✨Đế quốc Đông La Mã
Đế quốc Byzantine, còn được gọi là Đế quốc Đông La Mã, là sự tiếp nối của Đế quốc La Mã ở các tỉnh phía đông trong thời kỳ Hậu Cổ đại và Trung cổ với thủ đô là Constantinople. Nó tồn tại sau sự chia cắt và sụp đổ của Đế quốc Tây La Mã vào thế kỷ 5 và tiếp tục tồn tại thêm một nghìn năm nữa cho đến khi Constantinople sụp đổ trước Đế quốc Ottoman vào năm 1453. Trong phần lớn thời gian tồn tại, đế chế này vẫn là cường quốc kinh tế mạnh nhất, một thế lực văn hóa, quân sự ở châu Âu. Các thuật ngữ "Đế quốc Byzantine" và "Đế quốc Đông La Mã" được đặt ra sau khi vương quốc này kết thúc, còn bản thân các công dân của nó vẫn gọi đế chế của mình là Đế quốc La Mã.
Không thấy một tư liệu chính xác nào về sự khởi đầu của Đế quốc Đông La Mã. Một vài ý kiến cho rằng đế quốc này được thành lập dưới thời cai trị của Hoàng đế Diocletianus (284–305), người đã chia Đế quốc La Mã thành hai nửa đông và tây. Một vài người lại nói rằng đế quốc bắt đầu vào thời của Constantinus I, vị hoàng đế đầu tiên đóng đô tại Constantinopolis. Những ý kiến khẳng định vào thời trị vì của Hoàng đế Theodosius I (379–395) hoặc theo sau cái chết của ông vào năm 395. Một vài người cho vào thời điểm xa hơn vào năm 476 khi đế quốc phía tây sụp đổ. Nhưng hiện nay tư liệu khá chính xác là vào năm 330, khi Constantinus I thành lập tân đô Constantinopolis dưới sự phát triển vượt bậc của văn hóa Ki-tô giáo và thời kỳ văn hóa chịu ảnh hưởng Hy Lạp (quá trình Hy Lạp hóa văn hóa). Đế quốc Đông La Mã đã tồn tại hơn một ngàn năm, từ thế kỷ thứ IV cho đến năm 1453. Trong thời gian tồn tại của nó, từ năm 600,Đông La Mã vẫn là một trong những cường quốc kinh tế, văn hóa, và quân sự lớn mạnh nhất ở châu Âu, bất chấp những thất bại và mất mát lãnh thổ lớn ở Bắc Phi, đặc biệt là trong cuộc Chiến tranh La Mã-Ba Tư, Chiến tranh Ả Rập-Đông La Mã và Chiến tranh Đông La Mã-Bulgaria khiến cho Đế quốc bị suy kiệt về kinh tế lớn. Đế quốc sau đó đã phục hưng dưới triều đại Macedonia, một lần nữa Đông La Mã vươn lên thành liệt cường hàng đầu của vùng Đông Địa Trung Hải vào cuối thế kỷ thứ X, đối địch với Nhà Fatima của người Hồi giáo.
Tuy nhiên, sau năm 1071, nhiều lãnh đổ ở Tiểu Á - trung tâm của đế quốc, bị người Thổ Nhĩ Kỳ Seljuk chiếm đoạt. Mặc dù Vương triều nhà Komnenos đã giành lại một số đất đai và hưng thịnh lại Đế quốc trong một thời gian ngắn trong thế kỷ thứ XII, sau khi Hoàng đế Andronikos I Komnenos qua đời và Vương triều Komnennos cáo chung ở cuối thế kỷ thứ XII, một lần nữa Đế quốc lâm vào suy vong. Đế quốc Đông La Mã bị cuộc Thập tự chinh lần thứ tư giáng một đòn chí mạng vào năm 1204, khiến Đế quốc bị giải thể và các lãnh thổ La Tinh và Hy Lạp thuộc Đông La Mã bị chia cắt.
Vào năm 1261, kinh đô Constantinopolis được giải phóng và Đế quốc Đông La Mã trung hưng, thế nhưng dưới triều các hoàng đế nhà Palaiologos, Đông La Mã chỉ còn là một trong nhiều quốc gia nhỏ đối địch nhau ở khu vực, trong suốt 200 năm tồn tại cuối cùng của nó. Tuy nhiên, trong giai đoạn này, nền văn hóa của Đế quốc sinh sôi nảy nở. Các cuộc biến loạn cung đình xảy ra liên tiếp trong thế kỷ XIV tiếp tục hủy hoại sự thịnh vượng của Đế quốc Đông La Mã, trong khi các lãnh thổ còn lại của Đông La Mã lần lượt bị lấy mất trong cuộc Chiến tranh Đông La Mã-Ottoman, mà đỉnh điểm là sự thất thủ của Constantinopolis và các vùng lãnh thổ còn lại bị Đế quốc Ottoman chinh phục vào thế kỷ thứ XV, đã chấm dứt sự tồn tại của Đế quốc Đông La Mã trong 1000 lịch sử trên lãnh thổ Đông, Nam Âu và Trung Đông.
Sự kiện Constantinopolis thất thủ đã khiến Con đường tơ lụa hoàn toàn sụp đổ, ngăn cản người châu Âu sử dụng các tuyến đường bộ và trên biển vốn trước đây đi qua lãnh thổ Đông La Mã. Đây là một đòn giáng mạnh vào các Thiên chúa quốc và mối quan hệ kinh doanh được thiết lập liên kết với phương đông và một thời đại mới được mở ra cho nhân loại sau khi Đông La Mã sụp đổ đó chính là thời đại khám phá và châm ngòi cho thời kỳ phục hưng diễn ra mạnh mẽ ở toàn bộ châu âu
Ngữ nguyên
Giới sử học hiện đại đồng thuận cho rằng danh xưng "Byzantine" mới được sử dụng từ năm 1557 trở đi để chỉ giai đoạn cuối cùng của Đế quốc La Mã (tức là tận 104 năm sau khi La Mã đã vong tàn). Sử gia người Đức Hieronymus Wolf từng sử dụng danh xưng đó trong bộ sử Corpus Historiæ Byzantinæ của mình. Theo nhà nghiên cứu Anthony Kaldellis, sử gia người Athens tên là Laonikos Chalkokondyles, sống vào giữa thế kỷ thứ 15, là người đầu tiên sử dụng danh xưng "Byzantine" theo nghĩa như hiện nay. Cái tên này bắt nguồn từ "Byzantium", tên thành phố mà Constantinus Đại đế chọn làm kinh đô thay thế Rome, sau được sửa sang lại và đổi tên thành Constantinopolis. Từ đó trở đi, cái tên xưa kia chỉ còn được lưu truyền trong các câu chuyện lịch sử hoặc các bài thi ca. Cuốn Byzantine du Louvre (Corpus Scriptorum Historiae Byzantinae, 1648) và cuốn Historia Byzantina (1680) của Du Cange lại càng lan rộng danh xưng "Byzantine" trong giới nhà văn Pháp, chẳng hạn như Montesquieu. Tuy nhiên phải đến giữa thế kỷ 19, nó mới thực sự được sử dụng thông thường bên phương Tây. Anthony Kaldellis cho rằng nguyên do của điều này là bởi giấc mộng về một quốc gia Đại Hy Lạp trong cuộc chiến Krym.
Cư dân của Đế quốc Byzantine gọi quốc gia của họ là "Đế quốc La Mã" hoặc "Đế quốc của người La Mã" (; ), Romania (; ), Cộng hòa La Mã (; ), hoặc "Rhōmais" trong tiếng Hy Lạp (). Cư dân của Đế quốc tự xưng là Romaioi và tới tận thế kỷ thứ 19, người Hy Lạp hiện đại vẫn xưng là Romaiika "Romaic". Sau năm 1204 khi lãnh thổ của Đế quốc Byzantine dần co lại và tập trung quanh đất Hy Lạp, cái tên 'Hellenes' lại trở nên thịnh hành hơn bao giờ hết.
Trong suốt chiều dài lịch sử, Đế quốc Byzantine là một quốc gia đa sắc tộc và kế thừa các truyền thống Hy-La cổ xưa. Các nước phía tây và phía bắc nhận định đế quốc Byzantine là một quốc gia hoàn toàn bị tính Hy Lạp chi phối. Cuốn Libri Carolini xuất bản vào những năm 790 lần đầu tiên sử dụng danh ngữ "Đế chế của người Hy Lạp" (tiếng Latinh: Imperium Graecorum), và danh ngữ Imperator Graecorum (Hoàng đế của người Hy Lạp) được sử dụng bởi Giáo hoàng John XIII, nhằm đả kích những người Byzantine, Sở dĩ những danh xưng trên được tạo ra là bởi những người phương Tây muốn tỏ sự ngang hàng giữa Đế quốc Frank, tiếp nối bởi Đế chế La Mã Thần thánh, với Đế quốc phương Đông tức là Byzantine.
Sự phân biệt như vậy không tồn tại ở thế giới Hồi giáo và Slav, những nơi mà Byzantine được nhìn nhận đơn giản là sự tiếp nối của Đế chế La Mã. Ở những xứ Hồi giáo, Đế quốc La Mã được gọi là Rûm. Cái tên kê-i Rûm, nghĩa là "quốc gia La Mã", được người Ottoman sử dụng cho đến tận thế kỷ 20 để chỉ các thần dân của Đế quốc Byzantine, tức là cộng đồng Cơ đốc chính thống trong lãnh thổ Ottoman.
Lịch sử
Bối cảnh
nhỏ|Lễ rửa tội Constantinus, bích họa do các học trò của [[Raffaello thực hiện (1520–1524, Điện Tông Tòa, thành phố Vatican). Eusebius của Caesarea ghi lại rằng (giống như chuyện thường xảy ra với người cải sang Kitô giáo thời sơ khai), Constantine chỉ nhận phép rửa tội lúc hấp hối.]] Với quân đội thiện chiến, La Mã đã chinh phục thành công nhiều vùng lãnh thổ bao gồm toàn bộ khu vực Địa Trung Hải và các khu vực ven biển ở phía tây nam châu Âu và Bắc Phi. Những vùng lãnh thổ này là nơi có nhiều nhóm văn hóa khác nhau, từ nguyên thủy tới trình độ rất tinh vi. Nói chung, các tỉnh phía đông Địa Trung Hải có mức độ đô thị hoá và xã hội phát triển hơn so với phía tây, vì trước đây đã được thống nhất dưới thời đế chế Macedonia và đã được Hy Lạp hóa do ảnh hưởng của văn hóa Hy Lạp.
Sự phân chia Đế chế La Mã
Năm 293, Diocletianus thiết lập một cơ cấu hành chính mới (gọi là Tứ đầu chế), để trấn an tình hình các miền đất đang lâm nguy của Đế chế. Ông liên kết với một đồng hoàng đế (Augustus) - người sẽ phải kiếm một đồng sự trẻ tuổi mà phong làm Caesar, để cùng nhau trị vì và sau này kế tục vị cộng sự cao cấp hơn (ở đây chỉ Diocletianus). Tuy nhiên, chính quyền Tứ đầu chế sụp đổ vào năm 313 và vài năm sau Constantinus I trở thành Augustus duy nhất, thống nhất hai nửa của Đế chế.
Năm 330, Constantinus I dời đô về thành Constantinopolis, tại đây ông đã xây nên một "Roma thứ hai" trên địa điểm của Byzantium, một thành phố nằm vắt ngang trên các tuyến đường thương mại giữa phương Đông và phương Tây. Constantinus I đã tiến hành những cải cách quan trọng về quân sự, tiền tệ, các tổ chức dân sự và tôn giáo của đế quốc.
Dưới thời Contantinus, Kitô giáo mặc dù không được công nhận là quốc giáo nhưng lại được hưởng nhiều ưu đãi, bởi vì hoàng đế đã ban cho tôn giáo này nhiều đặc quyền rộng rãi. Việc ông cho triệu tập Thượng Hội đồng Giám mục Arles và Hội đồng Nicaea đã cho thấy quyết tâm hợp nhất giáo hội của ông, đồng thời khẳng định sự lãnh đạo của ông với Giáo hội. Năm 395,Theodosius I lại chia đôi đế quốc ra cho hai con trai của mình: Arcadius ở phía đông và Honorius ở phía tây. Trong các thế kỷ thứ III và thứ IV, phần phía đông đế chế đã không phải đối mặt với phần lớn các bộc tộc đang tràn ngập khắp Châu Âu, một phần là nhờ một nền văn hóa thành thị được phát triển từ rất sớm và có các nguồn lực tài chính ổn định, cho phép đế quốc có tiền để trả cho các khoản cống phẩm để xoa dịu những kẻ xâm lược và kinh phí duy trì các đội lính đánh thuê. Nhờ đó, Theodosius II có thể tập trung vào hệ thống hóa pháp luật La Mã, củng cố các bức tường thành của Contantinopolis.Tuy nhiên, để đẩy lùi được người Hung,Theodosius đã phải trả các khoản cống phẩm lớn hàng năm cho thủ lĩnh Attila. Hoàng đế Marcianus sau đó đã từ chối các khoản tiền cống tốm kém nhưng lúc náy Attila đã chuyển hướng sự chú ý của mình sang nửa phía tây của đế quốc. Sau khi Attila qua đời, đế quốc Hun
Đế quốc dưới thời trị vì của [[Leo I (phía đông) và Majorianus (phía tây) vào những năm 460. Chỉ chưa đầy hai thập kỷ sau, đế chế phía tây đã sụp đổ trong khi đế chế phía đông vẫn yên bình cho tới công cuộc giành lại các tỉnh miền tây của Justinian I]]
Đế quốc phía Tây sụp đổ
Sau khi Attila qua đời, Đông La Mã được hưởng một thời gian hòa bình lâu dài trong khi Tây La Mã ngày càng suy kiệt trước quân man rợ di cư và cuối cùng sụp đổ vào năm 476, khi vị tướng đánh thuê người German Odoacer cướp bóc thành Roma và phế truất Romulus Augustus, vị hoàng đế Tây La Mã cuối cùng. Năm 480, hoàng đế Zeno tuyên bố mình là hoàng đế duy nhất của La Mã và Odoacer chỉ là người cai trị Ý, dưới quyền hoàng đế.
Năm 491, Anastasius I, một quan chức chính quyền già cả có gốc gác La Mã, đã trở thành hoàng đế, nhưng ông chỉ hoàn toàn cai trị đế quốc vào năm 497, sau khi quân đội của ông dẹp tan các thế lực chống đối. Anastasius đã chứng tỏ mình là một nhà cải cách nhiệt huyết và có tài lãnh đạo. Ông hoàn thiện hệ thống pháp luật từ thời Constantinus, dứt khoát sử dụng đồng tiền follis vào các giao dịch hàng ngày. Khi Anastasius qua đời năm 518, ông để lại trong kho bạc đế chế một khoản tiền khổng lồ 320.000 lbs (145,150 kg) vàng.
Cuộc tái chiếm các tỉnh miền Tây
nhỏ|Hoàng đế Đông La Mã Justinianus I Justinianus I, vốn là con trai của một nông dân Illyria, có lẽ đã tiếp nhận quyền lực thực tế ngay trong triều đại cai trị của người chú, Justinus I (518-527). Ông lên ngôi năm 527 và tiến hành các cố gắng giành lại các lãnh thổ đã mất. Năm 532, nhằm đảm bảo ổn định cho biên giới phía đông,ông đã ký một hiệp ước hòa bình với vua Khosrau I của Ba Tư, đồng ý trả một khoản cống phẩm hàng năm cho vương triều Sassanid. Trong cùng năm đó, ông trấn áp được cuộc khởi nghĩa Nika, củng cố được quyền lực của mình với cái giá của hơn 30.000 mạng người.
Năm 529, một ủy ban 10 người do Ioannes xứ Cappadocia đứng đầu đã sửa đổi luật pháp La Mã và hệ thống hóa lại các bộ luật. Năm 534, ban hành Pháp điển Dân sự hay còn gọi là Luật Justinianus I, hệ thống pháp luật cơ bản được sử dụng trong hầu hết các thời kỳ còn lại của đế chế Đông La Mã.
Cuộc tái chiếm miền tây đã bắt đầu từ năm 533, khi Justinianus I phái tướng quân Belisarius đem quân đi đòi lại các tỉnh cũ ở Bắc Phi đã bị người Vandal chiếm từ năm 429 và đặt kinh đô của họ ở thành Carthage. Thành công đến một cách dễ dàng tới ngạc nhiên, nhưng phải tới năm 548 thì các bộ lạc lớn ở địa phương mới chịu thần phục. Trong khi đó ở Ý, vương quốc Ostrogoth đang bị chia rẽ nội bộ, sau cái chết của Theodoric cùng với cháu trai và người kế vị của ông, Athalaric và con gái ông, Amalasuntha, khiến cho kẻ mưu sát Theodahad lên nắm quyền nhưng suy yếu. Năm 535, một đội quân nhỏ của Đông La Mã đã dễ dàng chiếm được Sicilia nhưng người Goth đã kháng cự mãnh liệt, và phải tới năm 540, chiến thắng mới đến với quân Đông La Mã, khi tướng Belisarius chiếm được Ravenna, sau khi thành công trong cuộc vây hãm thành Roma và Napolia. Trong năm 535-536, Theodahad đã phái Đức Giáo hoàng Agapetus I đến Constantinople nhằm thỉnh cầu quân Byzantine rút khỏi Sicilia, Dalmatia, và Ý. Mặc dù Agapetus thất bại trong nhiệm vụ của mình để có thể ký kết một hiệp ước hòa bình với Justinianus, ông ta đã thành công trong việc đả kích Thượng Phụ Anthimus I của Constantinople theo thuyết Đơn Thần, bất chấp sự ủng hộ và bảo vệ của hoàng hậu Theodora..
Người Ostrogoth đã nhanh chóng tập hợp dưới sự chỉ huy của vua Totila và giành lại Roma vào năm 546. Belisarius được cử tới Ý năm 544 nhưng ông lại bị triệu về Constantinopolis năm 549. Với sự xuất hiện của thái giám người Armenia Narses và 35.000 quân đã đánh dấu chấm hết cho vương quốc của người Ostrogoth. Vua Totila bị đánh cho đại bại trong chận trận Taginae và người kế vị của ông ta, Teia, cũng bị đánh bại trong trận Mons Lactarius (tháng 10 năm 552). Mặc dù một vài đơn vị đồn trú người Goth còn lại vẫn tiếp tục kháng cự và có thêm hai cuộc xâm lược từ người Frank và Alamanni, nhưng về cơ bản đế chế Đông La Mã đã hoàn thành công cuộc chiếm lại các tỉnh đã mất ở Ý. Ở biên giới phía đông, các cuộc chiến La Mã - Ba Tư vẫn tiếp tục cho đến năm 561, khi các sứ giả của Justinianus và Khosrau đồng ý một hiệp ước hòa bình 50 năm. Cuối cùng Justinianus đã đẩy lùi hầu hết những cuộc tấn công xâm lấn của các bộ tộc di cư bằng hàng loạt các chiến thắng trong những năm 550, trừ các cuộc xâm nhập lặp đi lặp lại của người Slav và Gepid. Năm 559, đế quốc phải đối mặt với cuộc xâm nhập lớn của người Kutrigur và Sclaveni. Justinianus liền gọi tướng Belisarius đang nghỉ hưu quay lại quân đội và đánh bại mối đe dọa mới từ người Hung. Việc tăng cường củng cố các hạm đội dọc sông Donau khiến quân Kutrigur phải rút lui và chấp nhận một hiệp ước được đi lại an toàn trên sông Donau.
Đế quốc dưới thời Mauricius những năm 600 CN, trước khi ông và gia đình bị sát hại trong cuộc chính biến hai năm sau đó
Văn hóa truyền thống La Mã-Hi Lạp vẫn còn nhiều ảnh hưởng ở Đông La Mã trong thế kỷ thứ VI với nhiều nhà triết học nổi bật như Ioannes Philoponus. Nhưng triết học và văn hóa Kitô giáo dần chiếm ưu thế và thay thế các nền văn hóa cũ. Đại thánh đường Thánh Xôphia đã được xây dựng thay thế cho một nhà thờ cũ đã bị phá hủy trong cuộc bạo loạn Nika. Nhưng hàng loạt các dịch bệnh và đói kém đã tấn công đế quốc, giết hại nhiều sinh mạng dân chúng và góp phần làm suy sụp đế quốc.
Sau khi Justinianus qua đời năm 565, vị hoàng đế kế tục ông, Justinus II đã từ chối các khoản triều cống cho Ba Tư. Trong khi đó, người Lombard gốc Đức tràn vào Ý, tới cuối thế kỷ chỉ còn một phần ba đất Ý nằm dưới sự kiểm soát của đế quốc. Vị Hoàng đế kế tiếp, Tiberius II đã chọn cách ban tặng tiền bạc cho người Avar và tiếp tục cuộc chiến với người Ba Tư. Dẫu cho viên tướng của Tiberius, Mauricius đã tiến hành một chiến dịch hiệu quả ở phía đông, nhưng các khoản trợ cập lại không ngăn giữ được người Avar. Họ đã đánh chiếm được pháo đài Sirmium năm 582 trong khi người Slav bắt đầu xâm nhập bờ nam sông Donau. Cùng năm đó, Mauricius thành công trong việc giành ngôi hoàng đế với tư cách là con rể của Tiberius II và can thiệp vào cuộc nội chiến ngai vàng ở Ba Tư. Với sự trợ giúp của Mauricius, Khosrau II đã giành được ngai vàng và củng cố liên minh qua kết hôn với con gái của Mauricius. Đồng thời hiệp ước của Mauricius với người con rể mới của ông không những đã giúp mở rộng lãnh thổ phía đông của đế quốc mà còn giúp cho Mauricius có đủ sức mạnh để tập trung vào vấn đề Balkan. Tới năm 602, một loạt các chiến dịch thành công đả đẩy lùi người Avar và Slav về phía bên kia bờ sông Donau.
Sự mất mát về lãnh thổ
Nhà Heraclius
Năm 602, một viên tướng của Mauricius là Phocas đã ám sát Mauricius và giành lấy ngai vàng Đông La Mã. Biết tin nhạc phụ bị sát hại, Khosrau II liền vin cớ dấy binh báo thù, đánh chiếm tỉnh Lưỡng Hà của La Mã. Ở Constantinopolis, Phocas, một hoàng đế vốn không được lòng dân dần trở thành cái gai trong mắt những người đứng đầu Nghị Viện. Năm 610, một viên tướng từ Carthage là Heraclius đã đem quân vượt biển tới kinh thành với một biểu tượng gắn ở mũi tàu, và phế truất Phocas. Sau cuộc chính biến của Heraclius, quân Sassanid đã tiến sâu vào bán đảo Tiểu Á, đồng thời chiếm cả Damas và Jerusalem rồi cướp đi cây thánh giá linh thiêng để đem về thành Ctesiphon. Hoàng đế Heraclius đã tiến hành phản kích lại đế chế Ba Tư trong một cuộc chiến mang màu sắc Thánh chiến và sử dụng các biểu ngữ Kitô giáo như một tiêu chuẩn trong quân đội. Với sự lãnh đạo xuất sắc của Heraclius, quân Đông La Mã đã giành lại các vùng đất đã mất trải dài từ Cilicia đến Armenia, và đang hướng tới đô thành Ba Tư.
Nhưng mối đe dọa từ nhà Sassanid vẫn còn đó. Nhân lúc Heraclius đang đem đại quân đi chinh chiến sa trường, Khosrau II đã cử tướng Sharbaraz đem 50.000 quân lính được động viên ở Lưỡng Hà vượt qua Anatolia đến đóng trại ở Chalcedon, gần sát Constantinopolis nhằm liên hợp với quân Avar và Slav chiếm thành. Ngày 26 tháng 6 năm 626, 80.000 quân Avar và Slav bủa vây mọi cửa thành của Constantinopolis còn ở bên kia Bosphorus, 50.000 quân Ba Tư đang gấp rút đóng tàu chiến nhằm tấn công đô thành từ phía biển. Trong thành Constantinopolis lúc này có 12.000 quân do anh trai của Heraclius chỉ huy cùng sự giúp đỡ về nhuệ khí từ Thượng phụ Sergius. Nhờ các bức tường thành chắc chắn, quân Đông La Mã đã đẩy lùi các đợt tiến công của liên quân Avar- Slav. Hạm đội của Ba Tư cũng bị hạm đội của Đông La Mã đập tan trên biển và tướng Sharbaraz cũng đã tử trận. Đô thành Constantinopolis được bảo toàn. Nhờ chiến thắng trong cuộc bao vây Constantinopolis năm 626, Heraclius đã đè bẹp quân Sassanid ở trận Nineveh một năm sau đó, rồi mang cây thánh giá thiêng trở lại Jerusalem năm 629. Qua đó đã giáng một đòn hủy diệt cho đế quốc từng đối địch với La Mã trong hàng thế kỷ qua. Tuy nhiên, cuộc chiến đã làm kiệt quệ cả đế quốc Đông La Mã và Sassanid, khiến cho cả hai dễ bị tổn thương trước sự trỗi dậy của người Hồi Giáo Ả Rập chỉ vài năm sau đó. Đế quốc đã phải hứng chịu một thất bại nặng nề ở trận Yarmouk năm 636, sau khi thành Ctesiphon thất thủ năm 634.
thumb|Đông La Mã vào năm 650 dưới thời [[Konstans II.]]
Người Ả Rập Hồi Giáo với chỗ đứng vững chắc ở Levant và Syria, đã thường xuyên gửi quân tấn công vào Tiểu Á và tiến hành cuộc vây hãm Constantinopolis năm 674-678. Các hạm đội Ả Rập sau đó đã bị đẩy lùi bởi vũ khí tối thượng nhất của quân Đông La Mã là hỏa khí Lửa Hy Lạp và một thỏa ước đình chiến 30 năm đã được thông qua giữa đế quốc và nhà Umayyad. Tuy nhiên các cuộc xung đột ở Anatolia vẫn liên tục xảy ra, gây ra sự suy tàn cho nền văn hóa đô thị cổ điển, buộc dân chúng phải di tản vào sống trong các thành phố có tường bao quanh hoặc các pháo đài gần đấy. Ngay cả kinh thành Constantinopolis cũng suy giảm dân số từ 500.000 xuống còn 70.000 người, và nhiều khu vực trong đô thành bị bỏ hoang hoặc mục nát. Thành phố còn mất cả các chuyến tàu chở lúa mì và ngũ cốc sau khi người Ả Rập đánh chiếm Ai Cập, khiến không còn lúa mì trợ cấp cho dân chúng nữa. Để đối phó, các tỉnh của đế quốc ở Anatolia được phân thành các khu vực tự trị bán quân sự, được quản lý trực tiếp từ triều đình. Đây là cơ sở cho hệ thống hành chính địa phương của Đông La Mã cho đến năm 1204. Việc rút phần lớn lực lượng ở Balkan để tham chiến với người Ba Tư và người Ả Rập sau đó, đã tạo điều kiện cho người Slav tràn vào bán đảo. Năm sau, Costantinos IV đã ký một hiệp ước với vị Khan Asparukh của người Bulgar, và một nhà nước Bulgaria được thành lập, dưới sự bảo hộ của triều đình Đông La Mã. Trong hai năm 687- 688, hoàng đế Ioustinianos II, đã dẫn đầu một cuộc viễn chinh chống lại người Bulgar và Slav với những thắng lợi đáng kể, mặc dù thực tế là ông giao chiến với quân địch ở Tharcia và Macedonia, đã cho thấy sức mạnh của Đông La Mã đã không còn ảnh hưởng ở các vùng phía bắc bán đảo Balkan.
Ioustinianos II cố gắng phá vỡ quyền lực của giới quý tộc thành thị bằng cách cho tăng thuế và bổ nhiệm người ngoài vào làm trong triều đình. Ông bị lật đổ năm 695, và phải bỏ chạy đến tị nạn ở chỗ Khan Tervel của Bulgaria. Năm 705, với sự hỗ trợ từ quân lính của Khan, Ioustinianos II đã giành lại ngai vàng và tiến hành trả thù những người từng lật đổ ông. Cuối cùng vào năm 711, các quý tộc thành thị một lần nữa tiến hành đảo chính, lật đổ ông và triều đại nhà Heraclius chính thức kết thúc.
Nhà Isauria
Hoàng đế Leon III xứ Isauria sau khi lên ngôi đã lãnh đạo quân dân Đông La Mã giành thắng lợi trong cuộc vây hãm Constantinopolis năm 717- 718 bởi người Arab. Người kế vị của ông, Kōnstantinos V đã giành được các chiến thắng đáng kể ở phía bắc xứ Syria, và làm suy yếu quyền lực của người Bulgar. Sau cuộc nổi dậy của Thomas người Slav, quân Ả Rập đã quay trở lại và đánh chiếm đảo Crete. Sicilia cũng sụp đổ trước người Ả Rập cho đến khi tướng quân Petronas đánh bại tiểu vương Umar al-Aqta trong trận Lalakaon. Các mối đe dọa từ người Bulgaria cũng đã xuất hiện dưới thời của Hãn Krum, nhưng sau đó một hiệp ước hòa bình đã được ký kết giưa Leōn V với con trai của Krum là Omurtag vào năm 815- 816.
Thế kỷ thứ VIII và IX cũng đã bị chi phối bởi các tranh cãi và chia rẽ tôn giáo xung quanh phong trào bài trừ ảnh tượng. Các biểu tượng đã bị cấm theo chiếu chỉ của hoàng đế Leo và Constantine, dẫn đến cuộc khởi nghĩa của những người thờ thánh tượng trên toàn đế quốc. Sau những nỗ lực của nữ hoàng Irene, hội đồng Nicaea lần thứ hai đã được tổ chức trong năm 787 và khẳng định rằng các biểu tượng có thể được tôn kính nhưng không được tôn thờ. Irene được cho là đã cố gắng thương lượng một cuộc hôn nhân giữa bà và Charlemagne, nhưng theo thánh Theophanes, mưu đồ này đã bị phá hoại bởi Aetios, một trong những sủng thần của bà. Trong giai đoạn đầu thế kỷ thứ IX, Leo V đã khơi dậy lại chính sách bài trừ ảnh tượng, nhưng năm 843, hoàng hậu Theodora đã khôi phục lại việc tôn kính các biểu tượng với sự giúp đỡ của Thượng Phụ Methodios .
Sự hồi sinh dưới thời của nhà Makedonia (867-1025)
Đế quốc Đông La Mã năm 867 Việc Basíleios I lên ngôi hoàng đế vào năm 867 đã đánh dấu cho sự khởi đầu của nhà Makedonia, vương triều sẽ cai trị đế quốc trong hơn hai thế kỷ rưỡi tiếp theo. Vương triều này có nhiều hoàng đế tài giỏi nhất trong lịch sử của Đông La Mã và là giai đoạn phục hồi và phát triển đến cực thịnh. Đế quốc đã chuyển từ thế thủ sang thế công và tái chiếm lại các lãnh thổ đã bị mất. Ngoài việc tái khẳng định sức mạnh quân đội và quyền lực hoàng gia, đây còn là thời gian nền văn hóa Đông La Mã được hồi sinh trên mọi lĩnh vực. Một nỗ lực để khôi phục lại sức mạnh và vinh quang trước quân Ả Rập và Slav, và nhiều học giả đã gọi đây là "Thời đại hoàng kim" của đế chế Đông La Mã. Cho dù diện tích của đế chế có bị thu hẹp hơn nhiều so với thời của Justinianius I, nhưng đế chế đã phục hồi cả về quân sự lẫn văn hóa hay kinh tế, và các lãnh thổ đã không còn quá tách biệt như trước nữa.
Chiến tranh chống lại quân Ả Rập
Tướng quân [[Leōn Phokas đánh bại quân Ả Rập trong trận chiến Andrassos năm 960]] Các cuộc tấn công của quân Ả Rập vào bờ biển Dalmatia đã bị đẩy lùi trong những năm đầu dưới thời Basileos I và khu vực này lại yên bình trở lại, cho phép các nhà truyền giáo Đông La Mã cải đạo người Serbia sang Đạo Chính Thống. Tuy nhiên nỗ lực giành lại Đảo Malta cuối cùng đã kết thúc thảm khốc khi người Ả Rập với sự ủng hộ của dân địa phương, đã tàn sát đội quân đồn trú của Đông La Mã. Trái lại, địa vị của Đông La Mã ở miền nam nước Ý dần được củng cố khi quân Đông La Mã giành lại được Bari năm 873, Người Paulicia bị đánh bại và kinh đô Tephrike đã bị chiếm đóng, trong khi chiến dịch chống lại các khalip nhà Abbas đã bắt đầu với việc giành lại thành Samosata.
Nhân lúc Bulgaria đang bị suy yếu bởi cái chết của Sa hoàng Simeon I năm 927, quân Đông La Mã liền tập trung về mặt trận phía đông. Năm 934, Melitene vĩnh viễn được chiếm lại. Năm 943, danh tướng Ioánnis Kourkouas đã giành được một số thắng lợi quan trọng, mà đỉnh điểm là cuộc tái chiếm thành Edessa. Nó còn đặc biệt nổi tiếng với việc đem trở về thành Constantinopolis thánh vật Mandylion, mà có mang bức chân dung của Jesus trên nó.
Những vị Hoàng đế - chiến binh như Nikephoros II Phokas (cai trị từ năm 963–969) và Iōannēs I Tzimiskes (969–976) bành trướng lãnh thổ tới tận vùng Syria và đánh bại các tiểu vương Hồi Giáo ở vùng Tây Bắc Iraq. Thành phố Aleppo bị Nikephoros chinh phục năm 962 và sang năm sau người Ả Rập hoàn toàn bị tống khứ khỏi đảo Crete. Việc chinh phục đảo Crete đã thủ tiêu hoàn toàn nguy cơ vùng biển Aegea bị người Ả Rập cướp phá và giúp kinh tế ở lục địa Hy Lạp được hưng khởi trở lại. Đảo Síp được thu hồi vào năm 965 và sự nghiệp của Nikephoros đạt đến đỉnh cao vào năm 969 khi ông thu hồi Antioch và sáp nhập nó làm một tỉnh của đế quốc. Người kế vị của Nikephoros, Ioannes I tiếp tục đánh chiếm Damascus, Beirut, Acre, Sidon, Caesarea và Tiberias, mở rộng thế lực của đế quốc tới gần sát Jerusalem (dù thế lực của đế quốc Ả Rập Hồi giáo ở Iraq và Ai Cập vẫn còn nguyên vẹn). Sau khi đánh bại người Bulgaria, hoàng đế Basileios II tiếp tục dự tính tấn công đảo Sicillia, thành trì cuối cùng của người Ả Rập trên các lãnh địa cũ của đế quốc, tuy nhiên ông qua đời vào năm 1025 mà không kịp thực hiện dự định của mình. Các đợt tấn công sau đó cũng chỉ thu hồi lại vùng duyên hải phía đông của đảo. Tuy nhiên, đến thời điểm Basileios II qua đời, đế quốc Đông La Mã đã trải dài từ eo biển Messina ở phía tây tới dòng sông Euphrates ở phía đông, từ sông Donau ở phía bắc cho tới Syria ở phía nam.
Chiến tranh chống lại người Bulgaria
Hoàng Đế Basileos II (khoảng năm 976–1025).
Các cuộc tranh đấu ảnh hưởng giữa Constantinopolis và Vatican vẫn tiếp tục trong suốt triều đại Makedonia, làm thúc đẩy câu hỏi về việc ai sẽ kiểm soát những người Bulgaria vừa mới được cải đạo sang Kitô Giáo. Sau khi kết thúc hiệp ước hòa bình kéo dài 80 năm, Sa hoàng Simeon của Bulgaria đã đem quân tràn vào đế quốc năm 894, nhưng ông ta nhanh chóng bị đẩy lùi khi quân Đông La Mã dùng hạm đội vượt qua Biển Đen để tấn công vào hậu phương của quân Bulgaria và kêu gọi sự trợ giúp từ người Hunggari. Tuy nhiên, quân Đông La Mã đã thất trận ở trận Boulgarophygon vào năm 896 và phải chấp nhận nộp cống hàng năm cho Bulgaria. Khi Leōn VI qua đời năm 912, nhân lúc triều đình Constantinopolis đang hỗn loạn, Simeon nhanh chóng đem một đội quân lớn tiến về kinh thành của đế quốc. Mặc dù các bức tường thành Constantinopolis là bất khả xâm phạm, triều đình Đông La Mã đã mời Simeon vào trong thành phố, nơi ông được trao vương miện hoàng đế Bulgaria và hoàng đế Kōnstantinos VII đã kết hôn với một cô con gái của ông ta. Tuy nhiên sau đó một cuộc nổi loạn lớn ở Constantinopolis đã phá hỏng kế hoạch của Simeon, thế là ông ta lại xâm lược Đông La Mã và đánh chiếm Adrianople. Bây giờ thì Đông La Mã đứng trước nguy cơ diệt vong khi phải đối mặt với một thế lực Kitô giáo hùng mạnh đang cách Constantinopolis chỉ vài ngày đường Năm 968, quân đội Nga Kiev do Sviatoslav I lãnh đạo đã tấn công và tàn phá Bulgaria, tuy nhiên 3 năm sau hoàng đế Iōannēs I Tzimiskēs đã đánh bại Sviatoslav và sáp nhập Đông Bulgaria.
Đông La Mã dưới thời Basileos II.
Người Bulgaria trong triều đại Cometopuli tiếp tục chống cự, nhưng hoàng đế Basileos II (976-1025) đã coi việc đánh bại Bulgaria là mục tiêu lớn nhất trong triều đại của mình. Cuộc tấn công đầu tiên của Basil II kết thúc trong thảm bại tại trận Cổng Trajan. Những năm tiếp theo, trong lúc Basileos II bận đương đầu với các cuộc nổi loạn ở Anatolia, quân Bulgaria tiếp túc mở rộng sự kiểm soát ở bán đảo Balkan. Chiến tranh đã kéo dài tới gần 20 năm. Quân Bulgaria đã bị tổn thất nặng nề ở Spercheios và Skopje, và các chiến dịch hàng năm của Basil II đã chinh phục dần dần các thành trì của Bulgaria. Cuối cùng, quân Bulgaria đã thảm bại ở trận Kleidion vào năm 1014. Mối quan hệ này nhanh chóng có ảnh hưởng lâu dài trong lịch sử của những người Slav Đông Âu và đế quốc trở thành đối tác thương mại chính với Kiev. Người Rus' đã tấn công Constantniopolis năm 860, và cướp bóc các vùng ngoại ô của thành phố. Năm 941, họ đổ bộ lên bờ biển ở Tiểu Á nhưng nhanh chóng bị đánh tan, cho thấy các tiến bộ trong hàng phòng thủ xung quanh Constantinopolis sau năm 907, khi mà chỉ có ngoại giao mới có thể đẩy lùi quân xâm lược. Basileos II không thể bỏ qua cường quốc Rus' mới nổi kia, và như cha mình, ông sử dụng lá bài tôn giáo như là một cộng cụ trong chính trị. Mối quan hệ trở nên nồng ấm hơn khi mà Vladimir Vĩ đại của Kiev kết hôn cùng với công chúa Anna Porphyrogeneta của Đông La Mã năm 988, và sau đó người Rus Kiev đã cải sang Chính thống giáo.
Đỉnh cao
Constantinopolis, thành phố lớn và giàu có nhất châu Âu trong suốt từ thế kỷ thứ VI đến thế kỷ XII. Khi Basileos II băng hà năm 1025, biên cương đế quốc Đông La Mã đã trải dài từ Armenia ở phía đông cho tới tận Calabria ở miền nam Ý là biên giới phía tây. Hệ thống hành chính của Đế quốc đã được điều chỉnh lại, phân giới kĩ hơn các khu bán quân sự thema, loại bỏ các bất cập trong quản lý các địa phương và đặc quyền của những quan lại cai trị các tỉnh xa, cũng như điều chỉnh những đặc quyền của các thương đoàn ở Constantinopolis. Sự tách biệt giữa các tỉnh của Đông La Mã không còn nữa, và Constantinopolis trở thành trung tâm quyền lực duy nhất của Đế quốc. Tuy nhiên, các chiến thắng vang dội đã làm gia tăng đáng kể quyền lực của giới qúy tộc quân sự các tỉnh với nông dân, những người đã cơ bản trở thành nông nô cho các quý tộc.
Tranh tường vẽ hai thánh [[Kyrillos và Methodios, thế kỷ XIX, Tu viện Troyan, Bulgaria.]] Dưới thời các hoàng đế Makedonia, Constantinopolis trở thành thành phố lớn nhất và giàu có nhất ở châu Âu, với 400.000 dân vào thế kỷ IX và X. Các hoàng đế đã bổ nhiệm nhiều quý tộc tài năng vào làm quan trong triều đình, chủ yếu trong việc giám sát thu thuế, quản lý thành phố và trở thành các đại sứ ngoại giao. Thương mại với Tây Âu cũng được thúc đẩy mạnh mẽ, đặc biệt là lụa và kim loại đã góp phần làm cho sự giàu có của Đế quốc.
Triều đại Makedonia là thời gian có những chuyển biến tôn giáo quan trọng. Người Bulgaria, Serbia và Rus đã cải sang Chính thống giáo, làm thay đổi vĩnh viến bản đồ tôn giáo ở châu Âu tạo nhiều ảnh hưởng cho đến ngày nay. Các thánh Kyrillos và Methodios, hai người anh em ở Thessaloniki, đã đóng góp đáng kể trong việc người Xlavơ cải đạo sang Chính thống giáo và phát minh ra bảng chữ cái Glagolit, tiền thân của bảng chữ cái Kyrill. Năm 1054, mâu thuẫn giữa thành Roma và thành Constantinopolis lên đến đỉnh điểm, mà lịch sử gọi đây là Đại Ly giáo Đông-Tây. Mặc dù trước đó cả hai đã tuyên bố rút phép thông công lẫn nhau nhưng phải tới ngày 16 tháng 7, khi ba hồng y của Giáo hoàng bước vào trong Đại thánh đường Thánh Sophia, và đặt bức thư tuyệt thông lên bàn thờ Đức Chúa, cuộc ly giáo Đông-Tây mới chính thức bắt đầu.
Triều đại Makedonia suy yếu
Đông La Mã suy sụp nhanh chóng sau khi hoàng đế Basileos II qua đời mà không có những người đủ năng lực lên kế vị. Nikephoros II (trị vì 963-969), Ioannes Tzimiskes và Basileos II thay đổi cơ cấu quân sự từ các đội quân phòng thủ, dân quân thành một đội quân chuyên nghiệp (, tagmata), được hỗ trợ bằng lính đánh thuê. Trong thế kỷ thứ X, các cuộc tấn công liên tiếp của ngoại bang đã buộc đế quốc phải duy trì các khu đồn trú lớn và công sự tốn kém. Hoàng đế Basileos II để lại một kho bạc đầy ắp khi ông qua đời, nhưng lại không để lại bất kì lời khuyên nào cho người kế vị. Không còn bất cứ vị vua nào kế tục ông mà có đủ tài năng quân sự cũng như tài cai trị, điều này khiến cho quyền lực dần dần rơi vào tay các quan lại trong triều. Những nỗ lực cứu vãn nền kinh tế cuối cùng chỉ dẫn đến lạm phát và tiền vàng mất giá. Lúc này, quân đội bị xem như là một khoản chi phí không cần thiết và còn là một mối đe dọa chính trị. Vì vậy, triều đình đã giải tán quân đội và thay thế bằng các đội lính đánh thuê với những hợp đồng cụ thể.
Nhưng lúc này, kẻ thù mới đã xuất hiện. Các tỉnh ở Ý đã phải đối mặt với người Norman. Bước tiến của người Norman chậm nhưng chắc chắn. Reggio, thủ phủ của tỉnh Calabria, bị Robert Guiscard chiếm năm 1060, tiếp theo đó là Otranto năm 1068. Bari, thành trì quan trọng ở tỉnh Apulia, bị bao vây từ tháng 8 năm 1068 và thất thủ vào tháng 4 năm 1071. Đồng thời Đông La Mã cũng mất quyền kiểm soát bờ biển Damaltia vào tay vua Peter Krešimir IV (1058–1074/1075) của người Croatia trong năm 1069.
Nhưng thảm họa lớn nhất lại xảy ra ở Tiểu Á. Các cuộc tấn công đầu tiên của người Thổ Seljuk vào biên giới của Đông La Mã thông qua Armenia xảy ra trong những năm 1065 và 1067. Nhân lúc tình hình rối loạn, các quý tộc quân sự ở Anatolia đã đưa Romanos Diogenes, một người trong số họ lên ngôi hoàng đế. Mùa hè năm 1071, Romanos ra lệnh khẩn cấp điều động các quý tộc Anatolia và lực lượng của họ, rồi thân chinh chỉ huy chiến dịch phản công quân Seljuk. Trong trận Manzikert, quân Đông La Mã không chỉ đại bại trước Sultan Alp Arslan mà tổng chỉ huy của họ, hoàng đế Romanos cũng bị bắt sống.
Nhà Komnenos và Thập Tự Quân
[[Alexios I Komnenos|Alexios I, người sáng lập Nhà Komnenos.]] Nhà Komnenos cai trị Đế quốc Đông La Mã trong những năm 1081 tới năm 1185. 104 năm tồn tại, với năm hoàng đế (Alexios I, Ioannes II, Manouēl I, Alexios II và Andronikos I), Đông La Mã đã được phục hồi lại phần nào sức mạnh, lãnh thổ, kinh tế dù không được hoàn toàn. Mặc dù người Seljuk chiếm đóng cao nguyên Anatolia nhưng họ sớm bị đẩy lùi khi Đông La Mã nhận được sự hỗ trợ từ các quốc gia Tây Âu, đặc biệt từ người Norman. Thời kỳ Komnenos đã trở thành một trong những giai đoạn đỉnh cao của Đông La Mã, và Constantinopolis vẫn giữ vị trí hàng đầu về sự giàu có, hoa lệ, đông đúc và văn hóa nhất thế giới Kitô Giáo. Các quan tâm lớn tới triết học cổ điển của Đông La Mã, và các tác phẩm Hi Lạp được truyền bá rộng rãi sang phía tây đã biến Đông La Mã trở thành một trong những nơi văn hiến nhất châu Âu và có ảnh hưởng lâu dài tới các vùng đất phía tây.
Alexios I và cuộc Thập tự chinh lần thứ nhất
Sau thất bại ở Manzikert, đế quốc đã phần nào khôi phục lại vinh quang nhờ những nỗ lực của các hoàng đế nhà Komnenos. Ngay khi vừa lên ngôi, Alexios I đã phải đối phó với một cuộc xâm lược như vũ bão của người Norman được lãnh đạo bởi Robert Guiscard và con trai ông ta, Bohemund xứ Taranto, người đã chiếm Dyrrhachium và Corfu, và bao vây thành Larissa ở Thessaly. Cái chết của Robert Guiscard vào năm 1085 đã tạm thời đẩy lùi cuộc xâm lăng của người Norman. Năm sau, Sultan Seljuk qua đời, Vương quốc Hồi Giáo Rum lâm vào nội chiến tranh giành quyền lực giữa các phe phái. Bằng sự nhạy bén và tài cầm quân, Alexios đã tiến hành chiến dịch tấn công bất ngờ vào quân Pecheneg; bị bất ngờ, quân Pecheneg thảm bại tại trận Levounion vào ngày 28 Tháng Tư 1091.
nhỏ|trái|Đế Chế Đông La Mã và [[Vương Quốc Hồi Giáo Rum trước cuộc Thập tự chinh đầu tiên.]]
Chiến thắng trong trận Levounion, cho phép Alexios có thể củng cố được sự ổn định ở châu Âu và hướng sự quan tâm chú ý tới vấn đề khó khăn kinh tế và sự yếu kém của các hàng phòng thủ quanh Constantinopolis. Nhưng ông không có đủ nhân lực để tái chiếm lại các vùng bị mất ở Tiểu Á và đẩy lùi quân Seljuk, ngoại trừ khu vực màu mỡ dọc bờ biển phía tây Tiểu Á. Tại Hội đồng Piacenza năm 1095, phái viên của Alexios đã trình bày với Giáo hoàng Urban II về sự áp bức mà người Kito Giáo ở phía đông phải chịu đựng, và nhấn mạnh rằng nếu phương tây không can thiệp, có thể họ sẽ phải chịu như vậy mãi mãi. Urban II thấy lời đề nghị của Alexios là cơ hội tốt để nối lại sự gắn kết giữa hai giáo hội dưới sự lãnh đạo của mình. Ngày 27 tháng 11 năm 1095, Giáo hoàng Urban II cùng với Hội đồng Clermont đã kêu gọi mọi người hãy cầm vũ khí đi dưới lá cờ chữ thập và tiến hành một cuộc viễn chinh giành lại Jerusalem và Levant từ tay người Hồi Giáo. Lời kêu gọi đó được cả Tây Âu hưởng ứng ngay tức khắc. Nhờ bước tiến của quân Thập Tự, Alexios đã đánh chiếm lại nhiều thành phố quan trọng ở Anatolia. Nhưng mối ràng buộc đó đã kết thúc khi các chỉ huy cho rằng ông không giúp đỡ họ trong cuộc bao vây Antioch (thực ra Alexios đã dẫn quân đến Antioch nhưng khi có tin báo về việc quân Seljuk chắn đường, ông nhanh chóng rút lui để tránh mạo hiểm không cần thiết). Bohemund, người đã tự coi mình như Hoàng thân xứ Antioch, một thời gian ngắn đã đi đến chiến tranh với Đông La Mã, nhưng đã đồng ý trở thành chư hầu của Alexios bằng Hiệp ước Devol 1108, đánh dấu sự kết thúc của mối đe dọa Norman trong suốt triều đại của Alexios.
Ioannes II, Manouel I và Cuộc thập tự chinh lần thứ hai
nhỏ|Bức tranh thời Trung Cổ vẽ cảnh quân Thập tự [[Vây hãm Jerusalem (1099)|chiếm thành Jerusalem trong cuộc thập tự chinh lần thứ nhất.]]
Alexios I qua đời năm 1118, con trai ông, Ioannes II Komnenos lên kế vị và cai trị đế quốc cho tới năm 1143. Ông vốn là một vị hoàng đế nhân từ và luôn nhận thức rõ hiểm họa của đế quốc sau trận Manzikert nửa thế kỷ trước. Được lòng dân bởi chính sách khoan dung và các hình phạt được giảm nhẹ, ông được coi là một trong những nhà cai trị nhân từ hiếm hoi trong một thời kì mà sự tàn ác là tiêu chuẩn chính. Nhờ đó mà ông được coi là Marcus Aurelius của Đông La Mã.
Trong 25 năm của triều đại mình, Ioannes đã củng cố mối liên minh với Đế chế La Mã thần thánh ở Tây Âu, đánh bại hoàn toàn người Pechenegs ở trận Beroia, và nhiều lần thân chinh đem quân đi chinh phạt người Thổ ở Tiểu Á. Các chiến dịch mà ông phát động đã làm thay đổi cán cân quyền lực ở phương đông, buộc người Thổ phải lui về phòng thủ và khôi phục lại nhiều thành trì, thành phố và thị trấn ở Anatolia. Ông cũng đẩy lùi người Hunggary và Serbia vào những năm 1120, cùng với hoàng đế Đức Lothair III liên minh chống lại vua Norman, Roger II của Sicilia. Ổn định được phía tây, Ioannes hướng sự chú ý của ông về phía đông. Các tiểu vương quốc của người Thổ Danishmend ở Melitene nhanh chóng bị đánh bại, và quân Đông La Mã tái chiếm lại Cilicia. Ioannes cũng tranh thủ dùng ảnh hưởng của mình ép buộc Raymond xứ Poitiers, Hoàng thân xứ Antioch thừa nhận sự bảo hộ của Đông La Mã. Nhằm thể hiện vai trò và sức mạnh của mình trong thế giới Ki-tô giáo, Ioannes dẫn quân vào Đất Thánh với tư cách là người lãnh đạo của liên quân của Đế chế với các quốc gia Thập Tự; tuy nhiên hy vọng của ông đã tan thành mây khói bởi sự phản bội của các đồng minh Thập Tự. Năm 1142, Ioannes lại đặt vấn đề về chủ quyền của ông ở Antioch, nhưng cái chết đột ngột của ông trong một tai nạn lúc đi săn vào năm 1143 đã làm gián đoạn kế hoạch của Ioannes. Chụp lấy cơ hội này, Raymond xua quân xâm lược Cilicia nhưng bị đánh tan tác và buộc phải thân hành đến kinh đô Constantinopolis để cầu xin sự tha thứ.
Đế quốc Đông La Mã vào năm 1180, cuối [[thời kỳ Phục Hưng Komnenos.]]
Người kế vị Ioannes là Manouel I Komnenos, con trai thứ tư của ông. Manouel đã thi thành một chính sách bành trướng mạnh mẽ đối với các thế lực lân bang, kể cả phía đông lẫn phía tây. Tại Palestine, ông liên minh với Vương quốc Jerusalem và gửi một hạm đội lớn gia nhập liên quân Thập Tự trong cuộc chiến tranh chống lại Nhà Fatimid của Ai Cập. Manouel đã củng cố địa vị thống trị của mình đối với khối các quốc gia Thập Tự, và ảnh hưởng của Đông La Mã đối với Antioch và Jerusalem được củng cố bằng hiệp ước với Raynald, Hoàng thân Antioch, và Amalric, vua Jerusalem. Manouel cũng thực hiện một cuộc viễn chinh nhằm thu hồi lại lãnh thổ của đế quốc tại miền Nam Ý nhưng thất bại do các bất đồng giữa Đông La Mã với các đồng minh của mình. Năm 1167, Manouel xua quân xâm lược Vương quốc Hungary và đánh tan tác quân Hung trong trận Sirmium, buộc người Hung phải cắt đất cầu hòa và trở thành chư hầu của Đông La Mã. Đến năm 1168, gần như toàn bộ vùng duyên hải biển Adriatic đã nằm dưới quyền kiểm soát của Đông La Mã. Manouel cũng thiết lập liên minh với Giáo hoàng La Mã và các quốc gia Công giáo Tây Âu, và thành công trong việc điều tiết các hoạt động của đoàn quân Thập Tự lần thứ hai khi họ hành quân qua lãnh thổ Đông La Mã.
Tuy nhiên, ở mặt trận phía đông, Manouel đã nhận phải một thất bại nặng trong trận Myriokephalon trước quân Thổ vào năm 1176. Thất bại này đã làm ông đau buồn và sức khỏe suy sụp vào những năm cuối đời, nhưng thực tế không ảnh hưởng nhiều đến sức mạnh quân sự của Đông La Mã. Trong những năm sau đó người Đông La Mã đã rửa được thù và đánh bại người Thổ. Tướng quân Ioannes Vatatzes, người đánh tan tác quân Thổ trong Trận Hyelion và Leimocheir, không chỉ trưng tập được binh lực từ kinh đô mà còn tìm được cách thu thập thêm binh lính trên đường hành quân, một dấu hiệu cho thấy Đông La Mã vẫn còn là một thế lực quân sự mạnh mẽ và chương trình phòng thủ tại Tiểu Á vẫn còn hiệu quả.
Thời kì Phục Hưng thế kỷ XII
Ioannes và Manuel đã theo đuổi những chính sách quân sự thiết thực, và cả hai đều đã triển khai được những nguồn lực đáng kể trong việc bao vây và phòng thủ các thành phố. Bất chấp việc bại trận tại Myriokephalon, các chính sách của Alexios, Ioannes và Manuel đã đem lại kết quả đó là những vùng lãnh thổ rộng lớn, tăng sự ổn định cho khu vực biên giới ở Tiểu Á, và bảo đảm sự ổn định cho khu vực biên giới châu Âu của đế quốc. Từ khoảng năm 1081 đến khoảng năm 1180, quân đội nhà Komnenos đã giữ vững được sự ổn định của đế quốc, cho phép nền văn minh Đông La Mã phát triển rực rỡ.
Điều này đã cho phép các tỉnh phía tây đạt được sự phục hồi kinh tế và vẫn tiếp tục cho đến khi cuối thế kỷ. Có lập luận cho rằng Byzantium dưới sự cai trị của nhà Komnenos đã thịnh vượng hơn so với chính nó ở bất kỳ thời điểm nào kể từ lúc người Ba Tư tiến hành các cuộc xâm lược vào thế kỷ thứ VII. Trong thế kỷ XII, mật độ dân cư gia đã tăng lên và có thêm nhiều vùng đất rộng lớn được dành cho sản xuất nông nghiệp. Bằng chứng khảo cổ từ cả châu Âu và Tiểu Á cho thấy một sự gia tăng đáng kể về kích thước của các khu định cư đô thị, cùng với một sự bùng nổ đáng chú ý ở các thành thị mới. Thương mại cũng phát triển rực rỡ, người Venezia, Genova và các sắc dân khác đã đổ xô đến các hải cảng của biển Aegea để giao thương, vận chuyển hàng hóa từ các vương quốc Thập Tự Chinh ở hải ngoại và từ nhà Fatima ở Ai Cập tới phía tây và buôn bán với đế quốc thông qua Constantinopolis
Suy sụp và tan rã
Nhà Angelos
Manuel mất vào ngày 24 tháng 9 năm 1180 để lại cậu con trai 11 tuổi của mình, Alexios II Komnenos trên ngai vàng. Vị hoàng đế nhỏ tuổi chưa thể tự mình cai trị, chính vì vậy mà nữ hoàng Maria thành Antioch, nắm quyền nhiếp chính. Tuy nhiên, gốc gác người Pháp của bà lại khiến bà không được lòng dân, điều này đã tạo điều kiện cho Andronikos I Komnenos nổi loạn, ông vốn là một người cháu trai của Alexios I. Tháng 8 năm 1182, ông dẫn quân tiến vào Constantinopolis. Tháng 9 năm 1183, sau khi loại bỏ các đối thủ tiềm năng của mình, ông tự đăng quang hoàng đế và loại bỏ Alexios II, đồng thời lấy luôn người vợ cũ mới chỉ mười hai tuổi của ông ta, Agnes của Pháp.
Andronikos bắt đầu triều đại của ông bằng các biện pháp cải cách chính phủ được các sử gia ca ngợi. Andronikos dường như muốn tiêu diệt hết giới quý tộc và đại địa chủ. Cuộc chiến chống lại tầng lớp quý tộc trở thành một cuộc tàn sát, trong khi Hoàng đế phải viện đến các biện pháp tàn nhẫn hơn bao giờ hết để giữ vững chế độ của mình.
Mặc dù có một lực lượng quân sự mạnh, Andronikos đã không thể đối phó với Isaac Komnenos, Béla III của Hungary(r. 1172-1196), người đã sáp nhập vùng lãnh thổ Croatia vào Hungary, và Stephen Nemanja của Serbia (r. 1166-1196) đã tuyên bố sự độc lập của mình với Đông La Mã. Tuy nhiên, không một ai có thể so sánh với cuộc xâm lăng của William II xứ Sicilia (r. 1166-1189) với một lực lượng gồm 300 tàu và 80.000 quân vào năm 1185. Andronikos vội vàng huy động 100 tàu chiến bảo vệ thủ đô nhưng khác gì hơn là ông không hề quan tâm đến dân chúng. Cuối cùng ông bị lật đổ khi Isaac Angelos, một đối thủ chính trị của ông được sự trợ giúp của người dân đã tiến hành đảo chính và giết chết Andronikos. Nhà Komnenos đã kết thúc, nhường chỗ cho nhà Angelos lên thay.
Triều đại của Isaac II và của anh trai Alexios III, là thời kì mà người ta nhìn thấy sự sụp đổ của những gì còn lại trong bộ máy triều đình trung ương của Đông La Mã và hệ thống quốc phòng. Mặc dù người Norman bị đánh đuổi ra khỏi Hy Lạp nhưng vào năm 1186, người Vlach và Bulgars bắt đầu một cuộc khởi nghĩa dẫn đến sự hình thành của Đế chế Bulgaria Thứ hai. Chính sách trong nước của nhà Angelos được đặc trưng bởi sự lạm dụng ngân khố quốc gia, và sự không minh bạch về tài chính của các quan lại. Triều đình bị suy yếu nghiêm trọng, và khoảng trống quyền lực ngày càng tăng ở trung tâm của Đế chế đã dẫn sự tách biệt ở các tỉnh xa kinh thành, và một số người thừa kế nhà Komnenos đã thiết lập được một nhà nước bán độc lập ở Trebizond từ trước năm 1204. Theo Aleksandr Vasilyev, trong thời gian triều đại Angelos, Hy Lạp bị đẩy nhanh đến sự hủy hoại của một đế quốc đã bị suy yếu mà không có cách nào có thể vực dậy được.
Cuộc thập tự chinh lần thứ tư
Vào năm 1198, Giáo hoàng Innocent III đã phát động một cuộc thập tự chinh mới. Lần này, cuộc thập tự chinh hướng đến Ai Cập, trung tâm quyền lực mới của thế giới Hồi Giáo ở Levant. Quân Thập Tự đến thành Venezia vào mùa hè năm 1202 nhưng lại ít hơn so với dự đoán và họ cũng không đủ tiền trả cho việc thuê tàu của người Venezia, để đến Ai Cập. Tổng đốc đầy tham vọng của Venezia, Enrico Dandolo mong muốn phá vỡ sự liên kết giữa Giáo hoàng và quân thập tự, vì Venezia liên kết chặt chẽ thương mại với Ai Cập. Vì thế, ông ta đề nghị trang trải chi phí thuê tàu cho quân thập tự đổi lại họ sẽ đánh chiếm lại cảng Zaga ở Damaltia(thành phố chư hầu của Venezia, mà trước đó đã nổi dậy rồi tự đặt nó dưới sự bảo trợ của Hungary), quân viễn chinh đồng ý. Thành phố thất thủ vào tháng 11 năm 1202 sau một cuộc bao vây nhanh chóng. Innocent và hội đồng hồng y nhắm mắt làm ngơ trước hành động này.
Quân viễn chinh tới thành phố vào mùa hè năm 1203 và nhanh chóng tổ chức tấn công, khởi đầu bằng một đám cháy lớn gây hư hỏng phần lớn thành phố, và sau đó họ tràn vào thành phố. Alexios III chạy trốn khỏi thủ đô, và Alexios Angelos được tấn phong lên ngai vàng là Alexios IV cùng với người cha mù của mình làm đồng hoàng đế. Tuy nhiên, Alexios IV và Isaac II đã không thể giữ lời hứa của mình và đã bị lật đổ bởi Alexios V. Cuối cùng, quân viễn chinh tấn công thành phố lần thứ hai vào ngày 13 tháng 4 năm 1204 và Constantinopolis đã bị cướp bóc và tàn sát bởi quân thập tự. Nhiều biểu tượng vô giá, di vật, và các báu vật khác sau đó bị đem về Tây Âu, một số lượng lớn ở Venezia. Khi Innocent III nghe nói về việc quân viễn chinh cướp phá Constantinopolis, ông đã phạt vạ họ nhưng khá nhẹ nhàng. Tình hình đã ngoài kiểm soát. Trật tự chỉ được khôi phục khi quân viễn chinh và Venezia tiến hành thỏa thuận; Baldwin của Vlaanderen được bầu làm Hoàng đế và Thomas Morosini người Venezia được chọn làm Thượng Phụ. Các nhà lãnh đạo thập tự chinh đã phân chia các tỉnh của Đông La Mã cho nhau, nhưng các hoàng thân Đông La Mã ở Nicaea, Trebizond và Epirus đã giương cờ khởi binh nhằm khôi phục lại đô thành. Sự suy yếu của Vương quốc Hồi giáo Rum sau Cuộc xâm lăng của quân Mông Cổ năm 1242-43 đã tạm thời chấm dứt các cuộc đột kích của quân Seljuk ở phía đông, giúp quân Nicaea dốc toàn lực quyết đấu với Đế chế La Tinh ở phía bắc.
Tái chiếm Constantinopolis
Đông La Mã năm 1263. Đế Chế Nicaea, được thành lập dưới triều đại Laskarid, đã tiến hành các cuộc chiến tranh với đế quốc Latin. Quân Nicaea đã đè bẹp quân Latin và đồng minh ở Poimanenon và Pelagonia. Constantinopolis được giành lại vào năm 1261 trong khi Epirus thất bại trong cuộc đua giành lại đô thành. Điều này dẫn đến một sự hồi sinh ngắn ngủi của Đông La Mã dưới thời Mikhael VIII Palaiologos, nhưng đế quốc chiến tranh đã bị tàn phá bởi những kẻ thù đang vây quanh đế quốc. Để duy trì các chiến dịch của mình chống lại quân Latin, Mikhael kéo quân từ Tiểu Á, và thu thuế thật nặng làm nông dân bị kiệt quệ, gây ra nhiều sự oán giận. Dự án xây dựng khổng lồ đã được hoàn thành ở Constantinopolis để sửa chữa những thiệt hại của cuộc Thập tự chinh thứ tư, nhưng không ai trong số bất kỳ người nông dân nào ở Tiểu Á cảm thấy thích thú và đồng tình, khi mà các cuộc tấn công của ghazis cuồng tín thường xuyên xảy ra và sưu cao thuế nặng luôn đè nặng lên cổ họ.
Mikhael đã chọn cách mở rộng Đế Chế thay vì bảo vệ những lãnh địa của mình ở Tiểu Á, và chỉ đạt được thành công ít ỏi. Để tránh cho thủ đô khỏi bị người Latin cướp bóc và tấn công, ông buộc Giáo hội phải đến hội kiến ở Roma, một giải pháp tạm thời khiến cho giai cấp nông dân oán ghét Michael và Constantinopolis đến đỉnh điểm. Các nỗ lực của Andronikos II và sau đó là của cháu trai Andronikos III được coi là những nỗ lực cuối cùng để khôi phục lại vinh quang cho đế quốc. Tuy nhiên, việc sử dụng lính đánh thuê của Andronikos II thường phản tác dụng với việc đám lính đánh thuê Catalan đang tàn phá các vùng nông thôn và tăng sự oán giận đối với Constantinopolis.
Sự trỗi dậy của người Ottoman và những ngày cuối cùng của Đông La Mã
nhỏ|trái|[[Sự thất thủ của Constantinopolis|Cuộc bao vây Constantinopolis năm 1453.]] Đế quốc Đông La Mã vào năm 1403. Đông La Mã đã bị tàn phá bởi nội chiến sau khi Andronikos III qua đời. Cuộc nội chiến kéo dài sáu năm không chỉ tàn phá đế quốc mà còn tạo điều kiện cho vua Serbia Stefan IV Dushan (1331–1346) xua quân tràn vào các lãnh thổ của Đế quốc và thiết lập cái gọi là Đế quốc Serbia trong một thời gian ngắn. Năm 1354, một trận động đất tại Gallipoli tàn phá các pháo đài, tạo điều kiện cho quân Ottoman (vốn được thuê làm lính đánh thuê trong cuộc nội chiến bởi Ioannes VI Kantakouzenos) hình thành thế lực của họ ở châu Âu. Khi các cuộc nội chiến ở Đông La Mã chấm dứt thì cũng là lúc người Ottoman đánh bại các hiệp sĩ Serbia và bắt họ phải công nhân sự bảo hộ của Ottoman. Sau khi người Serbia thất bại ở trận Kosovo, phần lớn Balkan đã nằm dưới ách cai trị của Đế quốc Ottoman.
Các hoàng đế Đông La Mã đã nhiều lần kêu gọ