✨Franz II của Thánh chế La Mã

Franz II của Thánh chế La Mã

Franz II (tiếng Anh: Francis II; 12 tháng 2 năm 1768 – 2 tháng 3 năm 1835) là Hoàng đế cuối cùng của Đế quốc La Mã Thần thánh (1792 – 1806) với đế hiệu là Franz II. Sau đó ông tuyên bố lập ra Đế quốc Áo từ hệ thống các lãnh thổ của Quân chủ Habsburg, trong đó có Đại Công quốc Áo, Vương quốc Hungary, Lãnh thổ vương quyền Bohemia, Vương quốc Galicia và Lodomeria, Vương quốc Lombardia–Veneto... và trở thành hoàng đế đầu tiên của đế chế này với đế hiệu Franz I (1804 – 1835). Ông lên ngôi hoàng đế Áo là để đáp lại việc Napoléon Bonaparte xưng mình là hoàng đế của Pháp và lập ra Đệ Nhất Đế chế Pháp. Ngay sau khi Napoléon thành lập Liên bang Rhein, Franz đã tuyên bố thoái vị khỏi ngai vàng của Đế quốc La Mã Thần thánh, khi đó ông là Vua của Hungary, Croatia và Bohemia. Năm 1815, Bang liên Đức thành lập, ông cũng trở thành chủ tịch đầu tiên của nó.

Franz II tiếp tục vai trò lãnh đạo hàng đầu trong các liên minh chống lại Đệ Nhất Đế chế Pháp của Napoléon I trong Chiến tranh Napoléon và gánh chịu một số thất bại sau Trận Austerlitz. Ngày 10/03/1810, con gái ông là Maria Ludovica đã thành hôn với Hoàng đế Napoléon, và đây được xem là thất bại nặng nề nhất của Franz II. Sau khi Napoléon thoái vị sau Chiến tranh Liên minh thứ Sáu, Đế quốc Áo của ông đã tham gia Liên minh Thần thánh tại Đại hội Viên, chủ yếu được điều phối dưới quyền của nhà ngoại giao Klemens von Metternich, cận thần của Franz II. Một bản đồ châu Âu mới được vẽ ra, trong đó phần lớn quyền thống trị của Franz được khôi phục trên các lãnh thổ trước đây mà Quân chủ Habsburg. Chính những thoả thuận liên quan đến "Concert of Europe" đã giúp các cường quốc chống lại khuynh hướng chủ nghĩa dân tộc, điều này khiến Franz bị xem là một nhân vật phản động trong suốt triều đại của mình sau đó.

Các cháu của Franz II bao gồm Napoléon II (con trai hợp pháp duy nhất của Napoléon), Franz Joseph I của Áo, Maximiliano I của Mexico, Maria II của Bồ Đào Nha và Pedro II của Brasil.

Tiểu sử

Thời niên thiếu

nhỏ|trái|250x250px|Công tước Franz Joseph Karl, sau này là hoàng đế Franz II.

Công tước Franz Joseph Karl sinh năm 1768 ở Florenz là con trai trưởng của Đại vương công Peter Leopold von Toscana (sau này là hoàng đế Leopold II) và Maria Ludovica, vương nữ Tây Ban Nha, con gái của vua Carlos III.

Ngay từ ban đầu Franz đã được lựa chọn để nối ngôi cha, người được ngôi vua từ anh trai Joseph II, vì Joseph không tái hôn sau khi người vợ thứ hai qua đời và cũng không có con nối ngôi. trái|nhỏ|272x272px|Franz Joseph Karl khi còn nhỏ. Sau khi Maria Theresia qua đời vào năm 1780, Joseph II đã tới Toscana, mang Franz Joseph Karl, lúc đó 16 tuổi trở về Viên và được giáo dục theo ý muốn của ông. Franz trong một bức thư tự gọi mình là “người học nghề để trở thành hoàng đế“. Người vợ tương lai được lựa cho Franz là Elisabeth xứ Württemberg, cùng một lúc được gởi vào tu viện để được giáo dục thành hoàng hậu trong tương lai.

Vào năm 1784 bác của Franz, hoàng đế Joseph II đòi hỏi, ông phải về Viên để được giáo dục thành tài, đã nêu ra lý do rằng, Franz thuộc đế chế Habsburg chứ không phải thuộc Đại công quốc Toscana, với câu:

Vua La Mã Đức cuối cùng

Franz II sau khi được phong làm hoàng đế, 1792 thumb|[[Xu bạc: 1 kronenthaler của Hà Lan Áo, mặt trước là chân dung Franz II khi ông còn giữ ngôi vị Hoàng đế La Mã, đúc năm 1793]] thumb|[[Xu bạc: 1 thaler Đế quốc Áo, với chân dung Franz I của Áo khi ông là Hoàng đế của Đế quốc Áo, đúc năm 1820]] Trong cuộc chiến tranh giữa Áo và Phổ (1788–1790), Franz, theo ý muốn của hoàng đế Joseph II, cũng được đưa ra chiến trường. Sau cái qua đời của bác ông, 1790, em của ông ta, cha của Franz, Leopold, trở thành hoàng đế, tuy nhiên Leopold II qua đời 2 năm sau đó vào ngày 1 tháng 3 năm 1792.

Từ đó Franz trở thành vua của Hungary và Bohemia, công tước của nước Áo cũng như nguyên thủ nhiều nước theo luật lệ của nền quân chủ Habsburg. Sau khi ông ta vào ngày 6 tháng 6 ở Ofen được phong làm vua của Hungary, kế tiếp đó, vào ngày 5 tháng 7 ông được bầu làm vua La Mã Đức. Ngày 14 tháng 7 ông được đăng quang lên làm hoàng đế Franz II (vị hoàng đế cuối cùng của đế chế La Mã Thần thánh) ở nhà thờ chính Frankfurt, tiếp theo vào ngày 9 tháng 8 năm 1792 ông được phong làm vua của Bohemia tại Praha.

Chiến tranh với Napoléon

Vào ngày 20 tháng 4 năm 1792, Pháp đã tuyên chiến với "vua Đức", cuộc chiến mà kéo dài cho tới 1797, đưa tới việc Áo mất vĩnh viễn Hà Lan, nhưng lại được vương quốc co–Venetien.

Cuộc chiến thứ hai (1799–1801) cũng không đưa tới một thắng lợi nào cho Áo; đến cuộc chiến thứ ba (1805) thì Áo lại mất Lombardo–Veneto về tay Pháp.

2 Năm với 2 ngai vàng hoàng đế

Franz II tự công bố vào ngày 11 tháng 8 năm 1804 làm hoàng đế của nước Áo và như vậy đã thành lập đế chế Áo. Mục đích của ông là, giữ chức vị hoàng đế, ngay cả trong trường hợp đế quốc La Mã Thần thánh bị sụp đổ thì ông cũng vẫn ngang hàng với Napoléon I, người mà vào ngày 18 tháng 5 năm 1804 đã tự phong làm hoàng đế cha truyền con nối của Pháp.

Khi mà tự phong hoàng đế Áo Franz II cũng đã tính tới việc, là do luật Reichsdeputationshauptschluss vào năm 1803 đã có những thay đổi trong nhóm người được bầu hoàng đế (tuyển hầu quốc Công giáo Köln và Trier đã mất quyền, những nước theo đạo Tin lành như Baden, Württemberg và Hessen được bổ nhiệm quyền này) có thể người kế vị nhà Habsburg trong trường hợp ông ta qua đời sẽ không được bầu làm hoàng đế đế quốc La Mã Thần thánh nữa.

Mặc dù việc tuyên bố làm hoàng đế không dựa trên một luật lệ căn bản nào ở Áo, cũng như ở đế quốc Áo–Hung, chức tước này đã được các nước khác công nhận sau một thời gian ngắn. Hai năm sau đó – Napoléon đã thành công làm cho đế quốc La Mã Thần thánh trở thành vô nghĩa – Franz II vào ngày 6 tháng 8 năm 1806 đã từ bỏ tước vị hoàng đế đế quốc La Mã Thần thánh. Trong 2 năm này Franz là người duy nhất trong lịch sử thế giới mà đã giữ 2 chức hoàng đế, là Franz II hoàng đế đế quốc La Mã Thần thánh và Franz I hoàng đế Áo. Franz I, được vẽ bởi [[Giuseppe Tominz, (1821)]] thumb|Leopold Fertbauer (1802–1875): Hoàng đế Franz I và gia đình, 1826; bên phải: Thái tử Ferdinand và em trai ông là Franz Karl, cha của hoàng đế Franz Joseph I

Cuộc chiến chống lại Napoléon kế tiếp

Vào ngày 9 tháng 4 năm 1809, hoàng đế Franz I, được sự ủng hộ của Vương quốc Anh, đã khai mạc cuộc chiến Liên minh thứ 5 chống lại Pháp với danh nghĩa giải phóng người Đức. Như vậy Áo đã ủng hộ cuộc nổi dậy cùng lúc ở Tây Ban Nha. Cùng ngày dưới sự lãnh đạo của Andreas Hofer cuộc nổi dậy của Tirol chống lại quân đội Bayern, mà đang liên hiệp với Napoléon, đóng chiếm xứ này từ 1806.

Sau nhiều trận đánh không may mắn cho lắm, đưa tới việc Pháp đánh tới tận Viên, quân đội Áo dưới sự lãnh đạo của công tước Karl đã chiến thắng quân đội Napoléon tại trận chiến gần Aspern bên sông Donau, một thất bại lần đầu tiên của Napoléon, làm lung lay thanh thế bất khả chiến bại của ông ta. Napoléon phải từ bỏ dự định vượt sang bờ phía bắc của sông Donau.

Tuy nhiên hy vọng là có cuộc nổi dậy chung của toàn dân Đức chống lại kẻ thống trị, nhất là có sự tham gia của Phổ, đã không xảy ra. Mặc dù những nhà cấp tiến như Stein, Hardenberg, Scharnhorst, Gneisenau cũng như nhà soạn kịch Heinrich von Kleist đã thúc ép một cách mạnh mẽ ở Berlin, vua Friedrich Wilhelm III đã từ chối. Một cuộc nổi dậy của thiếu tá Ferdinand von Schill đã thất bại vào tháng 5 năm 1809 ở Stralsund.

Quân đội Pháp đã thắng Áo vào ngày 5 và 6 tháng 7 trong trận chiến ở Wagram; chấm dứt cuộc chiến. Franz I hạ bệ bộ trưởng lãnh đạo Johann Philipp von Stadion và thay thế ông ta bằng nhà ngoại giao Klemens Wenzel Lothar von Metternich, lúc đó mới 36 tuổi. Sau hòa ước Schönbrunn với Pháp, Metternich xếp đặt cuộc đám cưới của Napoléon với con gái của Franz là Maria Ludovica.

Những cuộc chiến đấu sau này chống lại Napoléon, mà có sự tham dự của Áo, đã thành công hơn. Franz I vì vậy có thể tổ chức hội nghị Viên 1814 / 1815, qua đó với sự điều khiển của Metternich dưới sự có mặt nhiều vua chúa, lục địa đã thành lập một trật tự mới. Các thế lực bảo thủ, mà đứng đầu là Áo, đã thành lập năm 1815 tại Paris Liên hiệp Thần thánh để bảo vệ trật tự quân chủ mà cho đó là ý muốn của thượng đế.

Chính sách đối nội

Các sự kiện bạo lực của Cách mạng Pháp đã khắc sâu vào tâm trí của Franz (cũng như tất cả các vị vua châu Âu khác), và ông bắt đầu nghi ngờ chủ nghĩa cấp tiến dưới mọi hình thức. Năm 1794, một âm mưu của "Jacobin" đã bị phát hiện trong quân đội Áo và Hungary. Các nhà lãnh đạo đã bị đưa ra xét xử, nhưng các bản án chỉ gói gọn phạm vi là một âm mưu. Em trai của Franz là Franz Alexander Leopold (lúc đó là Palatine của Hungary) đã viết thư cho Hoàng đế thừa nhận rằng "Mặc dù chúng tôi đã bắt được rất nhiều thủ phạm, nhưng chúng tôi vẫn chưa thực sự đi đến tận cùng của công việc này." Tuy nhiên, hai sĩ quan có liên quan lớn nhất đến âm mưu đã bị treo cổ, trong khi nhiều người khác bị kết án tù (nhiều người trong số họ đã qua đời vì nhiều lý do).

Từ kinh nghiệm của mình, Franz đã nghi ngờ và thiết lập một mạng lưới cảnh sát gián điệp và kiểm duyệt rộng khắp để theo dõi những người bất đồng chính kiến (trong việc này, ông đã làm theo sự lãnh đạo của cha mình, vì Đại công quốc Toscana có lực lượng cảnh sát mật hiệu quả nhất tại châu Âu). Ngay cả gia đình Franz cũng không thoát khỏi sự chú ý. Anh em của ông là Đại vương công Karl và Johann đều bị theo dõi các cuộc họp và hoạt động. Kiểm duyệt cũng trở nên phổ biến khi Franz Grillparzer, một người tôn sùng nhà Habsburg đã có một vở kịch bị cấm chỉ vì biện pháp "phòng ngừa". Khi Grillparzer gặp người chịu trách nhiệm kiểm duyệt, ông đặt câu hỏi điều gì đã khiến tác phẩm của mình bị cấm, nhưng chỉ nhận được câu trả lời từ người kiểm duyệt: "Ồ, không có gì cả. Nhưng ta tự nghĩ rằng: Người ta không bao giờ nói được."

Trong các vấn đề quân sự, Franz đã cho phép em trai là Đại vương công Karl kiểm soát rộng rãi quân đội trong các cuộc chiến tranh Napoléon. Tuy nhiên, không tin tưởng vào việc cho phép bất kỳ cá nhân nào có quá nhiều quyền lực, mặt khác, ông vẫn duy trì sự phân chia chức năng chỉ huy giữa Hofkriegsrat và các chỉ huy chiến trường của mình. Trong những năm cuối của triều đại, ông đã hạn chế chi tiêu quân sự, yêu cầu không vượt quá 40 triệu florin mỗi năm; vì lạm phát, điều này dẫn đến không đủ kinh phí, với phần ngân sách dành cho quân đội giảm từ một nửa vào năm 1817 xuống chỉ còn 23% vào năm 1830.

Franz thể hiện mình là một vị vua cởi mở và dễ gần, khi ông thường dành hai buổi sáng mỗi tuần để gặp gỡ thần dân, bất kể địa vị, theo lịch hẹn tại văn phòng của mình, thậm chí còn nói chuyện bằng ngôn ngữ của họ. Năm 1804, ông không ngần ngại tuyên bố rằng thông qua quyền lực của mình với tư cách là Hoàng đế La Mã Thần thánh, ông tuyên bố mình hiện là Hoàng đế của Áo (vào thời điểm đó, một đây là thuật ngữ địa lý ít được biết đến). Hai năm sau, đích thân Franz đã thành lập Quốc gia Đức trong Đế chế La Mã Thần thánh đang hấp hối. Cả hai hành động đều có tính hợp pháp đáng ngờ.

Để tăng thêm tình cảm yêu nước trong cuộc chiến tranh với Pháp, bài quốc ca "Gott erhalte Franz den Kaiser" được sáng tác vào năm 1797 bởi Joseph Haydn, được xem như một bài thánh ca. Lời bài hát đã được chuyển thể cho các Hoàng đế sau này và âm nhạc tồn tại với tên gọi Deutschlandlied.

Những năm cuối đời

thumb|left|272x272px|Chân dung của Franz I khi về già, được vẽ bởi [[Friedrich von Amerling, ]] Vào ngày 2 tháng 3 năm 1835, 43 năm và 1 ngày sau cái qua đời của cha mình, Franz qua đời ở thủ đô Viên vì một cơn sốt đột ngột ở tuổi 67, trước sự chứng kiến của nhiều người trong gia đình và với tất cả những nghi thức tôn giáo. trong ba ngày. Franz được an táng tại nơi an nghỉ truyền thống của các vị vua thuộc Vương tộc Habsburg, Hầm mộ Hoàng gia Kapuziner tại Quảng trường Neue Markt, Viên. Ông được chôn cất tại ngôi mộ số 57, xung quanh là bốn người vợ của ông.

Franz đã thông qua một điểm chính trong di chúc chính trị mà ông để lại cho con trai và người thừa kế Ferdinand: "giữ gìn sự đoàn kết trong gia tộc và coi đó là một trong những điều tốt đẹp nhất." Trong nhiều bức chân dung (đặc biệt là những bức do Peter Fendi vẽ), ông được miêu tả là một người đứng đầu gia tộc, nhận được sự yêu thương của mọi người, luôn được bao quanh bởi con cháu.

Hôn nhân

Franz II kết hôn bốn lần:

Ngày 6 tháng 1 năm 1788, kết hôn với Elisabeth xứ Württemberg (21 tháng 4 năm 1767 – 18 tháng 2 năm 1790).

Ngày 15 tháng 9 năm 1790, kết hôn với người em họ đời đầu là Maria Teresa của Napoli và Sicilia (6 tháng 6 năm 1772 – 13 tháng 4 năm 1807), con gái của Vua Ferdinando I của Hai Sicilie (cả hai đều là cháu của Hoàng hậu Maria Theresia của Áo), ông có mười hai người con, trong đó chỉ có bảy người sống đến tuổi trưởng thành.

Ngày 6 tháng 1 năm 1808, ông kết hôn lần nữa với một người em họ khác, Maria Ludovika của Áo–Este (14 tháng 12 năm 1787 – 7 tháng 4 năm 1816), không để lại hậu duệ. Cô là con gái của Đại vương công Ferdinand của Áo–Este và Maria Beatrice d'Este, Công nữ Modena.

Ngày 29 tháng 10 năm 1816, kết hôn với Karoline Charlotte Auguste của Bayern (8 tháng 2 năm 1792 – 9 tháng 2 năm 1873) không để lại người thừa kế. Cô là con gái của Maximilian I Joseph của Bayern và trước đó đã kết hôn với Wilhelm I của Württemberg.

Con cái

Franz có một con gái với người vợ đầu tiên và 8 người con gái và 4 con trai với người vợ thứ 2.

Tước hiệu, danh hiệu và huy hiệu

Huy hiệu

Phả hệ

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Franz II** (tiếng Anh: Francis II; 12 tháng 2 năm 1768 – 2 tháng 3 năm 1835) là Hoàng đế cuối cùng của Đế quốc La Mã Thần thánh (1792 – 1806) với đế hiệu
**François I** (tiếng Pháp) hay **Franz I** (tiếng Đức) (8 tháng 12 năm 1708 – 18 tháng 8 năm 1765)), còn được gọi là **François Étienne** (tiếng Pháp) hoặc **Franz Stephan** (tiếng Đức), là Hoàng
**Joseph II** (tên đầy đủ là **Joseph Benedikt Anton Michael Adam**; sinh ngày 13 tháng 3 năm 1741, mất ngày 20 tháng 2 năm 1790) là Hoàng đế của đế quốc La Mã Thần thánh
**Leopold II** (tiếng Đức: _Peter Leopold Josef Anton Joachim Pius Gotthard_; tiếng Ý: _Pietro Leopoldo Giuseppe Antonio Gioacchino Pio Gottardo_; tiếng Anh: _Peter Leopold Joseph Anthony Joachim Pius Godehard_; 5 tháng 5 năm 1747 1
**Leopold I** (Tiếng Đức: _Leopold Ignaz Joseph Balthasar Franz Felician_; Tiếng Hungary: _I. Lipót_; 9 tháng 6 năm 1640 - 5 tháng 5 năm 1705) là Hoàng đế La Mã Thần thánh, Vua của Hungary,
nhỏ|Huy hiệu của [[Maximilian II của Thánh chế La Mã|Maximilian II từ 1564 tới 1576. Các hoàng đế sử dụng đại bàng hai đầu làm biểu tượng quyền lực]] **Hoàng đế La Mã Thần thánh**
**Giáo phận Vương quyền Salzburg** (tiếng Đức: _Fürsterzbistum Salzburg_) là một Điền trang hoàng gia và nhà nước giáo hội của Đế quốc La Mã Thần thánh. Nó là một lãnh thổ thế tục được
thumb|Bản đồ đế quốc La Mã Thần Thánh dưới triều Hoàng đế [[Karl IV của Thánh chế La Mã|Karl IV]] **Đế quốc La Mã Thần Thánh** (tiếng Latinh: _Sacrum Romanum Imperium_; tiếng Đức: _Heiliges Römisches
**Eugen Alexander Franz xứ Thurn và Taxis**, (tiếng Đức: _Eugen Alexander Franz Fürst von Thurn und Taxis_; ngày 11 tháng 1 năm 1652 – 21 tháng 2 năm 1714) là Thân vương đầu tiên xứ
**Anhalt-Bernburg** là một Thân vương quốc của Đế chế La Mã Thần thánh và là một công quốc của Liên bang Rhein và Bang liên Đức. Nó được cai trị bởi các nhánh thuộc dòng
**Tuyển hầu xứ Salzburg** (tiếng Đức: _Kurfürstentum Salzburg_ hay _Kursalzburg_), đôi khi được gọi là **Đại công quốc Salzburg**, là một Tuyển đế hầu của Đế quốc La Mã Thần thánh từ năm 1803–1805, tiền
**Maria Theresia Walburga Amalia Christina của Áo** (; 13 tháng 5, năm 1717 - 29 tháng 11, năm 1780) là một thành viên và cũng là Nữ quân vương duy nhất của Nhà Habsburg, một
**Nhà Liechtenstein** (tiếng Đức: _Haus Liechtenstein_) là gia tộc hoàng gia cai trị Thân vương quốc Liechtenstein, theo luật định, chỉ có những thành viên gia tộc này mới đủ điều kiện thừa kế ngai
**Công quốc Lorraine** ( ; ) ban đầu có tên là **Thượng Lorraine**, là một Công quốc thuộc Đế quốc La Mã Thần thánh, lãnh thổ của nó hiện nay nằm trong Vùng Lorraine, Đông
**Franz Karl Joseph của Áo** (17 tháng 12 năm 1802 - 8 tháng 3 năm 1878) là thành viên của Vương tộc Habsburg-Lothringen. Ông là cha của hai hoàng đế: Franz Joseph I của Áo
**Maria Karolina của Áo** (; tên đầy đủ: _Maria Karolina Luise Josepha Johanna Antonia_; 13 tháng 8 năm 1752 – 8 tháng 9 năm 1814) là Vương hậu của Napoli và Sicilia với tư cách
**María Luisa của Tây Ban Nha hay María Luisa de Borbón y Wettin** (tiếng Tây Ban Nha: _María Luisa de España_, tiếng Đức: _Maria Ludovica von Spanien_; 24 tháng 11 năm 1745 – 15 tháng
**Leopoldo II** (tiếng Ý: _Leopoldo Giovanni Giuseppe Francesco Ferdinando Carlo_; tiếng Đức: _Leopold Johann Joseph Franz Ferdinand Karl_; tiếng Anh là _Leopold John Joseph Francis Ferdinand Charles_; 3 tháng 10 năm 1797 – 29 tháng
**Maria Ludovica của Áo** (12 tháng 12, năm 1791 - 17 tháng 12, năm 1847), sinh ra là một Nữ Đại vương công Áo, năm 1810 bà trở thành vợ của Hoàng đế Napoleon I
**Liechtenstein** (, phiên âm: _"Lích-tân-xtai"_) (), tên chính thức **Thân vương quốc Liechtenstein** (), là một quốc gia vùng Alps nhỏ bao quanh bởi các nước không giáp biển ở Trung Âu, giáp với các
**Maria Christina** (đôi khi được viết là **_Marie Christine_**) **Johanna Josepha Antonia** (sinh ngày 13 tháng 5 năm 1742 - mất ngày 24 tháng 6 năm 1798), còn được gọi là **Maria Christina của Áo**
**Maximilian I Joseph** (; 27 tháng 5 năm 1756 tại Schwetzingen, gần Mannheim – 13 tháng 10 năm 1825 tại München) là Công tước xứ Zweibrücken từ năm 1795, trở thành Tuyển hầu xứ Bayern
**Maria Antonia của Áo** (tiếng Đức: _Maria Antonia von Österreich_; 2 tháng 11 năm 1755 – 16 tháng 10 năm 1793), nguyên là Nữ Đại công tước Áo, thường được biết đến với tên Pháp
**Pedro II** (tiếng Anh: _Peter II_; 02 tháng 12 năm 1825 - 5 tháng 12 năm 1891), có biệt danh là "**Người cao thượng**", là vị hoàng đế thứ 2 và cuối cùng của Đế
thumb|Huy hiệu của dòng Ernestines **Các công quốc Ernestine** (tiếng Đức: _Ernestinische Herzogtümer_), còn được gọi là các công quốc Sachsen (Sächsische Herzogtümer, mặc dù các công quốc được cai trị bởi dòng Albertine gồm
**Maria Anna của Áo** (_Maria Anna von Österreich_) có thể chỉ đến những người sau: * Maria Anna của Áo (1606–1646), con gái của Felipe III của Tây Ban Nha và Margarete của Áo, Hoàng
**Sophie Friederike của Bayern** (tiếng Đức: _Sophie Friederike von Bayern_; tên đầy đủ: _Sophie Friederike Dorothea Wilhelmine von Wittelsbach_; 27 tháng 1 năm 1805 – 28 tháng 5 năm 1872) là con gái của Maximilian
**Tuyển hầu quốc Hannover** ( hoặc đơn giản là _Kurhannover_; ) là một Tuyển hầu quốc của Đế quốc La Mã Thần thánh, toạ lạc ở Tây Bắc nước Đức hiện nay. Tên của nó
**Karl I xứ Braunschweig-Wolfenbüttel** (1 tháng 08 năm 1713, Braunschweig - 26 tháng 03 năm 1780, Braunschweig), đôi khi viết là **Carl I**, là Công tước xứ Braunschweig và Lüneburg (_Herzöge zu Braunschweig und Lüneburg_)
**Margarita Teresa của Tây Ban Nha** (tiếng Tây Ban Nha: _Margarita Teresa de España_, tiếng Đức: _Margarethe Theresia von Spanien_; tiếng Anh: _Margaret Theresa of Spain_; 12 tháng 7 năm 1651 – 12 tháng 3
**Tuyển hầu xứ Württemberg** (tiếng Đức: _Kurfürstentum Württemberg_) là một nhà nước tồn tại trong thời gian ngắn trong Đế chế La Mã Thần thánh ở hữu ngạn sông Rhein. Năm 1803, Đệ Nhất Tổng
**Hoàng hậu** (chữ Hán: 皇后; Kana: こうごうKōgō; Hangul: 황후Hwang Hu; tiếng Anh: Empress consort) là danh hiệu dành cho chính thê của Hoàng đế, bởi Hoàng đế sách lập. Danh hiệu này tồn tại trong
**Chế độ quân chủ Habsburg** () hoặc **đế quốc Habsburg** là một tên gọi không chính thức giữa các nhà sử học của các quốc gia và tỉnh được cai trị bởi các chi nhánh
thumb|[[Carlo Ferdinando của Hai Sicilie|Carlo Ferdinando của Hai Siclie, Thân vương xứ Capua (trên cùng), cùng với người vợ quý tiện kết hôn của mình Anh-Ailen Penelope Smyth (trái), và con gái của họ, Vittoria
nhỏ|[[Vương miện Thần thánh Hungary|Vương miện Thần thánh của Hungary (Vương miện của Thánh Stephen)]] **Lễ đăng quang của quốc vương Hungary** là một buổi lễ trong đó vua hoặc nữ vương của Vương quốc
Cờ của hoàng tộc Habsburg Huy hiệu của hoàng tộc Habsburg thumb|Lâu đài Habsburg nguyên thủy, nơi phát tích gia tộc Habsburg, nay thuộc Thụy Sĩ **Nhà Habsburg** (tiếng Đức: _Haus Habsburg_ [ˈhaːpsbʊʁk]; tiếng Tây
**Công quốc Áo** () là một công quốc thời Trung cổ của Đế chế La Mã Thần thánh, được thành lập vào năm 1156 bởi _Privilegium Minus_, khi Phiên hầu quốc Áo (Ostarrîchi) tách khỏi
**Léopold II của Bỉ** (tiếng Pháp: _Léopold Louis Philippe Marie Victor_, tiếng Hà Lan: _Leopold Lodewijk Filips Maria Victor_; 9 tháng 4 năm 1835 – 17 tháng 12 năm 1909) là vị vua thứ hai
**Ludovico I của Etruria** (tiếng Tây Ban Nha: _Luis I de Etruria_;tiếng Pháp: _Luis I d'Étrurie_; 5 tháng 7 năm 1773 – 27 tháng 5 năm 1803) là vị vua đầu tiên trong hai vị
**Maria Cristina của Sardegna** (tên đầy đủ: _Maria Cristina Carlotta Giuseppa Gaetana Efisia_; 14 tháng 11 năm 1812 – 21 tháng 1 năm 1836) là con gái của Vittorio Emanuele I của Sardegna và Maria
**Hohenzollern-Hechingen** là một cựu Thân vương quốc nằm ở phía Tây Nam nước Đức. ## Lịch sử trái|nhỏ|Lâu đài New Castle ở Hechingen Bá quốc **Hohenzollern-Hechingen** được thành lập vào năm 1576 từ việc phân
**Friedrich II** (24 tháng 1 năm 171217 tháng 8 năm 1786) là vua nước Phổ trị vì từ ngày 31 tháng 5 năm 1740 cho đến khi qua đời vào ngày 17 tháng 8 năm
**Chiến tranh Ba Mươi Năm** bắt đầu từ năm 1618, kết thúc năm 1648, chủ yếu diễn ra tại vùng nay là nước Đức và bao gồm hầu hết các cường quốc của châu Âu
**Louis XV** (15 tháng 2 năm 1710 – 10 tháng 5 năm 1774), biệt danh **Louis Đáng yêu**, là quân vương của Vương tộc Bourbon, giữ tước hiệu Vua của Pháp từ 1 tháng 9
thumb|Huy hiệu của [[Thurn và Taxis#Các Thân vương của Gia tộc Thurn và Taxis|Thân vương xứ Thurn và Taxis]] **Vương tộc Thurn và Taxi** (tiếng Đức: **Fürstenhaus Thurn und Taxis** ) là một gia đình
nhỏ|phải|alt=Political map of central Europe showing the 26 areas that became part of the united German Empire in 1891. Germany based in the northeast, dominates in size, occupying about 40% of the new empire.|Bản đồ
**Karl Theodor** (11 tháng 12 năm 1724 – 16 tháng 2 năm 1799) là Bá tước Pfalz-Sulzbach từ năm 1733, sau cái chết của cha mình; từ năm 1742, sau cái chết của người họ
nhỏ|Bản đồ của Heitersheim (màu đỏ) trước năm 1803 **Thân vương quốc Heitersheim** (_Fürstentum Heitersheim_) là một thành bang của Đế quốc La Mã Thần thánh, tồn tại từ năm 1548 đến năm 1806. Đây
::link= _"Florence" được chuyển hướng đến đây. Với những mục đích tìm kiếm khác, vui lòng xem Florence (định hướng)._ **Firenze** ( hay còn phổ biến với tên gọi **Florence** trong tiếng Anh và tiếng
**Élisabeth Charlotte xứ Pfalz, Công tước phu nhân xứ Orléans**; ; ; 27 tháng 5 năm 1652 – 8 tháng 12 năm 1722), còn được gọi là **Liselotte von der Pfalz**, là thành viên của