich năm 1214. Friedrich cai trị vương quốc của mình từ Sicilia. Năm 1220 Friedrich đăng quang làm hoàng đế và sau đấy lại có cuộc tranh chấp quyền lực với Giáo hoàng Grêgôriô IX, người đã khai trừ hoàng đế năm 1227. Mặc dù vậy Friedrich vẫn đạt được việc giao trả Jerusalem trong Đất Thánh. Cuộc xung đột vẫn tiếp tục kéo dài khi Giáo hoàng Innôcentê IV kế vị. Innôcentê IV tuyên bố truất ngôi hoàng đế của Friedrich II năm 1245. Friedrich II qua đời năm 1250. Sau cái chết của ông, cuộc tranh chấp giữa Giáo hoàng và dòng họ Staufer vẫn tiếp diễn. Năm 1268, người cuối cùng của dòng họ Staufer, Konradin, đứa con trai mới 16 tuổi của Konrad IV, đã bị xử tử công khai tại Napoli trong cuộc chiến thừa kế Silicia chống lại Charles I xứ Anjou.

Cuối thời Trung cổ

Sau khi dòng họ Staufer không còn người nối dòng dõi, quyền lực của hoàng đế ngày càng suy sụp vào cuối thời Trung cổ. Do chỉ còn có ít tài sản, hoàng đế phải tìm cách mở rộng quyền lực. Chính vì thế mà các tuyển hầu thường lại chọn một ứng viên yếu đuối để tôn lên làm vua. Rudolf I đã chấm dứt thời kỳ này vào năm 1273. Ông đã mở đường cho dòng họ Habsburg trở thành một trong những triều đại có nhiều quyền lực nhất trong đế quốc, thế nhưng ông không đạt được chiếc vương miện hoàng đế. Cả hai người kế thừa, Adolf và Albrecht I đều có mâu thuẫn với các tuyển hầu. Năm 1308 Heinrich VII nhà Luxembourg được bầu lên làm vua. Ông thu tóm xứ Bohemia để mở rộng quyền lực của mình và được tôn làm Hoàng đế. Trong Hiệp định Namslau năm 1348, vua Kazimierz III của Ba Lan công nhận vùng đất Silesia thuộc về Bohemia và vì thế là thuộc về Đế quốc La Mã Thần thánh nhưng sau đấy lại cố gắng kiện cáo hiệp định này ở Giáo hoàng. Trong thế kỷ 14, dân số quá đông, mất mùa và thiên tai đã dẫn đến nạn đói. Chỉ trong khoảng thời gian 1349/1350 một phần ba dân số đã chết vì bệnh dịch hạch và phần lớn người Do Thái đã chạy trốn qua Ba Lan vì nạn bài trừ Do Thái.

Thời kỳ của Ludwig người Bayer và Karl IV

nhỏ|trái|Sắc Lệnh Vàng của Hoàng đế Karl IV. Sau khi Heinrich chết, Ludwig người Bayer thuộc dòng họ nhà Wittelsbach đã vượt qua được dòng họ Habsburg trong cuộc bầu cử vào năm 1314. Năm 1327 Ludwig dời về Ý và được tôn vinh thành hoàng đế tại kinh đô Roma trong năm kế tiếp theo đó. Trong cuộc đấu tranh chống lại Giáo hoàng, lần cuối cùng trong thời Trung cổ, các tuyển hầu trong Hội nghị tuyển hầu Rhense năm 1338 đã xác nhận rằng một vị vua do họ bầu lên không cần phải được Giáo hoàng xác nhận. Một phe đối lập do dòng họ Luxembourg đứng đầu chống lại chính sách quyền lực của Ludwig bắt đầu thành hình trong năm 1346. Karl IV người Luxembourg, với sự ủng hộ của Giáo hoàng, đã được những người cùng phe bầu thành vị vua đối lập. Cái chết của Ludwig trong năm 1347 đã ngăn chận một cuộc chiến tranh kéo dài. Karl IV di dời trọng điểm thống trị của ông về Böhmen. Ngoài những việc khác ông đã thu được vùng đất biên giới Brandenburg. Năm 1348 trường đại học tiếng Đức đầu tiên được thành lập tại Praha. Năm 1355 Karl được tôn vinh trở thành hoàng đế. Sắc lệnh Vàng của năm 1356 đã trở thành gần như là hiến pháp cho đến khi đế quốc La Mã thần thánh chấm dứt. Mục đích chính của sắc lệnh này là ngăn cản việc bầu một vị vua đối lập và các cuộc tranh giành ngai vàng. Karl tin rằng đã có thể củng cố được vị thế quyền lực của dòng họ Luxembourg bằng việc này.

Habsburg, Luxembourg và Wittelsbach tranh chấp quyền lực

Dưới triều của những người kế thừa Karl, quyền lực của nhà vua suy tàn. Người con trai đầu của Karl IV, Wenzel, đã bị các tuyển hầu truất phế trong năm 1400 vì thụ động. Sau cái chết của người kế vị Ruprecht nhà Wittelsbach, em của Wenzel là Sigismund, vua của Hungary, một người thuộc dòng họ Luxembourg lại được bầu lên làm vua trong năm 1410. Mặc dù được tôn vinh lên làm hoàng đế năm 1433 nhưng ông lại không thể ổn định được đế chế. Một cuộc cải tổ đế chế đã thất bại. Sau khi Sigismund chết, dòng họ Luxembourg không còn con trai nối dõi. Với Albrecht II, dòng họ Habsburg đã tiến lên kế thừa ngai vàng vào năm 1438. Dưới thời cai trị của Friedrich III, mặc dầu lâu dài nhưng lại lu mờ, nền tảng cho chính sách bành trướng quyền lực của dòng họ Habsburg cũng được thiết lập. Thông qua hôn nhân, con trai của ông là Maximilian I đã thu nạp được thêm xứ Burgundia mà xứ Hà Lan giàu có cũng thuộc trong công quốc này và sau đó đã có thể tự khẳng định qua cuộc chiến tranh với Pháp. Cháu của ông, Felipe I của Castila, đã được phép kết hôn với người thừa kế vương quốc Tây Ban Nha rộng khắp trên toàn thế giới. Năm 1495 một cuộc cải tổ Đế chế được Hội đồng Đế chế ở Worms thông qua. Năm 1508 Maximilian tiếp nhận danh hiệu hoàng đế không cần Giáo hoàng đăng quang. Với việc này ông đã chấm dứt vĩnh viễn các chuyến đi hành hương về Roma để làm lễ đăng quang hoàng đế của các vị vua Đức. Nguyên nhân là do quân đội của Pháp và Venezia vì có tranh chấp với Đức đã ngăn chận các đường đèo vượt núi Alpen. Chính sách hôn nhân của ông đã mang lại cho dòng họ Habsburg không những vương miện Tây Ban Nha mà còn các vùng đất Böhmen và Hungary. Dưới thời của cháu Maximilian là Karl V, vào cuối thời Trung Cổ, dòng họ Habsburg đã vươn lên trở thành một trong những thế lực mạnh trên thế giới.

Nước Đức thời Cận Đại

:Đọc bài chính: Nước Đức thời Cận Đại

Cải cách Kháng Cách và Phong trào Chống Kháng Cách

:Đọc bài chính: Cải cách Kháng Cách và Phong trào Chống Kháng Cách

nhỏ|phải|95 luận đề của Martin Luther Cuộc Cải cách Kháng Cách bắt đầu khi Martin Luther công bố 95 luận đề chống lại việc buôn bán sự xá tội (tiếng Anh: indulgence).

Năm 1519 Karl V thuộc dòng họ Habsburg lên làm vua. Về mặt đối ngoại, ông luôn liên tục vướng bận vào các cuộc chiến tranh chống cự Đế quốc Ottoman của người Thổ Nhĩ Kỳ cũng như các cuộc chiến tranh chống lại nước Pháp và Giáo hoàng. Vì thế mà vị trí của ông trong vương quốc bị suy yếu, không thể ngăn chặn sự phổ biến của Phong trào Cải cách Kháng Cách. Vào năm 1529, vua Thổ Nhĩ Kỳ là Suleiman I xua đại quân vượt sông Danube tiến đánh kinh thành Viên. Đại Công tước Áo là Ferdinand tập hợp quân Đức và quân Tây Ban Nha do vua anh Karl V gửi tới để chống trả. Quân Thổ đại bại, vua Suleiman I phải rút quân trở về kinh đô Constantinopolis. Vào năm 1532, ông ta lại phát động chiến tranh một lần nữa, nhưng phải né tránh mỗi thành Viên. Pommern, Jütland và Mecklenburg bị quân đội Công giáo chiếm đóng.

Sau cuộc Chiến tranh Đan Mạch, hoàng đế ra Chỉ dụ Hoàn lại (Restitutionsedikt) vào năm 1629. Lo sợ vì quyền lực của tướng Wallenstein đã tăng lên quá nhiều, các lãnh chúa trong đế chế đã truất phế ông trong hội nghị các Tuyển hầu tại Regensburg trong năm 1630.

Vào thời điểm đó, vua Thụy Điển là Gustav II Adolf can thiệp vào chiến sự. Liên quân Thụy Điển - Sachsen đánh tan tác Liên quân Công giáo do Tilly thống lĩnh trong trận Breitenfeld (Leipzig) vào năm 1631, và quân Thụy Điển cứ thế mà tiến vào đất Đức. Vào năm 1632, quân Công giáo lại bị đập tan tác, đồng thời Tilly hy sinh tại Rain, tiếp theo sau đó hoàng đế lại hoàn chức vụ cho Wallenstein. Vua Gustav II Adolf tiến đánh trại lính của Wallenstein tại Nuremberg, và ông xuất binh đập tan tác quân Thụy Điển. Nhưng trong trận Lützen vào năm 1632, Quân đội của Wallenstein bị quân Thụy Điển đập tan tác, song quân Thụy Điển mất đi vị vua vĩ đại của họ trong trận đánh này. Vào năm 1633, Quân đội của Wallenstein bắt sống một đạo quân Thụy Điển trong trận Steinau. Nhưng Wallenstein lại bị truất phế năm 1634 và ngay sau đó bị giết chết. Để có thể trục xuất quân Thụy Điển ra khỏi đất Đức, hoàng đế đã lập lại hòa bình với Tuyển hầu xứ Sachsen năm 1635 bằng một hiệp ước đặc biệt: Hòa ước Praha.

Nước Pháp Công giáo đứng về phía Thụy Điển năm 1635. Tuy mất vua Gustav II Adolf và đại bại vào năm 1634, Quân đội Thụy Điển vẫn tiếp tục đấu tranh, và giành chiến thắng trong nhiều trận đánh, dù họ không thể chiếm được thành Praha. Vào năm 1701, sau nhiều nỗ lực lớn, Ông tiến hành những công trình xây dựng đồ sộ.

Vào năm 1713, vua Friedrich Wilhelm I lên kế vị, đã thực hiện những cải cách về bộ máy Chính phủ và Quân đội Phổ. Ông sống giản dị, tích cực đầu tư vào lực lượng Quân đội Phổ, lại còn cho người kén lính trên toàn cõi châu Âu. Lực lượng Bộ binh của chế độ quân chủ nước Phổ non trẻ giờ đây là lực lượng Bộ binh hùng cường nhất châu Âu. Cuối cuộc Đại chiến Bắc Âu (1700 - 1720), ông tham chiến trong liên minh chống Thụy Điển và chiếm được xứ Stettin. Khác với vua Louis XIV của Pháp đương thời, ông là một vị vua - chiến binh. Ông là vị vua sáng lập ra Nhà nước mới mẻ đầu tiên trong lịch sử nước Đức.

Dưới thời của hoàng đế dòng họ Habsburg là Leopold I, Đế chế cùng một lúc đã bị đe dọa từ phía Sultan Mehmed IV người Thổ Ottoman và từ ý muốn bành trướng của Pháp dưới thời Louis XIV. Vào năm 1683, quân Thổ Nhĩ Kỳ hùng mạnh do Đại Vizia Kara Mustafa Pasha - một viên tướng không siêu việt lắm - thống lĩnh tiến hành xâm lược nước Áo. Quân Thổ Nhĩ Kỳ vây hãm kinh thành Viên kể từ ngày 14 tháng 7 năm 1683. Trong các Tuyển hầu tước người Đức phò tá Hoàng đế trong trận này có cả vị Tuyển hầu tước vĩ đại Friedrich Wilhelm I xứ Brandenburg, ông đã gửi một đạo quân đến họp binh với quân Áo. Vào ngày 13 tháng 9 năm 1683, vua Ba Lan là Jan III Sobieski thân chinh thống lĩnh liên quân Áo - Đức - Ba Lan đập tan tác quân Thổ Nhĩ Kỳ, giết được biết bao quân Thổ. Với chiến thắng này, mối đe dọa của quân Thổ đối với châu Âu chấm dứt.

Qua việc bầu tuyển hầu của Sachsen là Friedrich August I lên làm vua Ba Lan năm 1697, giữa Sachsen và Ba Lan đã có liên kết cho đến năm 1763, chỉ bị gián đoạn bởi cuộc Đại chiến Bắc Âu và Chiến tranh Thừa kế Ngai vàng Ba Lan. Cũng như thế, giữa Hannover và nước Anh cũng đã có liên kết tương tự. Việc dòng họ Habsburg Tây Ban Nha tuyệt tự đã làm cho cuộc Chiến tranh Thừa kế Tây Ban Nha bùng nổ vào năm 1701, cuộc chiến mà với cái chết của Joseph I đã mang lại cho dòng họ Habsburg một bước ngoặt không tốt đẹp nhưng cũng đã làm lay chuyển uy thế cường quốc Pháp. Mặc dù thế, dòng họ Habsburg ở Áo vẫn trở thành một cường quốc tại châu Âu dưới thời các Hoàng đế Leopold I và Joseph I.

phải|nhỏ|Tranh vẽ vua Phổ Friedrich II Đại đế (1740 - 1786), năm 68 tuổi.

Ở Vương quốc Phổ, Quốc vương Friedrich II đẩy việc mở mang bờ cõi, và đưa nước Phổ trở thành một trong những liệt cường tại châu Âu. Thiên tài quân sự của nhà vua còn giúp ông thành công về mặt chính trị. là đất của họ Habsburg, nhằm sáp nhập tỉnh này vào Vương quốc Phổ. Con gái của Karl VI, Maria Theresia đã có thể bảo vệ được vương miện cho vị hôn phu của mình là Franz Stefan với sự giúp đỡ của Anh Quốc. Song, trong các năm 1741 - 1742, Quân đội Phổ do Friedrich II thân chinh thống lĩnh liên tục đánh thắng quân Áo trong trận Mollwitz và trận Chotusitz, thế là ông chiếm được tỉnh Silesia từ tay nước Áo, với Hòa ước Breslau (1742). Nhưng sau đó, Nữ hoàng Maria Theresia cải thiện tình hình nước Áo, nên Friedrich II tham chiến trở lại. Tuy đứng trước nguy cơ bị liên minh Anh - Nga - Sachsen - Áo chia cắt đất nước, ông đánh thắng liên quân Áo - Sachsen trong trận Hohenfriedberg (1745), và giữ vững tỉnh Silesia sau một vài chiến thắng oanh liệt khác cùng năm ấy, mang lại danh tiếng quân sự của ông trên toàn cõi châu Âu, và ông trở thành một vị danh tướng bất khả chiến bại. Với những trận đánh ác liệt của ông để giành quyền kiểm soát tỉnh Silesia, ông trở thành "nhân vật dẫn dắt của thế kỷ ông". Với những chiến công hiển hách của nhà vua, với sức mạnh liệt cường của đất nước, Phổ trở thành một kình địch đáng sợ của Áo, dù có diện tích nhỏ bé hơn. Biết bao hiểm nguy đến với nước Phổ. Friedrich II quyết định ra tay trước, và ông xua đại binh tiến đánh và chiếm được xứ Sachsen, đánh bại quân cứu viện Áo (1756) và mở đầu cuộc Chiến tranh Bảy năm. Sau đó, ông tiếp tục tiến công vào Đế quốc Áo, lúc thắng lúc thua và rút quân, nước Phổ bị vây tứ phía nhưng ông đột ngột cứu vãn đất nước với những chiến thắng lừng lẫy trong trận Rossbach và trận Leuthen (1757); qua những chiến công hiển hách này sự huy hoàng quân sự của ông lên đến tột đỉnh. Với chiến thắng vang dội của ông tại Rossbach, lần đầu tiên trong lịch sử, dân tộc Đức đã đánh thắng Pháp một cách vẻ vang. Chiến dịch Rossbach - Leuthen trở thành một trong chiến thắng huy hoàng nhất tron lịch sử, nhờ vào thiên tài quân sự của vị anh hùng của đức tin Kháng Cách. Trong suốt bảy năm chiến tranh, cường quốc non trẻ Phổ đã giao chiến và giữ vững giang sơn trước sức tấn công của ba cường quốc Nga, Áo, Pháp, và cho đến năm 1763, tất cả mọi nước đều kiệt quệ. Với Hiệp định Hubertusburg, lòng kiên quyết, tài năng và long dũng cảm của vị vua - anh hùng Phổ đã mang lại cho ông chiến thắng oanh liệt: liên quân chống Phổ thất bại và phải nhượng vĩnh viễn tỉnh Silesia cho Vương quốc Phổ, Vương quốc Phổ hoàn toàn là một liệt cường với thanh thế vang xa, xua tan mọi hiểm họa đến với nước Phổ, Danh tiếng của ông vang xa đến tận xứ Maroc và châu Mỹ. Sau đó, ông nỗ lực gia tăng ngân khố quốc gia và tăng cường binh lực nhằm bảo vệ vị thế cường quốc của đất nước. Ông xây dựng "Tân Hoàng cung" (Neues Palais) sau chiến thắng (1763) để chứng tỏ thực lực của Vương quốc Phổ đang trên đà lớn mạnh, và luôn tiến hành duyệt binh, làm người ngoại quốc phải ấn tượng. Vào năm 1772, ba cường quốc Phổ, Nga, và Áo tiến hành cuộc chia cắt Ba Lan lần thứ nhất, mang lại lợi thế lớn lao cho Friedrich II, giúp ông thống nhất các lãnh thổ rời rạc của Vương quốc Phổ. Giờ đây ông đã mở rộng biên giới chiến lược của đất nước đến sông Wisla và sông Netze. Công cuộc xây dựng lực lượng quân đội tinh nhuệ của ông sau năm 1763 giúp nước Phổ luôn luôn giữ vững thế mạnh, và, theo viên sĩ quan phụ tá Georg Heinrich Berenhorst của ông:

Vào năm 1772, ông xưng làm "Đức Vua của Phổ". Tuy cuộc chia cắt Ba Lan lần thứ nhất một lần nữa mang lại thất bại thảm hại cho Đế quốc Áo, vào năm 1778, Joseph II, vị vua đầy tham vọng của Áo, đã toan tính chiếm xứ Bayern, nhưng Friedrich II xua đại quân Phổ đánh Áo, và đẩy lui tham vọng của vua Áo sau cuộc Chiến tranh Kế vị Bayern (1778 - 1779) ngắn ngủi. Vào năm 1785, Joseph II lại liên minh với Đế quốc Nga nhằm chống lại Friedrich II, và vua Phổ đã giành thắng lợi với việc thiết lập "Liên minh các Vương hầu" (Fürstenbund) với các Vương hầu hùng cường trên đất Đức, Với "Liên minh các Vương hầu", Friedrich II - kẻ hủy diệt vĩ đại của Đế quốc La Mã Thần thánh - đã trở thành vị quan thầy hùng mạnh của những truyền thống dân tộc Đức, của các tiểu quốc của người Đức. Liên minh vững chắc này làm cơ cấu Đế quốc La Mã Thần thánh suy yếu. Dưới triều đại của ông, thần dân nước Phổ thực hiện kỷ luật xuất sắc, tôn vinh Quốc gia, Đức tin Kháng Cách cùng với vị Quân vương vĩ đại và chiến thắng của họ. Chủ nghĩa yêu nước đã bắt đầu phát triển từ thời đó. Là một vị vua được lòng dân, các nhà văn luôn ca ngợi những chiến thắng hiển hách của ông, và nền văn hóa Friedrich ăn sâu vào muôn dân nước Phổ sau khi ông qua đời. Vị vua tài hoa và đầy nghị lực này - "Friedrich Độc đáo" đã một mình đánh tỉnh Silesia, trị vì lâu dài và làm mê hoặc những người đương thời, đồng thời lôi cuốn các nhà sử học.

Thời kỳ Khai sáng bắt đầu tại Phổ dưới thời Friedrich II và tại Áo dưới thời của Hoàng đế Joseph II. Hoàng đế Joseph II đã thực hiện những cải cách quan trọng Tuy là một vị Quân vương của chế độ quân chủ chuyên chế, ông trị quốc theo nguyên tắc "Nhà vua là công bộc đầu tiên của Quốc gia". Triều đại của ông cho thấy trào lưu Khai sáng ngay tại chốn kinh kỳ Berlin, với nhiều danh sĩ lỗi lạc. Với những công trạng huy hoàng của ông vua thiên tài Friedrich II Đại Đế, với lòng trung thành mãnh liệt của thần dân Đức, với một dân tộc Đức dưới ngọn cờ của ông trên đà độc lập khỏi Áo thì nền văn hóa Đức phát triển rầm rộ, dù nhà vua yêu thích văn hóa cổ điển và chẳng ưa nền văn hóa mới của dân tộc Đức. Đại thi hào Goethe sau này luôn ca ngợi sự phát triển của nền văn hóa Đức, và - với tư cách là Moses của nền văn hóa Đức - nhà vua cũng đặt kỳ vọng vào một nền văn hóa Đức lớn mạnh sau này. Cả đời ông luôn luôn đam mê say đắm đọc sách, đọc được hàng trăm tác gia, lại còn viết thơ nữa. Là một ông vua đam mê triết học, chẳng hạn như triết học Khắc Kỷ, vị vua nước Phổ là bạn thân của nhà triết học kiệt xuất Voltaire người Pháp, ông luôn luôn muốn giữ vững châu Âu hòa bình sau chiến thắng trong hai cuộc chiến tranh Silesia vào năm 1745, khi đó ông bước vào những năm tháng huy hoàng trong việc nghiên cứu triết học của ông ở cung điện Sanssouci (nên ông được mệnh danh là "nhà triết học của khu Sanssouci"), và thực chất ông chỉ bảo vệ đất nước trong cuộc chiến tranh Bảy năm, mà ông giành chiến thắng huy hoàng và đưa Vương quốc Phổ trở nên hùng mạnh hơn trước hẳn vào năm 1763, nhờ những nỗ lực, những cống hiến và thiên tài quân sự của ông.

Nhưng cả việc ông qua đời (1786) cũng giống như việc một vị vua rất ngưỡng mộ ông - Joseph II qua đời bốn năm sau đó, là kết thúc một thời kỳ huy hoàng của chế độ quân chủ. Do Friedrich II không có con, ông truyền ngôi cho người cháu gọi ông bằng bác là Friedrich Wilhelm II - một ông vua không sáng suốt và nhìn xa trông rộng như ông. Khác với bác của mình, Friedrich Wilhelm II đã thi hành chính sách phản động, phản cách mạng và bài bác Hội Tam Điểm. Ông vua phản động này đã tiến hành chính sách kiểm duyệt và để đám sủng thần lũng đoạn triều chính. Cũng do không có con, Hoàng đế Joseph II truyền ngôi cho hoàng đệ Leopold. Hoàng đế Leopold II đã lại phải hủy bỏ một phần các cải tổ trong phần nước Áo thừa tự.

Ở lãnh địa Tuyển hầu Sachsen, Tuyển hầuFriedrich August I - kiêm vua của Ba Lan - xây dựng một kinh thành Dresden hoành tráng, và trở thành một trong những ông vua chúa giàu có nhất thời ấy. Trong cuộc Đại chiến Bắc Âu, ông liên minh với nước Nga tấn công Thụy Điển. Vào năm 1706, Quốc vương Thụy Điển là Karl XII xua quân chinh phạt xứ Sachsen, trước đó Karl XII đã đánh bại quân Ba Lan của vua Friedrich August I. Con trai ông, Tuyển hầu Friedrich August II cũng yêu thích lối sống xa hoa. Tuy đã bỏ dự định chinh phạt xứ Sachsen từ lâu trước đó, Friedrich II xua đại quân Phổ tiến đánh xứ Sachsen vào năm 1756 nhằm bảo vệ đất nước trước sự ra đời của Liên minh chống Phổ. Tại đây ông đánh bại quân Áo, và buộc xứ Sachsen phải đầu hàng, sau đó tiến hành trừng phạt tàn bạo. Để trả đũa, quân Sachsen cùng liên quân Nga - Cossack - Áo cũng tiến đánh kinh thành Berlin cùng năm ấy, nhưng Friedrich II kéo rốc quân về và giữ vững kinh kỳ. Với chiến thắng của Quân đội Phổ trong trận đánh khốc liệt tại Torgau (1760), ông bảo vệ kinh đô Berlin thoát khỏi bất kỳ một cuộc tấn công nào khác.

Từ thế kỷ 19 cho đến Chiến tranh thế giới thứ nhất

Chiến tranh Giải phóng chống Napoléon (1789-1815)

:Đọc bài chính về Chiến tranh Giải phóng (Đức)

Tiếp theo sau cuộc Cách mạng Pháp là liên minh giữa Phổ và Áo chống lại nước Pháp năm 1791. Sau một vài thành công ban đầu, liên minh bị đẩy lùi về thế thủ sau khi thất trận Valmy trong tháng 9 năm 1792. Tiếp theo sau đó là bốn cuộc chiến tranh khác chống lại nước Pháp cho đến 1809.

Năm 1799 hoàng đế Napoléon I của Pháp thu tóm lấy quyền lực về tay ông. Nước Áo phải nhượng phần đất Hà Lan của Áo. Các vùng tả ngạn sông Rhein cũng thuộc về Pháp sau Hòa ước Lunéville năm 1801. Đổi lại, các hầu tước Đức nhận vùng đất hữu ngạn sông Rhein. Ngoài ra Napoléon đã nâng Bayern, Sachsen và Württemberg lên thành vương quốc.

Năm 1805 nước Áo thua Trận Ba Hoàng đế ở Austerlitz (Trận Austerlitz) và phải nhường các vùng đất Thượng Ý về cho Vương quốc Ý và hai vùng đất Vorarlberg và Tirol về cho Bayern. Khi 16 hầu tước Đức quy tụ lại thành Liên minh Rhein (Rheinbund) năm 1806, Hoàng đế Franz II phải từ bỏ vương miện hoàng đế Đức dưới áp lực của Napoléon sau khi thành lập Đế chế Áo năm 1804 để có thể đứng ngang hàng với Napóleon. Điều này đồng nghĩa với việc chấm dứt đế quốc La Mã Thần thánh dân tộc Đức sau 842 năm tồn tại.

Vào ngày 16 tháng 10 năm 1806 Phổ thua Trận Jena-Auerstedt. Quân đội Napoléon tiến vào Berlin. Trong Hòa ước Tilsit 1807 Phổ đã mất đi phân nửa các vùng đất đã lấy được sau cuộc chia cắt Ba Lan lần thứ hai và lần thứ ba về cho Công quốc Warsaw và chỉ nhờ vào sự can thiệp của Nga mà vẫn còn tồn tại như là một quốc gia. Áo cũng phải nhượng các phần đất đang chiếm đóng sau khi chia cắt Ba Lan lần thứ ba về cho Công quốc Warsaw. Một cuộc nổi dậy ở Tirol (Andreas Hofer) đã bị Napoléon dập tan.

Dưới sự lãnh đạo của Heinrich Friedrich Karl Freiherr của Stein và Karl August của Hardenberg, một phong trào cải cách xuất hiện trong Vương quốc Phổ giữa 1807 và 1813 (Cải cách Phổ). Quân đội được cải tổ bởi Gerhard của Scharnhorst và August của Gneisenau và hệ thống giáo dục bởi Wilhelm von Humbolt.

nhỏ|phải|Trận Leipzig Sau chiến bại của Napoléon trong cuộc chinh chiến Nga năm 1812, tại Phổ đã có nhiều cuộc nổi dậy. Khi vị tướng Phổ Yorck của Wartenburg tự ý thỏa thuận ngưng chiến với Nga trong tháng 12 năm 1812, dưới áp lực của quần chúng, vua Phổ liên minh với Nga hoàng chống lại Pháp.

Sau khi Anh, Thụy Điển và Áo cùng tham gia liên minh, Pháp thua Trận Leipzig mang tính quyết định vào tháng 10 năm 1813. Các quốc gia của Liên minh Rhein đứng về phía của liên minh mới. Các cuộc chiến chống Napoléon đã dẫn đến một niềm tự hào quốc gia mới trong nước Đức.

Mùa xuân năm 1814 quân đội liên minh kéo vào Paris. Napoléon I bị bắt buộc phải thoái vị. Khi lại giành lấy được quyền lực vào năm 1815 trong nước Pháp, quân đội liên minh cuối cùng đã chiến thắng Napoléon trong Trận Waterloo vào ngày 18 tháng 6 năm 1815.

Liên minh Đức: Thời kỳ tái kiến thiết

:''Đọc bài chính: Liên minh Đức

Hội nghị Wien dưới sự lãnh đạo của Metternich đã mang lại một trật tự mới cho châu Âu. Mục đích của Hội nghị Wien là việc bảo vệ hòa bình lâu dài bằng cách tạo nên một cân bằng giữa các thế lực lớn nhưng cũng có mục đích tái kiến thiết lại hệ thống chính trị cũ. Áo, Phổ và Nga trong Liên minh Thần thánh đã thỏa thuận sẽ chống lại tất cả các phong trào mang tính quốc gia dân tộc và cách mạng.

nhỏ|trái|Liên minh Đức 1815-1866 Phổ nhận lại vùng đất từ việc chia cắt Ba Lan lần thứ hai cộng với Danzig, Rheinland, Westfalen và vùng phía Bắc của Sachsen, Áo giữ được vùng đất từ cuộc chia cắt Ba Lan lần thứ nhất (Galicia), tự nguyện bỏ vùng đất Hà Lan thuộc Áo và nhận thay vào đấy là Veneto, Lombardia và nhiều phần đất khác trên Bán đảo Balkan. Pháp giữ được vùng Elsass. Ngoài ra Liên minh Đức (Deutscher Bund) được thành lập bao gồm 39 hầu tước độc lập, trong đó có cả vua của Anh, Đan Mạch và Hà Lan.

Cơ quan có thẩm quyền ra nghị định của Liên minh Đức là Quốc hội Liên Bang (Liên minh Đức) (Bundestag (Deutscher Bund)), hội họp tại Frankfurt am Main do Áo làm chủ tọa. Ý nguyện muốn tạo nên một quốc gia dân tộc Đức thống nhất của quần chúng đã không được các hầu tước xem xét đến.

Sau khi nhà văn August von Kotzebue bị giết chết trong năm 1819 Metternich đã ra Quyết định Karlsbad cấm các hội sinh viên và tất cả các tổ chức chính trị khác, đồng thời tiến hành việc kiểm duyệt toàn diện. Thế nhưng cuối cùng ông cũng không thể ngăn chận được việc phong trào dân tộc Đức lại tiếp tục vững mạnh trong thời gian của cái được gọi là Thời trước tháng Ba (Vormärz). Năm 1817 rất nhiều sinh viên đã tụ họp tại Lễ hội Wartburg. Được cổ vũ bởi cuộc Cách mạng tháng Bảy trong nước Pháp, phong trào đã đạt đến một đỉnh cao mới trong Lễ hội Hambach từ 27 tháng 5 đến 30 tháng 5 năm 1832 với 30.000 người tham gia.

Về mặt kinh tế, nước Đức đã được thống nhất bởi Liên minh Thuế quan Đức được thành lập vào ngày 1 tháng 1 năm 1834. Công nghiệp hóa đang bắt đầu và việc xây dựng các tuyến đường sắt đầu tiên đã làm cho nền kinh tế tăng trưởng đáng kể.

Cách mạng tháng 3 năm 1848

Cách mạng tháng Hai năm 1848 trong nước Pháp đã dẫn đến Cách mạng tháng Ba trong các quốc gia Đức. Tại Áo đã có nhiều cuộc chiến trên đường phố. Metternich từ chức vào ngày 13 tháng 3 và chạy trốn sang Anh quốc.

Hoàng đế Ferdinand I ban hành hiến pháp trong tháng 4 năm 1848 và cho phép người dân có thể tổ chức lực lượng vũ trang tự bảo vệ. Tại Hungary, Ý và các lãnh thổ Slavơ đã có nhiều cuộc nổi dậy nhưng đều bị quân đội của hoàng đế dập tắt.

Dưới áp lực của quần chúng, vua Phổ Friedrich Wilhelm IV cho phép hoàn thành hiến pháp và cho phép người dân có quyền tự do báo chí và tự do tụ họp. Các quốc gia nhỏ như Baden đã cố gắng ngăn ngừa các cuộc bạo loạn bằng cách triệu tập nhiều nhân vật của phái tự do và phái dân tộc tham gia chính phủ. Mặc dù vậy, trong thời gian tiếp theo sau đó của cuộc Cách mạng, chính Baden và Sachsen đã trở thành trung tâm của các cuộc nổi dậy mang tính dân chủ quá khích.

nhỏ|phải|Đại hội Quốc gia Frankfurt trong Nhà thờ Thánh Phao-lô Vào đầu tháng 5, gần như trong toàn bộ các quốc gia đều tổ chức bầu cử Đại hội Quốc gia Frankfurt (Frankfurter Nationalversammlung - tức Quốc hội). Thế nhưng chỉ trong 6 quốc gia là được quyền bầu cử trực tiếp. Trong tất cả các quốc gia còn lại, một phương cách bầu gián tiếp thông qua các ủy viên bầu cử trung gian đã được áp dụng.

Thành phần trong quốc hội bao gồm cả những người theo chế độ quân chủ chuyên chính bảo thủ lẫn những người theo chế độ tự do và cộng hòa. Trong khi tầng lớp trí thức và quần chúng có học thức chiếm tỷ lệ cao thì công nhân và nông dân lại không có đại diện trong quốc hội.

Vào ngày 18 tháng 5 một chính phủ trung tâm tạm thời được thành lập và được các hầu tước Đức công nhận. Thế nhưng chính phủ này lại gần như không có quyền lực vì không có quân đội, cảnh sát và nhân viên nhà nước riêng.

Quốc hội phải quyết định về ranh giới của một quốc gia dân tộc Đức trong tương lai. Đầu tiên, cái gọi là Giải pháp Đức Lớn được ưu tiên lựa chọn. Thế nhưng vì Áo chỉ đồng ý khi giải pháp bao hàm toàn bộ lãnh địa nên cuối cùng Giải pháp Đức Nhỏ được lựa chọn, dự kiến việc thành lập một quốc gia Đức loại trừ Áo.

Vào ngày 28 tháng 3 năm 1849 Hiến pháp Nhà thờ Thánh Phao-lô (Paulskirchenverfassung) được thông qua, dự kiến một quốc gia liên bang với chính phủ trung tâm dưới sự lãnh đạo của một hoàng đế có quyền thừa kế và một Quốc hội Đế chế (Reichstag) đóng vai trò hành pháp. Thêm vào đấy quyền bầu cử chung phổ thông được thỏa thuận.

Sau khi vua Phổ Friedrich Wilhelm IV từ chối vương miện hoàng đế vào ngày 2 tháng 4, phần lớn các quốc gia Đức đều triệt hồi các nghị sĩ của họ từ Frankfurt. Các cuộc nổi dậy tại Dresden, Pfalz và Baden với mục đích bắt buộc phải hiện thực hiến pháp đều bị dập tắt. Những người cách mạng cuối cùng đã đầu hàng vào ngày 23 tháng 7 tại Rastatt. Hiến pháp chưa từng bao giờ có hiệu lực. Rất nhiều người bị truy nã về chính trị sau đấy đã rời bỏ quê hương, đặc biệt là sang Mỹ.

Thời gian phản cách mạng và các cuộc chiến tranh thống nhất

Các nhượng bộ trong thời gian Cách mạng đều bị hủy bỏ. Mặt khác, một số thành quả như Hiến pháp và quyền tự do hành nghề vẫn được bảo tồn.

Năm 1850 Liên minh Đức (Deutscher Bund) được tái thành lập. Sau khi tổ chức chính trị được phép thành lập năm 1860, nhiều đảng phái và công đoàn đã thành hình. Năm 1863 Ferdinand Lassalle thành lập Liên hiệp Công nhân Đức Phổ thông (Allgemeine Deutsche Arbeiterverein), đảng mà cuối cùng đã hòa nhập vào Đảng Dân chủ Xã hội Đức (Sozialdemokratische Partei Deutschlands – SPD) vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay.

[[Otto von Bismarck, vị thủ tướng đã thống nhất nước Đức]] Xung đột Hiến pháp Phổ bắt đầu vào năm 1859, dẫn đến việc bổ nhiệm Otto von Bismarck vào cương vị thủ tướng Phổ và tăng cường quyền lực của nhà vua đối với quốc hội năm 1862.

Năm 1864 cuộc chiến tranh của Phổ và Áo chống lại Đan Mạch bùng nổ do Đan Mạch xâm chiếm Schleswig. Với sự đồng ý của các thế lực lớn châu Âu, hai quốc gia Đức tái chiếm lĩnh các công quốc Holstein và Schleswig.

Phổ giành phần thắng lợi trong cuộc Chiến tranh chống lại nước Áo tiếp theo đấy vào năm 1866, thôn tính Hannover, Nassau, Kurhessen, Hessen-Homburg, Schleswig-Holstein và Frankfurt. Thêm vào đó, Liên minh Bắc Đức (Norddeutscher Bund) dưới sự lãnh đạo của Phổ được thành lập. Vì thế nước Áo ly khai ra khỏi Đức. Nền độc lập của Bayern, Württemberg và Baden được công nhận dưới áp lực của Pháp.

Tiếp theo đấy là căng thẳng giữa Pháp và Phổ. Leopold của Hohenzollern-Sigmaringen ứng cử ngai vàng Tây Ban Nha

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Lịch sử Đức giai đoạn 1945 đến 1990** là giai đoạn kể từ khi Đồng Minh bắt đầu chiếm đóng Đức theo Tuyên bố Berlin ngày 5 tháng 6 năm 1945 kéo dài cho đến
Từ thời kỳ cổ đại, **Đức** (lúc đó được người La Mã gọi là vùng đất Germania) đã có các bộ lạc người German (tổ tiên trực tiếp của người Đức) chính thức cư ngụ
**_Sự trỗi dậy và suy tàn của Đế chế thứ ba – Lịch sử Đức Quốc Xã_** (nguyên tác tiếng Anh: _The Rise and Fall of the Third Reich: A History of Nazi Germany_) là
## Triều đại Mérovingiens (500-751) Ở xứ Gaul, sự đồng hóa giữa xã hội La Mã và Đức xảy ra nhanh chóng. Năm 486, Clovis, một người Salian thuộc tộc Frank được cho là có
Quân kỳ của Quân đội Đức quốc xã**Lịch sử quân sự Đức trong Chiến tranh thế giới thứ hai** bắt đầu từ quân số 100.000 do Hòa ước Versailles hạn chế, không được quyền có
Sự Trỗi Dậy Và Suy Tàn Của Đế Chế Thứ Ba - Lịch Sử Đức Quốc Xã ------------ Ngay trong năm đầu tiên phát hành - 1960, Sự trỗi dậy và suy tàn của Đế
Sự Trỗi Dậy Và Suy Tàn Của Đế Chế Thứ Ba - Lịch Sử Đức Quốc Xã ------------ Ngay trong năm đầu tiên phát hành - 1960, Sự trỗi dậy và suy tàn của Đế
Sự Trỗi Dậy Và Suy Tàn Của Đế Chế Thứ Ba - Lịch Sử Đức Quốc Xã Tái Bản
Sự Trỗi Dậy Và Suy Tàn Của Đế Chế Thứ Ba - Lịch Sử Đức Quốc Xã Tái Bản
Đặc trưng giai đoạn này của Liên xô là sự lãnh đạo của **Joseph Stalin**, người đang tìm cách tái định hình xã hội Xô viết với nền kinh tế kế hoạch nhiều tham vọng,
thumb|Một cảnh khiêu dâm từ một bức [[bích họa của Pompeii, -50 sau Công nguyên, Bảo tàng bí mật, Napoli]] Hoạt động Mại dâm đã tồn tại trong các nền văn hóa từ thời kỳ
nhỏ|Bức ảnh này trích trong một chương về [[Ấn Độ trong cuốn _Câu chuyện về các quốc gia của Hutchison_, mô tả Ajatashatru đến thăm Đức Phật để giác ngộ tội lỗi của mình.]] **Phật
[[Phần cứng|Phần cứng máy tính là nền tảng cho xử lý thông tin (sơ đồ khối). ]] **Lịch sử phần cứng máy tính** bao quát lịch sử của phần cứng máy tính, kiến trúc của
**Lịch sử châu Âu** mô tả những sự kiện của con người đã diễn ra trên lục địa châu Âu. Từ thời tiền sử tới thời hiện đại. Châu Âu có một lịch sử dài,
Phi cơ [[B-17 Flying Fortress đang bay trên bầu trời châu Âu]] Các giới chức quân sự quan trọng của Mỹ tại châu Âu năm 1945 **Lịch sử quân sự Hoa Kỳ trong Chiến tranh
Những ghi chép đầu tiên về **lịch sử nước Pháp đã** xuất hiện từ thời đại đồ sắt. Ngày nay, nước Pháp chiếm phần lớn khu vực được người La Mã cổ đại gọi là
**Lịch sử thế giới** (còn gọi là **lịch sử loài người** và **lịch sử nhân loại**) là ghi chép về hành trình phát triển của nhân loại từ thời tiền sử cho đến hiện tại.
Bằng chứng về sự hiện diện của con người ở các vùng cao nguyên phía bắc và trung tâm bán đảo Đông Dương đã tạo nên lãnh thổ của dân tộc Lào hiện đại từ
_Cuốn [[The Compendious Book on Calculation by Completion and Balancing_]] Từ _toán học_ có nghĩa là "khoa học, tri thức hoặc học tập". Ngày nay, thuật ngữ "toán học" chỉ một bộ phận cụ thể
**Lịch sử quân sự Nhật Bản** mô tả cuộc chiến tranh phong kiến kéo dài nhằm tiến tới việc ổn định trong nước, sau đó cùng với việc viễn chinh ra bên ngoài cho tới
**Thành phố Đà Lạt** được ghi nhận hình thành từ năm 1893, thời điểm bác sĩ Alexandre Yersin lần đầu tiên đặt chân đến cao nguyên Lâm Viên. Mặc dù vậy, trước thời kỳ này
**Bắc Kinh** có lịch sử lâu dài và phong phú, nguyên truy từ cách nay 3.000 năm. Trước khi Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Hoa vào năm 221 TCN, Bắc Kinh là thủ đô
Địa danh **Hà Tĩnh** xuất hiện từ năm 1831, khi vua Minh Mệnh chia tách Nghệ An để đặt tỉnh Hà Tĩnh. Tuy nhiên, vùng đất Hà Tĩnh đã được hình thành và phát triển
**Lịch sử Luxembourg** bao gồm lịch sử Luxembourg và khu vực địa lý của Luxembourg Mặc dù lịch sử ghi chép, Luxembourg có thể bắt nguồn từ thời La Mã (753 TCN – 476), nhưng
**Lịch sử của Giáo hội Công giáo Việt Nam từ năm 1975 đến năm 1990** có nhiều điểm đặc thù riêng. Đây là giai đoạn 15 năm thứ hai kể từ khi thiết lập hàng
**Lịch sử Bỉ** có từ trước khi thành lập nước Bỉ hiện đại năm 1830. Lịch sử Bỉ đan xen với lịch sử các nước láng giềng là Hà Lan, Đức, Pháp và Luxembourg. Trong
**Lịch sử Ba Lan giữa hai cuộc Thế chiến** bao gồm giai đoạn từ tái lập quốc gia độc lập Ba Lan năm 1918, tới Cuộc xâm lược Ba Lan từ phía tây bởi Đức
**Lịch sử Chăm Pa** là lịch sử các quốc gia của người Chăm gồm: Hồ Tôn, Lâm Ấp, Hoàn Vương, Chiêm Thành (_Campanagara_) và Thuận Thành (_Nagar Cam_), thành lập từ năm 192 và kết
**Lịch sử Trung Quốc** đề cập đến Trung Hoa, 1 trong 4 nền văn minh cổ nhất thế giới, bắt nguồn từ lưu vực phì nhiêu của hai con sông: Hoàng Hà (bình nguyên Hoa
**Thành phố Hồ Chí Minh** hiện nay hình thành trên cơ sở sáp nhập nhiều đơn vị hành chính do chính quyền qua các thời kỳ trước đây thành lập. Do đó, tổ chức hành
**Lịch sử Áo** là lịch sử của nước Áo ngày nay và các quốc gia tiền thân của nó từ đầu thời kỳ đồ đá cho đến nay. Tên _Ostarrîchi_ (Áo) đã được sử dụng
**Lịch sử của chế độ Giáo hoàng** là một lịch sử lâu dài kéo dài trong suốt 2000 năm với rất nhiều sự kiện và biến động. Giáo hội Công giáo nhìn nhận Giáo hoàng
**Lịch sử giáo dục Nhật Bản** được bắt đầu từ khoảng thế kỉ thứ 6, khi mà chế độ giáo dục Trung Hoa được giới thiệu dưới triều đại Yamato. Những nền văn hoá du
**Danh sách các sự kiện trong lịch sử Nhật Bản** ghi lại các sự kiện chính trong lịch sử Nhật Bản theo thứ tự thời gian. ## Cổ đại ### Thời kỳ đồ đá cũ
**Lịch sử của Bulgaria** có thể được bắt nguồn từ các khu định cư đầu tiên trên vùng đất của Bulgaria hiện đại cho đến khi hình thành quốc gia và bao gồm lịch sử
**Lịch sử Việt Nam** nếu tính từ lúc có mặt con người sinh sống thì đã có hàng vạn năm trước Công Nguyên, còn tính từ khi cơ cấu nhà nước được hình thành thì
**Lịch sử Liên bang Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết** phản ánh một giai đoạn thay đổi cho cả Nga và thế giới. Mặc dù các thuật ngữ "Nước Nga Xô viết" và
Lịch sử của nước Nga, bắt đầu từ việc người Slav phương Đông tái định cư ở Đồng bằng Đông Âu vào thế kỷ thứ 6-7, những người sau đó được chia thành người Nga,
Bài **Lịch sử Israel** này viết về lịch sử quốc gia Israel hiện đại, từ khi được tuyên bố thành lập năm 1948 cho tới tới hiện tại. Nền độc lập của Nhà nước Israel
**Mật mã học** là một ngành có lịch sử từ hàng nghìn năm nay. Trong phần lớn thời gian phát triển của mình (ngoại trừ vài thập kỷ trở lại đây), **lịch sử mật mã
phải|Biên lai bia Alulu – một biên lai chứng nhận việc mua bia "tốt nhất" vào năm 2050 TCN từ thành phố cổ [[Ur của người Sumer, Iraq cổ đại.]] **Bia** là một trong những
Bài này là một tổng quan về **lịch sử Trung Đông**. Để có thông tin chi tiết hơn, xem các bài viết riêng về lịch sử các quốc gia và các vùng. Để thảo luận
nhỏ|Lính Úc dùng súng máy tại trận địa gần [[Wewak tháng 6 năm 1945]] Sau khi Đức Quốc xã xâm lăng Ba Lan, chính phủ Úc tuyên chiến với Đức ngày 3 tháng 9 năm
**Hungary** là một quốc gia ở Trung Âu. Lịch sử của nó theo tên này từ thời đầu Trung cổ, khi các lưu vực sông Pannonian bị những người Magyar chinh phục. Các vương quốc
**Triều đại trong lịch sử Trung Quốc**, hay **triều đại Trung Quốc**, ý chỉ các chế độ quân chủ thế tập cai trị Trung Quốc trong phần lớn chiều dài lịch sử nước này. Kể
**Cần Thơ** là thành phố trực thuộc trung ương nằm ở trung tâm thuộc Đồng bằng sông Cửu Long, Việt Nam. ## Thời Chúa Nguyễn và Nhà Tây Sơn Vào năm Mậu Tý 1708, ông
**Trung Quốc** hiện là quốc gia có dân số đông thứ hai trên thế giới. Từ thời Chu Tuyên Vương, đã có điều tra nhân khẩu tại Trung Quốc, có thống kê nhân khẩu chi
**Bảo tàng Lịch sử người Do Thái Ba Lan POLIN** () là một bảo tàng tại địa điểm của Khu Do Thái Warszawa cũ. Từ tiếng Do Thái _Polin_ trong tên tiếng Anh của bảo
nhỏ **Lịch sử giáo dục ở Trung Quốc** bắt đầu từ khi nền văn minh Trung Hoa ra đời. Giới quý tộc thường lập ra các cơ sở giáo dục dành riêng cho con cháu
**Lịch sử Bayern** với những dẫn chứng, đã có từ dòng họ gia tộc Agilolfing với trung tâm ở Freising vào năm 555. Sau đó nó là một phần của đế quốc La Mã Thần