✨Lễ đăng quang của quốc vương Hungary

Lễ đăng quang của quốc vương Hungary

nhỏ|[[Vương miện Thần thánh Hungary|Vương miện Thần thánh của Hungary (Vương miện của Thánh Stephen)]] Lễ đăng quang của quốc vương Hungary là một buổi lễ trong đó vua hoặc nữ vương của Vương quốc Hungary được chính thức đăng quang. Nó có điểm tương đồng với các lễ đăng quang ở các nước theo chế độ quân chủ châu Âu khác. Trong khi ở các nước như Pháp và Anh, triều đại của nhà vua bắt đầu ngay sau cái chết của người tiền nhiệm, thì ở Hungary, lễ đăng quang là một nghi thức không thể thiếu: Nếu nó không được thực hiện đúng cách, Vương quốc sẽ trở thành "mồ côi". Tất cả các quốc vương cần được phong làm Vua Hungary để có thể ban hành luật pháp và thực hiện các đặc quyền hoàng gia tại Vương quốc Hungary. Bắt đầu từ Golden Bull năm 1222, tất cả các quốc vương mới của Hungary phải tuyên thệ trong lễ đăng quang. Họ phải đồng ý duy trì các quy định về hiến pháp của đất nước, bảo vệ quyền tự do của thần dân và sự toàn vẹn lãnh thổ của vương quốc.

Lịch sử

nhỏ|Lễ đăng quang của Vua [[Sigismund của Thánh chế La Mã|Sigismund vào ngày 31 tháng 3 năm 1387]] nhỏ|Lễ đăng quang của Vua [[Stephen III của Hungary|Stephen III vào tháng 6 năm 1162]] nhỏ|Vua Thánh [[László I của Hungary được các thiên thần đăng quang. Hình ảnh từ Biên niên sử Pictum vào thế kỷ 14.]] nhỏ|Lễ đăng quang của [[Matthias của Thánh chế La Mã|Matthias II ở Pozsony năm 1608]] nhỏ|Lễ đăng quang của Vua [[Karl VI của Thánh chế La Mã|Charles III ở Pozsony.]] nhỏ|Lễ đăng quang của [[Maria Theresia của Áo|Nữ vương Maria II Theresa tại Nhà thờ St. Martin vào năm 1741, ở Porzony / Pressburg, nơi tổ chức các lễ đăng quang của Hungary từ năm 1563 đến năm 1830]] nhỏ|Lễ đăng quang của [[Leopold II của Thánh chế La Mã|Leopold II]] nhỏ|Lễ đăng quang của Vua [[Franz Joseph I của Áo|Franz Joseph I và Hoàng hậu Elisabeth vào ngày 8 tháng 6 năm 1867 tại Nhà thờ Matthias ở Budapest, nơi diễn ra hai lễ đăng quang cuối cùng của Hungary vào năm 1867 và 1916]] nhỏ|Vua [[Karl I của Áo|Charles IV, tuyên thệ đăng quang vào ngày 30 tháng 12 năm 1916 khi đứng trên Holy Trinity Column bên ngoài Nhà thờ Matthias]] Trong giai đoạn Trung cổ, tất cả các lễ đăng quang của Hungary đều diễn ra tại Székesfehérvár Basilica, nơi chôn cất của người cai trị đầu tiên của Hungary là Thánh István I. Tổng Giám mục của Esztergom sẽ là người xức dầu cho vua hoặc nữ hoàng. Sau đó, Đức Tổng Giám mục tro Vương miện Thần thánh Hungary và áo choàng của Thánh Stephen cho người được xức dầu. Nhà vua được ban cho một vương trượng và một thanh kiếm biểu thị cho sức mạnh quân sự. Khi lên ngôi, vị vua mới đăng quang tuyên thệ cam kết sẽ tôn trọng các quyền của thần dân. Tổng giám mục Esztergom đã ba lần từ chối chủ trì lễ đăng quang; khi chuyện này xảy ra, Đức Tổng Giám mục Kalocsa sẽ là người cử hành thay thế. Các giáo sĩ và thành viên khác của giới quý tộc cũng tham dự, ngoài ra thành phần tham dự còn có đại diện của các quốc gia nước ngoài; hầu hết những người tham gia buổi lễ được yêu cầu mặc đồng phục theo quy định của nghi lễ hoặc mặc áo choàng..

Theo truyền thuyết, vị vua đầu tiên của Hungary, Thánh Stephen I, đăng quang tại Nhà thờ Thánh Adalbert ở Esztergom vào năm 1000. Sau khi qua đời, ông được chôn cất tại Nhà thờ Székesfehérvár do chính ông yêu cầu xây dựng, đây cũng là nơi ông đã chôn cất người con trai của mình là Thánh Emeric. Nhà thờ này đã trở thành nhà thờ đăng quang truyền thống của các quốc vương Hungary tiếp theo bắt đầu từ Peter Orseolo, cháu trai của Thánh Stephen vào năm 1038 cho đến lễ đăng quang của John Zápolya, trước trận Mohács năm 1526.

Vào năm 1301, sau cái chết của Vua Andrew III, thành viên nam cuối cùng của Nhà Árpád, hậu duệ của Vua Stephen V từ Nhà Anjou ở Capetian: Vua Károly I là người lên ngôi ngai vàng. Tuy nhiên, ông đã phải lên ngôi đến ba lần, lý do bởi vì ông xảy ra mâu thuẫn với các quý tộc, những người không muốn chấp nhận sự cai trị của ông. Ông được tổng giám mục Esztergom đăng quang lần đầu tiên vào tháng 5 năm 1301 tại thành phố Esztergom, nhưng chỉ với một chiếc vương miện đơn giản. Điều này có nghĩa là hai trong số các điều kiện công nhận tính hợp pháp của việc lên ngôi không được đáp ứng. Sau đó, ông được tổng giám mục Esztergom đăng quang lần thứ hai vào tháng 6 năm 1309, nhưng tại thành phố Buda với một chiếc vương miện tạm thời, bởi vì Vương miện của Thánh Stephen vẫn chưa thuộc quyền sở hữu của ông. Cuối cùng, sau khi lấy được Vương miện, Charles đã được đăng quang lần thứ ba tại Nhà thờ chính tòa Székesfehérvár, bởi tổng giám mục Esztergom với Vương miện Thần thánh.

Sau cái chết của Vua Albert vào năm 1439, vợ ông Elizabeth của Luxembourg đã ra lệnh cho một trong những người hầu gái của bà đánh cắp Vương miện Thần thánh được lưu giữ trong lâu đài Visegrád để bà có thể phong vua cho đứa con trai mới sinh của mình là Vua Ladislaus V. Vua Matthias Corvinus lên ngôi vào năm 1458, nhưng mãi đến năm 1464 ông mới được trao vương miện sau khi lấy nó từ tay của Frederick III, Hoàng đế La Mã Thần thánh. Chỉ sau đó, Matthias mới có thể bắt đầu các cải cách thể chế tại Vương quốc và được coi là người cai trị hợp pháp của Hungary.

Khi Vương quốc Hungary bị quân đội Ottoman chiếm đóng vào năm 1526, các quốc vương Habsburg không thể đến thành phố Székesfehérvár để đăng quang. Vì vậy, vào năm 1563 Nhà thờ Thánh Martin ở Pressburg (ngày nay là Bratislava) trở thành nhà thờ đăng quang cho đến năm 1830 khi lễ đăng quang trở lại Székesfehérvár, nhưng không phải là nhà thờ lớn do Thánh Stephen xây dựng vì nó đã bị phá hủy, lý do bởi vì vào năm 1601 khi quân đội Thiên chúa giáo bao vây thành phố, người Ottoman sử dụng nhà thờ để chứa thuốc súng, và trong cuộc tấn công này tòa nhà đã bị phá hủy.

Những yêu cầu pháp lý cho lễ đăng quang

Những người trị vì của Hungary không được coi là quốc vương hợp pháp cho đến khi họ được trao Vương miện Thần thánh của Hungary. Mặc dù phụ nữ không được xem là phù hợp cho ngai vàng, đã có hai nữ vương, Mária I và Mária II, đã lên ngôi vua của Hungary.

Ngay cả trong thời kỳ hợp nhất giữa Áo và Vương quốc Hungary, Hoàng đế Habsburg cũng phải lên ngôi Vua của Hungary để ban hành luật hoặc thực hiện các đặc quyền hoàng gia của mình. Người Habsburg duy nhất trị vì mà không đăng quang ở Hungary là Joseph II, người được gọi là kalapos király trong tiếng Hungary ("vua đội mũ"). Trước ông, John Sigismund Zápolya và Gabriel Bethlen được bầu làm vua, nhưng họ không bao giờ được đăng quang và vì vậy, cũng không được chấp nhận rộng rãi. Imre Thököly chỉ được Sultan Mehmed IV tuyên bố là Vua của Vùng Thượng Hungary mà không được đăng quang.

Những nghi thức cuối cùng như vậy diễn ra tại Budapest vào ngày 30 tháng 12 năm 1916, khi Hoàng đế Karl I của Áo và Hoàng hậu Zita lên ngôi với tư cách là Quốc vương Károly IV và Vương hậu Zita của Hungary. Buổi lễ diễn ra gấp rút vì chiến tranh và vì trong hiến pháp ghi rằng quốc vương Hungary phải phê duyệt ngân sách nhà nước trước khi kết thúc năm dương lịch. Tuy nhiên, lễ đăng quang của Charles IV đã được quay video lại, và đây là lễ đăng quang duy nhất của một vị vua Hungary từng được ghi chép theo cách này.

Đế chế Áo-Hung sụp đổ sau khi Chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc, mặc dù Hungary sau đó vẫn khôi phục lại chế độ quân chủ từ năm 1920-45, đồng thời cấm Charles trở lại ngai vàng. Một cuộc tiếp quản của cộng sản vào năm 1945 đã đánh dấu sự diệt vong của "vương quốc không có vua" này.

Yêu cầu pháp lý trong thời Trung cổ

Vào cuối thế kỷ 13, Vương quốc Hungary quy định rằng ba yêu cầu sau đây phải được thực hiện khi một vị vua mới lên ngôi:

  • Đăng quang bởi Tổng giám mục Esztergom;
  • Đăng quang với Vương miện Thần thánh Hungary;
  • Đăng quang ở Székesfehérvár.

Sau năm 1387, bầu chọn ra một vị vua mới trở thành tập quán, mặc dù yêu cầu này đã bị xoá bỏ khi nguyên tắc cha truyền con nối ra đời vào năm 1688. Kể từ đó, các vị vua được yêu cầu ban hành một tuyên bố chính thức thề tôn trọng hiến pháp của vương quốc.

Béla III của Hungary là người đầu tiên thực hiện yêu cầu đăng quang bởi Tổng giám mục Esztergom, đây là người đã được Tổng giám mục Kalocsa đăng quang dựa trên sự ủy quyền đặc biệt của Giáo hoàng Alexander III. Tuy nhiên, năm 1211, Giáo hoàng Innocent III đã tuyên bố rằng chỉ một mình Tổng giám mục Esztergom, và không có giám mục nào khác, được quyền trao vương miện cho Quốc vương Hungary.

Lễ đăng quang

Nghi thức đăng quang của Hungary bám sát theo nghi thức La Mã về việc đăng quang của các vị vua ([http://www.liturgialatina.org/pontificale/120.htm De Benedictione et Coronatione Regis]).

Theo phong tục cổ đại, ngay trước lễ đăng quang, Tổng giám mục Esztergom sẽ trao Vương miện cho Bá tước Palatine (Nádor), người sẽ nâng nó lên trước mặt người dân xem và hỏi liệu họ có chấp nhận người được bầu làm vua không. Sau khi dân chúng hô: "Nhất trí, đức vua muôn năm!", một giám mục sẽ giới thiệu nhà vua với Tổng giám mục để yêu cầu ông nhân danh Giáo hội tiến hành lễ đăng quang. Đức Tổng Giám mục hỏi nhà vua ba câu hỏi — liệu ngài có đồng ý bảo vệ đức tin, đồng ý bảo vệ Giáo hội và đồng ý bảo vệ vương quốc không — với mỗi câu hỏi, nhà vua trả lời: "Tôi sẽ làm." Sau đó, nhà vua tuyên thệ: "Tôi, N., cam kết trước mặt Thiên Chúa và các thiên thần," v.v. Đức Tổng Giám mục nói lời cầu nguyện và nhà vua sẽ quỳ trước bàn thờ khi Kinh Cầu Các Thánh được cất lên. Sau đó, Đức Tổng Giám mục xức dầu cho nhà vua trên cánh tay phải và tiếp tục nói lời cầu nguyện.

Nhà vua được nhận thanh kiếm của Thánh Stephen và sẽ vung kiếm ba lần. Sau đó, Đức Tổng giám mục sẽ trao Vương miện thần thánh cho nhà vua và nói "Hãy chấp nhận chiếc vương miện hoàng gia này," v.v.

Một quả cầu được đặt vào tay trái của nhà vua và ông chính thức lên ngôi. Người dân sẽ chào mừng nhà vua bằng việc hô vang: "Cuộc sống, sức khỏe, hạnh phúc, chiến thắng!".

Tiếp theo, vị vua mới đăng quang sẽ đi lên một ngọn đồi được đắp từ đất của tất cả các vùng đất trong vương quốc. Trên đỉnh đồi, ông hướng thanh kiếm của hoàng gia ra bốn góc, thề sẽ bảo vệ vương quốc và tất cả thần dân của vương quốc. Các quý tộc và thần dân của vương quốc sẽ chào mừng vị vua mới của họ với ba tràng vỗ tay và bày tỏ lòng tôn kính với Đức vua.

Sau buổi lễ, cặp đôi hoàng gia được tổ chức một màn lễ hoành tráng trên đường tiến về lâu đài hoàng gia.

Ngày đăng quang 1000–1916

nhỏ|[[Nhà thờ thánh Martin, Bratislava|Nhà thờ thánh Martin ở Pozsony, nơi tổ chức các lễ đăng quang của Hungary từ năm 1563 đến năm 1830]] nhỏ|[[Nhà thờ Matthias ở Budapest, nơi diễn ra hai lễ đăng quang cuối cùng của người Hungary vào năm 1867 và 1916]]

Cung điện ở Székesfehérvár

Nhà thờ của thánh Martin ở Pozsony / Pressburg (nay là Bratislava)

  • Maximilian (8 tháng 9, 1563) ** Maria của Tây Ban Nha, vợ của Maximilian (ngày 9 tháng 9 năm 1563)
  • Rudolf (ngày 25 tháng 9 năm 1572)
  • Matthias II (ngày 19 tháng 11 năm 1608) ** Anna của Tyrol, vợ của Matthias II (ngày 25 tháng 3 năm 1613)
  • Ferdinand II (ngày 1 tháng 7 năm 1618) Eleanor Gonzaga, vợ thứ hai của Ferdinand II (ngày 26 tháng 7 năm 1622) Maria Anna người Tây Ban Nha, vợ đầu tiên của Ferdinand III (14 tháng 2 năm 1638)
  • Ferdinand IV (ngày 16 tháng 6 năm 1647) ** Eleanor Gonzaga, vợ thứ ba của Ferdinand III (ngày 6 tháng 6 năm 1655)
  • Leopold I (ngày 27 tháng 6 năm 1655)
  • Joseph I (ngày 9 tháng 12 năm 1687)
  • Charles III (ngày 22 tháng 5 năm 1712) ** Elisabeth Christine của Brunswick-Wolfenbuttel, vợ của Charles III (18 tháng 10 năm 1714)
  • Mária II Terézia (ngày 25 tháng 6 năm 1741)
  • Leopold II (ngày 15 tháng 11 năm 1790) Maria Ludovika ở Austria-Este, vợ thứ ba của Francis I (ngày 7 tháng 9 năm 1808) Caroline Augusta người Bavaria, vợ thứ tư của Francis I (ngày 25 tháng 9 năm 1825)
  • Ferdinand V (28 tháng 9 năm 1830)
👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
nhỏ|[[Vương miện Thần thánh Hungary|Vương miện Thần thánh của Hungary (Vương miện của Thánh Stephen)]] **Lễ đăng quang của quốc vương Hungary** là một buổi lễ trong đó vua hoặc nữ vương của Vương quốc
** Đế quốc Áo-Hung**, **Nền quân chủ kép**, hoặc gọi đơn giản là _Áo_, là một chính thể quân chủ lập hiến và cường quốc ở Trung Âu. Đế quốc Áo-Hung được thành lập năm
**István I**, còn được gọi là **Vua thánh** **Stêphanô** ( ; ; hay ; – 15 tháng 8 năm 1038), là đại vương công cuối cùng của người Magyar từ năm 997 đến năm 1000/1001
**Franz Joseph I Karl của Áo** - tiếng Đức, **I. Ferenc Jozséf** theo tiếng Hungary, còn viết là **Franz Josef I** (18 tháng 8 năm 1830 - 21 tháng 11 năm 1916) của nhà Habsburg
**Maria Theresia Walburga Amalia Christina của Áo** (; 13 tháng 5, năm 1717 - 29 tháng 11, năm 1780) là một thành viên và cũng là Nữ quân vương duy nhất của Nhà Habsburg, một
**_Quốc vương_** (tựa gốc tiếng Anh: **_The King_**) là một bộ phim đề tài lịch sử năm 2019, phỏng theo một số vở kịch thuộc tuyển tập "Henriad" của William Shakespeare. Bộ phim được đạo
**Otto I Đại đế** (23 tháng 11 năm 912 – 7 tháng 5 năm 973), thuộc dòng dõi Liudolfinger, con trai của Heinrich Người săn chim và Mathilde của Ringelheim, là Công tước Sachsen, vua
nhỏ|235x235px|[[Vương miện Thần thánh Hungary|Vương miện Hungary]] **Vua của Hungary** () là người đứng đầu của Vương quốc Hungary từ năm 1000 (hoặc 1001) đến năm 1918, có tước hiệu là "**Vua Tông đồ Hungary**"
**Leopold II** (tiếng Đức: _Peter Leopold Josef Anton Joachim Pius Gotthard_; tiếng Ý: _Pietro Leopoldo Giuseppe Antonio Gioacchino Pio Gottardo_; tiếng Anh: _Peter Leopold Joseph Anthony Joachim Pius Godehard_; 5 tháng 5 năm 1747 1
phải|nhỏ|Tượng Karl IV ở [[Praha, Cộng hòa Séc]] **Karl IV** (; ; ; 14 tháng 5 năm 1316 - 29 tháng 11 năm 1378) của Praha, tên lúc sinh ra là **Wenzel** (Václav), là vua
**Franz II** (tiếng Anh: Francis II; 12 tháng 2 năm 1768 – 2 tháng 3 năm 1835) là Hoàng đế cuối cùng của Đế quốc La Mã Thần thánh (1792 – 1806) với đế hiệu
**Maximilian II** (31 tháng 7 năm 1527 – 12 tháng 10 năm 1576) là Hoàng đế La Mã Thần thánh từ năm 1564 cho đến khi ông qua đời năm 1576. Là thành viên của
**Petar I** (;  – 16 tháng 8 năm 1921) là Vua của Vương quốc Serbia từ ngày 15 tháng 6 năm 1903 đến ngày 1 tháng 12 năm 1918. Ngày 1 tháng 12 năm 1918,
**Karl V** (tiếng Tây Ban Nha: _Carlos_; tiếng Đức: _Karl_; tiếng Hà Lan: _Karel_; tiếng Ý: _Carlo_) (24 tháng 2 năm 1500 – 21 tháng 9 năm 1558) là người đã cai trị cả Đế
**Edward VII của Anh** (Albert Edward; 9 tháng 11 năm 1841 – 6 tháng 5 năm 1910) là Quốc vương Vương quốc Anh và các quốc gia tự trị của Anh, và Hoàng đế Ấn
**Philippe II Auguste** (21 tháng 8 năm 1165 - 14 tháng 7 năm 1223) là vua Pháp từ năm 1180 đến khi băng hà. Là một thành viên của nhà Capet, Philippe Auguste sinh ra
thumb|right|Họa tiết trang trí đặc trưng nhất là phong cách [[hình lá cọ giống như trên tấm túi da của kỵ sĩ này.]] thumb|right|Nhiều ngôi làng theo phong cách Romanesque ở Hungary được thiết kế
**Louis XV** (15 tháng 2 năm 1710 – 10 tháng 5 năm 1774), biệt danh **Louis Đáng yêu**, là quân vương của Vương tộc Bourbon, giữ tước hiệu Vua của Pháp từ 1 tháng 9
**Henry V** (16 tháng 9 năm 1386 – 31 tháng 8 năm 1422) là vua nước Anh cai trị từ năm 1413 tới khi băng hà. Trong triều đại ngắn ngủi của mình, vua Henry
**Nikolas I** (6 tháng 7 [lịch cũ 25 tháng 6] 1796 – 2 tháng 3 [lịch cũ 18 tháng 2] 1855) là Hoàng đế Nga, Vua của Vương quốc Lập hiến Ba Lan và Đại
**Friedrich II** (24 tháng 1 năm 171217 tháng 8 năm 1786) là vua nước Phổ trị vì từ ngày 31 tháng 5 năm 1740 cho đến khi qua đời vào ngày 17 tháng 8 năm
:**_Thổ hoàng** đổi hướng đến trang này, xem các nghĩa khác tại thổ hoàng (màu sắc) và làng Thổ Hoàng_ ## Bộ máy hành chính Từ năm 1299 đến 1922, các vua nhà Ottoman cai
**Hungary** () là một quốc gia không giáp biển thuộc khu vực Trung Âu. Có diện tích thuộc lưu vực Carpathian, nước này giáp với Slovakia về phía bắc, Ukraine về phía đông bắc, Romania
**Jan III Sobieski** (17 tháng 8 năm 1629 - 17 tháng 6 năm 1696) là một trong những vị vua nổi tiếng nhất của Vương quốc Ba Lan và Đại Công quốc Litva, là vua
**Maria Antonia của Áo** (tiếng Đức: _Maria Antonia von Österreich_; 2 tháng 11 năm 1755 – 16 tháng 10 năm 1793), nguyên là Nữ Đại công tước Áo, thường được biết đến với tên Pháp
thumb|Bản sao của [[Vương miện của Bolesław I Dũng cảm, quả cầu hoàng gia và vương trượng được dùng trong lễ đăng quang của Stanisław August Poniatowski năm 1764]] thumb|right|Biểu chương của Vua [[August III
**Casimir III Vĩ đại** (tiếng Ba Lan: Kazimierz III Wielki; 30 tháng 4 năm 1310 – 5 tháng 11 năm 1370) làm vua Ba Lan từ năm 1333 đến năm 1370. Ông là con trai
**Marie Valerie của Áo** (tiếng Đức: _Marie Valerie von Österreich_; 22 tháng 4 năm 1868 – 6 tháng 9 năm 1924) là con út của Franz Joseph I của Áo và Elisabeth xứ Bayern. Nữ
Theo chiều kim đồng hồ, từ trên cùng bên trái: [[Tòa án Hình sự Quốc tế phát lệnh bắt giữ Tổng thống Nga Vladimir Putin và Maria Lvova-Belova; Tàu lặn Titan phát nổ trong chuyến
thumb|upright|Vương miện Thần thánh Hungary thumb|upright|Vương miện Thần thánh Hungary (nhìn ở đằng sau) **Vương miện Thần thánh Hungary** hay **Vương miện của thánh Stephan** (, là vương miện đăng quang cho hầu hết các
**Nhà vua András II** (, , , ; cuộc đời từ 117721 tháng 9 năm 1235), còn được biết đến là **András của Jerusalem**, là Vua của Hungary và Croatia từ năm 1205 đến năm
**Carlos III của Tây Ban Nha** (Tiếng Anh: _Charles III_; Tiếng Ý và Tiếng Napoli: _Carlo Sebastiano_; Tiếng Sicilia: _Carlu Bastianu_; Sinh ngày 20/01/1716 - Mất ngày 14/12/1788) là Công tước có chủ quyền xứ
**Philippe V của Pháp** (; khoảng 1292/93 - 3 tháng 1 năm 1322), hay **Felipe II của Navarra** (), biệt danh là **Philippe Cao kều** (), là vua Pháp và Navarra, đồng thời cũng là
**Maximiliano I của México** (tiếng Đức: _Ferdinand Maximilian Joseph Maria von Habsburg-Lothringen_; tiếng Tây Ban Nha: _Fernando Maximiliano José María de Habsburgo-Lorena_; 6 tháng 7 năm 1832 - 19 tháng 6 năm 1867) là một
**Juana II của Navarra** (; tiếng Basque: Joana II.a Nafarroakoa; ; 28 tháng 1 năm 1312 - 6 tháng 10 năm 1349) là nữ vương của Navarra từ năm 1328 cho đến khi bà qua
**Margarita Teresa của Tây Ban Nha** (tiếng Tây Ban Nha: _Margarita Teresa de España_, tiếng Đức: _Margarethe Theresia von Spanien_; tiếng Anh: _Margaret Theresa of Spain_; 12 tháng 7 năm 1651 – 12 tháng 3
**Maximilian Franz của Áo**, (tên đầy đủ tiếng Đức là _Maximilian Franz Xaver Joseph Johann Anton de Paula Wenzel von Österreich_; 8 tháng 12 năm 1756 – 27 tháng 7 năm 1801), là Tuyển hầu
**Jadwiga I của Ba Lan** (sinh ngày 3 tháng 10, 1373 và 18 tháng 2, 1374 ở Buda, mất ngày 17 tháng 7 năm 1399 tại Krakow) là Nữ Quốc vương đầu tiên của Ba
**Friedrich Wilhelm IV** (15 tháng 10 năm 1795 – 2 tháng 1 năm 1861) là vua nước Phổ từ ngày 4 tháng 6 năm 1840 cho đến khi băng hà vào ngày 2 tháng 1
**Đức Mẹ Đen của Częstochowa** ( hoặc , ), còn được gọi là **Đức Mẹ Częstochowa**, là một linh ảnh Đức Trinh Nữ Maria được tôn kính và đặt tại Tu viện Jasna Góra ở
**Kiến trúc Hungary** là được hiểu là nền kiến trúc trong lãnh thổ của đất nước Hungary và theo nghĩa rộng hơn là của Vương quốc Hungary, từ thời chinh phạt cho đến ngày nay.
**Maria Karolina của Áo** (; tên đầy đủ: _Maria Karolina Luise Josepha Johanna Antonia_; 13 tháng 8 năm 1752 – 8 tháng 9 năm 1814) là Vương hậu của Napoli và Sicilia với tư cách
**Philippe III** (1 tháng 5 năm 1245 – 5 tháng 10 năm 1285), còn được biết tới với biệt danh là **Táo bạo** (), là Vua của Pháp từ năm 1270 cho đến khi
**Leonor của Castilla,** hay còn được gọi là **Eleonore của Áo** (tiếng Tây Ban Nha: _Leonor de Austria_; tiếng Đức: _Eleonore von Kastilien_; tiếng Bồ Đào Nha: _Leonor da Áustria_; tiếng Pháp: _Éléonore d'Autriche_ hay
**Anne của Bohemia** (, ; 11 tháng 5 năm 1366 – 7 tháng 6 năm 1394), còn được biết đến với cái tên **Anne xứ Luxembourg** (, ), là vương hậu Anh với tư cách
nhỏ|Vương huy của Costanza II của Sicilia **Costanza II của Sicilia** (tiếng Ý: _Costanza II di Sicilia_; 1249 – 9 tháng 4 năm 1302) là Nữ vương Sicilia từ năm 1282 đến năm 1285 và
**Pedro III của Aragon** (, , ; khoảng 1239 – tháng 11 năm 1285) là Vua của Aragón, Vua của Valencia (với hiệu _Pere I_), và Bá tước xứ Barcelona (với hiệu _Pere II_) từ
**Leonor I của Navarra** (tiếng Basque: _Leonor I.a Nafarroakoa_; tiếng Tây Ban Nha: _Leonor I de Navarra_; 2 tháng 2 năm 1426 – 12 tháng 2 năm 1479), là Nữ vương Navarra và Bá tước
nhỏ|Quân thập tự chinh bao vây Damascus năm 1148 **Friedrich I Barbarossa** (1122 – 10 tháng 6 năm 1190) là Hoàng đế của Đế quốc La Mã Thần thánh từ năm 1155 cho đến khi băng
**Đế quốc Byzantine**, còn được gọi là **Đế quốc Đông La Mã**, là sự tiếp nối của Đế quốc La Mã ở các tỉnh phía đông trong thời kỳ Hậu Cổ đại và Trung cổ