✨Đế quốc La Mã

Đế quốc La Mã

Đế quốc La Mã hay Đế quốc Rôma ( ; ) là giai đoạn tiếp nối Cộng hòa La Mã cổ đại. Chính thể Đế chế La Mã, được cai trị bởi các quân chủ gọi là hoàng đế La Mã, thống lĩnh các vùng đất rộng lớn bao quanh Địa Trung Hải ở châu Âu, Bắc Phi, và Tây Á. Kể từ khi Caesar Augustus đăng cơ cho tới thời kỳ loạn lạc vào thế kỷ thứ 3, La Mã theo chế độ Nguyên thủ một hoàng đế, đóng đô ở Rôma, lấy Italia làm đất mẫu với nhiều tỉnh phụ thuộc. La Mã về sau được cai trị bởi nhiều hoàng đế, san sẻ quyền lực để kiểm soát hiệu quả hơn cực đông và cực tây Đế quốc. Thành Rôma vẫn là kinh đô trên danh nghĩa của cả hai nửa cho tới năm 476, thời điểm mà phù hiệu đế chế được gửi tới Constantinopolis sau khi Ravenna rơi vào tay các tộc rợ Giécmanh. Việc thụ nhận đạo Kitô như là quốc giáo của La Mã vào năm 380 và sự thất thủ của Tây La Mã trước các cuộc xâm lấn của các vương quốc Giécmanh được lấy làm mốc đánh dấu cho sự chấm dứt của thời kỳ cổ đại Hy-La và sự khởi đầu của thời kỳ Trung cổ ở phương Tây. Cũng do những sự kiện ấy, cộng với quá trình Hy Lạp hóa dần dần các tỉnh phía đông, giới sử học đã đặt tên riêng cho nhà nước La Mã kế tục còn sót lại ở phía đông là Đế quốc Byzantine.

Nhà nước tiền thân của Đế quốc La Mã, tức Cộng hòa La Mã, trở nên cực kỳ bất ổn sau các xung đột nội bộ triền miên, không có hồi kết. Giữa thể kỷ thứ nhất TCN, Julius Caesar được bổ nhiệm làm dictator perpetuo ("độc tài vĩnh viễn"), sau bị mưu sát vào năm 44 TCN bởi nhiều kẻ bất mãn với chế độ do Caesar bày ra. Các cuộc nội chiến và xung đột tiếp diễn, rốt cuộc dẫn đến chiến thắng của Octavian trước Mark Antony và Cleopatra tại trận Actium vào năm 31 TCN. Ngay năm sau, Octavian chinh phục Vương quốc Ptolemaios ở Hy Lạp, chấm dứt thời kỳ Hy Lạp hóa vốn bắt nguồn từ những cuộc thảo phạt của Alexandros vào khoảng thế kỷ thứ 4 TCN. Thế lực của Octavian trở nên quá đỗi lớn mạnh, khiến viện nguyên lão đành ban cho ông quyền lực tuyệt đối kèm danh hiệu mới là Augustus, bản chất là đã biến ông thành vị hoàng đế đầu tiên của La Mã. Lãnh thổ rộng lớn của La Mã đời Augustus được phân chia thành các tỉnh nguyên lão và các tỉnh đế chế, với Italia vẫn là trung tâm hành chính của toàn thể đế quốc.

Hai thế kỷ đầu của Đế quốc La Mã chứng kiến một sự thịnh vượng và ổn định chưa từng có tiền lệ, thường được gọi là thời kỳ Pax Romana (). Lãnh thổ La Mã đạt cực thịnh dưới đời Traianus (98–117); tuy nhiên không lâu sau, dấu hiệu của một giai đoạn rối ren đã nhen nhóm từ đời Commodus (177–192). Vào thế kỷ thứ 3 CN, La Mã lâm vào một cuộc khủng hoảng mang tính quyết định sự tồn vong của chính nó, khi các lãnh thổ như Gallia và Palmyra lần lượt tuyên bố độc lập và ly khai khỏi Đế quốc. Đồng thời, hàng loạt các hoàng đế tự xưng, hầu hết xuất thân từ nhà binh, thay phiên nhau lãnh đạo Đế quốc. Để bình định xã tắc, Diocletianus đã cho lập hai triều đình riêng biệt ở Đông phần Hy Lạp và ở Tây phần La Mã vào năm 286; đạo Kitô trở nên lớn mạnh nhờ việc ban hành Chỉ dụ Milan vào năm 313. Ít lâu sau, Giai đoạn Di cư diễn ra, bao gồm các cuộc xâm lăng của người Giécmanh và các toán quân Hung của Attila, quá trình mà đã khiến Đế quốc Tây La Mã bị suy yếu trầm trọng. Sau sự kiện thành Ravenna rơi vào tay tộc rợ Heruli và Romulus Augustus bị phế truất bởi Odoacer vào năm 476, Đế quốc Tây La Mã rốt cuộc bị tiêu diệt; hoàng đế Đông La Mã Zeno tuyên bố bãi bỏ nhà nước phía Tây vào năm 480. Tuy vậy, Đế quốc Đông La Mã vẫn bền bỉ sống sót trong vòng 1 thiên niên kỷ tiếp, cho tới sự kiện quân Turk Ottoman của Mehmed II hạ thành Constantinople vào năm 1453.

Do phạm vi ảnh hưởng rộng lớn và sự tồn tại lâu dài của Đế quốc La Mã, thể chế và văn hóa của La Mã cổ đại đã có tầm ảnh hưởng sâu sắc và dai dẳng đối với sự phát triển của ngôn ngữ, tôn giáo, nghệ thuật, kiến trúc, văn học, triết học, pháp luật, và các hình thức chính phủ của các vùng lãnh thổ từng nằm dưới sự cai trị của nó. Tiếng Latinh của người La Mã đã phát sinh các ngôn ngữ Rôman về sau, trong khi tiếng Hy Lạp trung đại đã được Đông La Mã công nhận là ngôn ngữ chính thức của họ. Sự thụ nhận Kitô giáo của Đế quốc La Mã đã dẫn đến sự hình thành các vương quốc Kitô Trung cổ. Nghệ thuật Hy Lạp và La Mã cổ đại đã truyền cảm hứng bất tận cho thời kỳ Phục hưng Ý. Truyền thống kiến ​​trúc của Roma đóng vai trò nền tảng cho các dòng kiến trúc như Romanesque, Phục hưng, Tân cổ điển, cũng như kiểu Hồi giáo. Sự mặc khải nền khoa học và kỹ thuật thời Hy-La (cũng là nền tảng cho khoa học Hồi giáo) ở Châu Âu thời Trung cổ đã dẫn đến khoa học Phục hưng và Cách mạng khoa học. Về mặt pháp quyền, bộ luật La Mã đã được kế thừa và phát huy bởi rất nhiều hệ thống pháp luật trên thế giới, chẳng hạn bộ luật Napoléon của Pháp. Ngoài ra, thể chế cộng hòa của Roma đã để lại một di sản sâu đậm, ảnh hưởng đến các nước cộng hòa thành bang ở Ý Trung cổ, cũng như nhà nước Hoa Kỳ ban đầu lập quốc và các nước cộng hòa dân chủ hiện đại.

Lịch sử

Quá độ từ Cộng hòa sang Đế chế

thumb|upright|Pho tượng [[Augustus của Prima Porta miêu tả chân dung Caesar Augustus
(đầu thế kỷ thứ nhất)]] Lãnh thổ Rôma bắt đầu khuếch trướng ít lâu sau sự sáng lập của Cộng hòa La Mã vào thể kỷ thứ 6 TCN, song vẫn chưa thoát khỏi phạm vi bán đảo Ý tới tận thế kỷ thứ 3 TCN. Thời đó, nó đã sẵn là một "đế quốc" (tức là một nước mạnh) từ lâu trước cả khi có hoàng đế. Cộng hòa La Mã không phải là một quốc gia-dân tộc theo nghĩa hiện đại, mà thực chất là một mạng lưới các thị trấn tự trị (tùy theo nhiều mức độ khác nhau đối với Viện nguyên lão La Mã) và các quận tỉnh được điều hành bởi các tướng lĩnh quân đội. Nền Cộng hòa được cai trị, không bởi các hoàng đế, mà bởi các pháp quan được tuyển cử thường niên (trên hết là các quan chấp chính La Mã) kết hợp với quyền giám sát từ Viện nguyên lão. Bởi nhiều nguyên cớ khác nhau, các cuộc biến loạn quân sự và chính trị ở La Mã diễn ra rất thường xuyên vào thế kỷ thứ nhất TCN, giúp mở đường đến thể chế hoàng đế về sau. Quyền hạn quân sự của quan chấp chính được thể hiện bằng khái niệm pháp lý La Mã imperium, nghĩa đen là "chỉ huy". Đôi khi, nếu quan chấp chính lập công lớn thì được tôn vinh bằng danh hiệu imperator (vị chỉ huy). Đây chính là gốc gác của từ emperor (và empire) trong tiếng Anh, bắt nguồn từ việc danh hiệu này (cùng nhiều danh hiệu khác) được ban cho các các hoàng đế La Mã thế hệ đầu vào dịp họ đăng cơ.

Các xung đột nội bộ, các vụ mưu phản và các cuộc nội chiến diễn ra triền miên và tràn lan ở La Mã từ thế kỷ thứ 2 TCN trở đi, đồng thời với quá trình La Mã mở mang bờ cõi ra khỏi Italia. Cuối giai đoạn này, vào năm 44 TCN, Julius Caesar nhận chức quan độc tài trong một thời gian ngắn trước khi bị sát hại. Đám thủ phạm phản trắc bèn chạy trốn khỏi Roma, nhưng sau bị đánh bại ở Philippi bởi ba quân của Mark Antony và con trai nuôi của Caesar là Octavian vào năm 42 TCN. Sự chia cắt đế quốc giữa Antony và Octavian không tồn tại được bấy lâu, căng thẳng leo thang giữa hai nhà cai trị và rốt cuộc lên đến cao trào với chiến thằng quyết định của Octavian tại trận Actium trước Mark Antony và tình nhân Cleopatra vào năm 31 TCN, khép lại cuộc chiến cuối cùng của Cộng hòa La Mã. Năm 27 TCN, Viện nguyên lão và nhân dân La mã tấn phong Octavian là princeps ("đệ nhất công dân"), được trao quyền phó chấp chính imperium, cùng tước vị mới là Augustus ("người được tôn kính") – chính thức mở ra thời kỳ Nguyên thủ của Đế quốc La Mã (thường được tính từ năm 27 TCN - 284). Nền cộng hòa bấy giờ chỉ còn là tấm bình phong tồn tại trên danh nghĩa, ai ai cũng biết Augustus là người đứng sau nắm giữ mọi quyền hành tại Roma. Bởi lẽ xã tắc an bình và thịnh vượng nhờ tài trị nước của Augustus, ông được nhân dân hết mực yếu mến và được coi như một vị quân chủ trên thực tế chứ không chỉ trên danh nghĩa đơn thuần.

Thái bình La Mã

Trong vòng 200 năm kể từ đời Augustus, La Mã bước vào giai đoạn phồn vinh kinh tế và ổn định chính trị chưa từng có tiền lệ, được gọi là Pax Romana ("Thái bình La Mã"). Các cuộc nổi loạn địa phương hi hữu nổ ra, song nếu xảy đến thì bị dập tắt một cách "tàn nhẫn và nhanh gọn". Triều đại Julio-Claudius do Augustus lập ra còn trải qua bốn đời hoàng đế nữa — Tiberius, Caligula, Claudius, và Nero — trước khi đứt đoạn vào năm 69 do sự biến Tứ Đế Niên. Vespasianus chiến thắng và sáng lập triều đại Flavius ngắn ngủi. Tiếp nối là triều đại Nerva–Antonine, nổi danh với "Ngũ Hiền Đế": Nerva, Traianus, Hadrianus, Antoninus Pius, và vị minh quân say mê triết học Marcus Aurelius.

Tây phương sụp đổ và Đông phương kế tục

upright=1.35|thumb|[[Thời đại Di dân|Các cuộc xâm lược của người rợ bao gồm các luồng di dân Giécmanh vào lãnh thổ La Mã. Mặc dù vùng biên cương phía bắc liên tục bị quấy nhiễu suốt chiều dài lịch sử của Đế quốc, thời đại di cư chính thức bắt đầu từ thế kỷ thứ 4 TCN và kéo dài nhiều thế kỷ. Trong thời kỳ ấy, phần phía tây được cai trị bởi các vị vua ngoại bang phương bắc, nổi bật trong số đó là Charlemagne. Về mặt lịch sử, sự kiện này đánh dấu sự chuyển tiếp từ Cổ đại Hy-La sang Trung cổ ở phương Tây.]]

Theo quan điểm của sử gia Hy Lạp, Dio Cassius, một sử gia đương thời, với việc hoàng đế Commodus lên kế vị vào năm 180 CN đã đánh dấu sự suy yếu "từ một vương quốc của vàng trở thành một vương quốc của gỉ và sắt" -bình luận nổi tiếng trên đã khiến một số nhà sử học, đặc biệt là Edward Gibbon coi triều đại của Commodus như là sự khởi đầu cho sự suy tàn của Đế quốc La Mã.

Năm 212, dưới thời trị vì của Caracalla, quyền công dân La Mã đã được ban cho tất cả các cư dân tự do của Đế quốc. Tuy nhiên, bất chấp điều này, triều đại Severus lại là một triều đại hỗn loạn-và các vị hoàng đế của triều đại này thường xuyên bị sát hại hoặc bị hành quyết-và tiếp sau sự sụp đổ của nó, đế quốc La Mã đã bị nhấn chìm bởi cuộc khủng hoảng của thế kỷ thứ ba, một thời kì của những cuộc xâm lược, nội chiến, suy thoái kinh tế, và bệnh dịch . Trong việc định rõ các thời kỳ lịch sử, cuộc khủng hoảng này đôi khi được xem như là cột mốc cho sự chuyển tiếp từ thời kì cổ đại sang thời kì Hậu cổ đại. Aurelianus (trị vì từ năm 270–275) đã cứu đế quốc thoát khỏi bờ vực sụp đổ và ổn định nó. Diocletianus (trị vì từ năm 284-305) đã hoàn tất việc khôi phục lại đế quốc, ông ta đã không chấp nhận vai trò Nguyên Thủ và thay vào đó đã trở thành vị hoàng đế đầu tiên thường xuyên được gọi là Dominus, "chủ nhân" hay " Chúa Tể". Triều đại của Diocletianus còn chứng kiến nỗ lực phối hợp chung lớn nhất của đế quốc chống lại mối đe dọa thấy rõ của Thiên Chúa giáo, "Cuộc Đại bức hại".

Diocletianus đã phân chia đế quốc thành bốn khu vực, mỗi khu vực lại được cai trị bởi một vị hoàng đế, chế độ này được gọi là Tứ đầu chế. Tin tưởng rằng mình đã khắc phục được những hỗn loạn mà đã gây khó khăn cho Rome, ông đã thoái vị cùng với vị đồng hoàng đế của mình, và chế độ Tứ đầu chế đã sụp đổ. Trật tự cuối cùng đã được Constantinus Đại đế khôi phục, ông ta đã trở thành vị hoàng đế đầu tiên cải sang đạo Thiên chúa, và là người đã thiết lập Constantinople là kinh đô mới của đế quốc phía Đông. Trong suốt những thập kỷ dưới các triều đại Constantinus và Valentinus, đế quốc được phân chia theo trục đông tây, với hai trung tâm quyền lực nằm tại Constantinople và Rome. Triều đại của Julianus, dưới sự ảnh hưởng từ vị cố vấn của ông là Mardonius, đã cố gắng khôi phục lại tôn giáo Hy Lạp hóa và La Mã cổ đại, điều này chỉ làm gián đoạn sự kế vị của các hoàng đế theo Thiên Chúa giáo trong một thời gian ngắn ngủi. Theodosius I, vị hoàng đế cuối cùng cai trị cả phía Đông và phía Tây, đã qua đời vào năm 395 CN sau khi biến Thiên Chúa giáo trở thành tôn giáo chính thức của đế quốc.

thumb|upright=1.15|left|Đế quốc La Mã vào năm 476

Đế quốc Tây La Mã đã bắt đầu tan rã vào đầu thế kỷ thứ 5 CN khi các cuộc xâm lược và di dân của người German đã lấn át khả năng đồng hóa những người di dân và đánh đuổi những kẻ xâm lược của đế quốc. Người La Mã đã thành công trong việc đánh đuổi toàn bộ những kẻ xâm lược, nổi tiếng nhất trong số đó là Attila, dẫu vậy do đế quốc đã đồng hóa nhiều tộc người German không thực sự trung thành với Rome, điều này khiến cho nó bắt đầu tự hủy diệt chính mình. Hầu hết các biên niên sử xác định sự kết thúc của Đế quốc Tây La Mã là vào năm 476, khi Romulus Augustulus bị vị thủ lĩnh người German là Odoacer ép thoái vị. Bằng việc xưng thần với hoàng đế Đông La Mã, thay vì tự xưng là hoàng đế, Odoacer đã lật đổ đế quốc Tây La Mã bằng cách chấm dứt dòng dõi của các vị hoàng đế Tây La Mã.

Đế quốc ở phía Đông— thường được gọi là đế quốc Đông La Mã, nhưng được nhắc đến vào thời của nó như là đế quốc La Mã hoặc bằng nhiều tên gọi khác— đã có một số mệnh khác. Nó đã sống sót trong suốt gần một thiên niên kỷ sau sự sụp đổ của nửa phía Tây và trở thành vương quốc Thiên Chúa giáo ổn định nhất trong Thời kỳ Trung Cổ. Vào thế kỷ thứ 6 CN, Justinianus I đã tái chinh phục lại bán đảo Ý từ tay người Ostrogoth, Bắc Phi từ người Vandal, và miền Nam Tây Ban Nha từ người Visigoth. Nhưng chỉ trong vòng vài năm sau khi Justinianus qua đời, lãnh thổ nằm dưới sự kiểm soát của người Đông La Mã ở Ý đã phần lớn rơi vào tay của người Lombard, những người đã định cư ở bán đảo này. Ở phía Đông, một phần là hậu quả đến từ sự tàn phá của Đại dịch Justinianus, người La Mã đã bị đe dọa bởi sự trỗi dậy của đạo Hồi, những tín đồ của họ đã nhanh chóng chinh phục các vùng đất của Syria, Armenia và Ai Cập trong các cuộc chiến tranh Byzantine-Ả Rập, và sớm gây ra mối đe dọa trực tiếp đối với Constantinople. Trong thế kỷ tiếp theo, người Ả Rập cũng đã chiếm đóng miền Nam Ý và Sicily.

thumb|upright=1.35|Đế quốc Đông La Mã (Byzantium) vào khoảng năm 1025

Tuy nhiên, người La Mã đã thành công trong việc ngăn cản sự bành trướng xa hơn nữa của đạo Hồi vào những vùng lãnh thổ của họ trong thế kỷ thứ 8, và bắt đầu từ thế kỷ thứ 9 họ đã tái khôi phục được phần nào những vùng đất đã bị mất. Năm 1000 CN, đế quốc Đông La Mã đã đạt tới đỉnh cao của nó: Basil II đã tái chinh phục lại Bulgaria và Armenia, văn hóa và thương mại đã hưng thịnh. Tuy vậy, ngay sau đó sự bành trướng đã bất ngờ bị chặn lại vào năm 1071 với thất bại của người Đông La Mã trong trận Manzikert. Hậu quả của trận chiến này đã khiến cho đế quốc trải qua một thời kỳ suy yếu ngắn. Hai thập kỷ xung đột nội bộ và các cuộc xâm lược của người Turk cuối cùng đã mở đường cho hoàng đế Alexios I Komnenos gửi một lời kêu gọi giúp đỡ tới các quốc gia Tây Âu vào năm 1095. Sau khi quân đội đế quốc tái chiếm lại được Constantinople, đế quốc không khác gì một nhà nước Hy Lạp bị giới hạn ở bờ biển Aegea. Đế quốc Đông La Mã cuối cùng đã sụp đổ khi Mehmed II chinh phục Constantinople vào ngày 29 tháng 5 năm 1453.

Địa lý và nhân khẩu

thumb|left|[[Italia (tỉnh La Mã)|Ý được thiết lập bởi Augustus. Vì là quê hương của người La Mã và trung tâm của đế quốc, Ý đã là Domina (nữ hoàng) của các tỉnh, và được nhắc đến như là "rectrix mundi" ("kẻ cai trị thế giới", "chúa tể thế giới") và "omnium terrarum parens" ("quê hương của tất cả các vùng đất", "cội nguồn của mọi xứ sở").]] Đế quốc La Mã là một trong những đế quốc lớn nhất trong lịch sử, với những vùng lãnh thổ tiếp giáp nhau khắp châu Âu, Bắc Phi và Trung Đông. Thành ngữ Latinh imperium sine fine ("đế quốc mà không có điểm kết thúc" ) nhằm nêu lên sự mộng tưởng rằng đế quốc không bị giới hạn về cả thời gian hay không gian. Trong bộ sử thi Aeneid của Virgil, sự vô hạn của đế quốc được nói là do vị thần Jupiter ban cho những người La Mã. Tuyên bố về sự thống trị thế giới này đã được tiếp tục nhắc đến và tồn tại cho đến khi Đế quốc nằm dưới sự thống trị của Kitô giáo vào thế kỷ thứ 4.

Ngoài việc sáp nhập thêm những vùng lãnh thổ rộng lớn trong tiến trình tạo dựng nên đế quốc của mình, người La Mã còn là những nhà điêu khắc cực lớn đối với môi trường của họ và là những người trực tiếp thay đổi địa lý. Ví dụ như, toàn bộ các cánh rừng đã bị đốn hạ để cung cấp đủ nguồn gỗ cho việc mở rộng đế quốc. Trong tác phẩm Critias của mình, Plato đã miêu tả sự phá rừng như sau: tại nơi trước kia từng là "một khu rừng dồi dào trên núi," lúc này đây ông ta chỉ có thể nhìn thấy "chỉ đơn thuần là khung xương của vùng đất."

Trong thực tế, sự bành trướng của người La Mã được thực hiện chủ yếu dưới thời Cộng hoà, dẫu vậy khu vực Bắc Âu chỉ được chinh phục vào thế kỷ 1, khi mà người La Mã đã củng cố quyền lực của họ ở châu Âu, châu Phi và châu Á. Dưới triều đại của Augustus, một "bản đồ toàn cầu của thế giới được biết đến" đã được trưng bày lần đầu tiên trước công chúng tại Rome, trùng khớp với bố cục của tác phẩm toàn diện nhất về địa lý chính trị mà vẫn còn tồn tại từ thời cổ đại, Geography của nhà văn người Hy Lạp gốc Pontos Strabo Khi Augustus qua đời, tác phẩm ca ngợi về những thành tựu của ông (Res Gestae) đã mô tả những nét đặc trưng nổi bật theo danh mục về địa lý của các dân tộc và những nơi bên trong đế quốc. Địa lý, các cuộc điều tra dân số, và những văn thư ghi lại được lưu giữ một cách kĩ càng là những mối quan tâm chủ yếu của chính quyền đế quốc. nhỏ|upright=1.2|Một đoạn tàn tích của Trường thành Hadrian Đế quốc đạt tới đỉnh cao về lãnh thổ của nó dưới thời Trajan (trị vì từ năm 98–117), được cho là khoảng từ một phần tư tới một phần sáu dân số thế giới điều này khiến cho nó trở thành quốc gia có dân cư lớn nhất và lớn hơn bất cứ thực thể chính trị thống nhất nào ở phương Tây cho đến giữa thế kỷ 19. Các nghiên cứu nhân khẩu học gần đây đã kết luận rằng dân số của nó vào lúc đỉnh điểm nằm trong khoảng từ tới hơn . Bất cứ thành phố nào trong số ba thành phố lớn nhất của đế quốc—Rome, Alexandria, và Antioch—gần như đều có kích thước gấp đôi bất kỳ thành phố châu Âu nào vào đầu thế kỷ 17.

Sử gia Christopher Kelly đã miêu tả nó:

Vị hoàng đế kế vị Trajanus, Hadrianus đã thông qua một chính sách duy trì thay vì mở rộng đế quốc. Các đường biên giới (fines) đã được đánh dấu, còn những phòng tuyến biên giới (limes) thì được tuần tra. Trường thành Hadrianus mà đã ngăn cách thế giới La Mã khỏi những gì đã được coi là một mối đe dọa man rợ luôn hiện diện là công trình quan trọng nhất còn sót lại của nỗ lực này.

Ngôn ngữ

Ngôn ngữ của người La Mã là tiếng Latin, nó đã được Virgil nhấn mạnh như là nguồn cội của sự thống nhất và truyền thống của người La Mã Cho đến tận thời của Alexander Severus (trị vì từ năm 222-235), giấy khai sinh và di chúc của công dân La Mã đều phải được viết bằng tiếng Latin. Tiếng Latin cũng còn là ngôn ngữ của các tòa án pháp định ở phía Tây và của quân đội trên khắp Đế quốc, nhưng lại không được áp dụng chính thức đối với những cư dân nằm dưới sự cai trị của người La Mã. Chính sách này tương phản với của Alexandros Đại đế, ông ta mong muốn biến tiếng Hy Lạp trở thành ngôn ngữ chính thức trên khắp đế quốc của mình. Như là một hệ quả từ các cuộc chinh phục của Alexandros, tiếng Hy Lạp Koine đã trở thành ngôn ngữ chung ở khu vực quanh phía đông Địa Trung Hải và ở Tiểu Á. "Biên giới ngôn ngữ" này đã phân chia đế quốc thành hai nửa với tiếng Latin ở Phía Tây và tiếng Hy Lạp ở Phía Đông thông qua bán đảo Balkan, tạo ra một hệ ngôn ngữ song song bên trong đế quốc La Mã.

Những người La Mã mà được nhận một nền giáo dục ưu tú, thì lại học tiếng Hy Lạp như là một ngôn ngữ thơ ca, và hầu hết những người thuộc chính quyền đều có thể nói tiếng Hy Lạp. Các vị hoàng đế của triều đại Julio-Claudius đã khuyến khích những tiêu chuẩn cao đối với tiếng Latin chuẩn (Latinitas), một trào lưu ngôn ngữ được đồng nhất theo những thuật ngữ hiện đại như là tiếng La tinh cổ điển, và ủng hộ việc sử dụng chính thức tiếng Latin trong các hoạt động kinh doanh. Hoàng đế Claudius đã cố gắng để hạn chế việc sử dụng tiếng Hy Lạp, và nhân dịp này ông đã cho thu hồi quyền công dân của những người ít sử dụng tiếng Latin, nhưng ngay cả trong Viện nguyên lão, ông chỉ cần sử dụng đến song ngữ riêng của mình trong những dịp phải tiếp kiến với những sứ thần biết nói tiếng Hy Lạp. và hoàng đế đã sử dụng hai viên thư ký hoàng gia, một dùng tiếng Hy Lạp và một là tiếng Latinh, để đề ngày tháng cho triều đại của ông.

nhỏ|upright=1.4|trái|Tờ giấy [[papyrus thế kỉ thứ 5 cho thấy một đoạn trích từ một bài diễn văn của Cicero sử dụng song song cả tiếng Latinh và Hy Lạp]] Ở phía Đông của đế chế, pháp luật và các văn bản chính thức thường xuyên được dịch sang tiếng Hy Lạp từ tiếng La tinh. Sự giao thoa hàng ngày của hai ngôn ngữ được thể hiện trong những câu văn viết bằng song ngữ, mà thậm chí đôi khi có sự chuyển đổi qua lại giữa tiếng Hy Lạp và Latinh. Sau khi tất cả các cư dân tự do của đế quốc được ban cho quyền công dân La Mã vào năm 212 CN, một số lượng lớn các công dân La Mã không biết nói tiếng Latinh, tuy vậy tiếng Latin vẫn là một dấu hiệu của "người La Mã."

Một trong những cải cách của hoàng đế Diocletianus (trị vì từ năm 284-305) đó là đã tìm cách khôi phục lại uy quyền của tiếng Latinh và thành ngữ tiếng Hy Lạp ἡ κρατοῦσα διάλεκτος (hẽ kratousa dialektos) là minh chứng cho việc duy trì địa vị của tiếng Latin là "ngôn ngữ của quyền lực". Học giả Libanius (thế kỷ thứ 4) coi tiếng Latinh như là nguyên nhân gây ra một sự suy giảm trong chất lượng của thuật hùng biện Hy Lạp Trong những năm đầu của thế kỷ thứ 6, hoàng đế Justinianus đã tiến hành một nỗ lực viển vông nhằm tái khẳng định địa vị của tiếng Latin như là ngôn ngữ của pháp luật, mặc dù vào thời của ông ta, tiếng Latin không còn giữ được sự thịnh hành như là một sinh ngữ ở phía Đông.

Thổ ngữ và di sản ngôn ngữ

nhỏ|upright=1.5|Chữ khắc bằng song ngữ Latinh-Punic tại một nhà hát ở [[Leptis Magna, Tỉnh châu Phi của La Mã (nay thuộc về Libya)]] Các tài liệu tham khảo dành cho những người phiên dịch cho thấy các ngôn ngữ địa phương đã tiếp tục được sử dụng thay vì tiếng Hy Lạp và Latinh, đặc biệt là ở Ai Cập nơi mà tiếng Copt nổi trội hơn hẳn, và trong các môi trường quân sự dọc theo sông Rhine và Danube. Những luật gia La Mã cũng cho thấy một mối quan tâm đối với các ngôn ngữ địa phương như tiếng Punic, Gaul, và tiếng Aram trong việc đảm bảo sự hiểu biết chính xác cùng với việc áp dụng pháp luật và những lời thề. Ở hành tỉnh châu Phi, tiếng Libya-Berber và Punic đã được sử dụng cho những chữ khắc và câu ghi trên các đồng tiền xu dưới triều đại Tiberius (thế kỷ thứ 1 sau công nguyên). Các chữ khắc bằng tiếng Libya-Berber và Punic lần xuất hiện trên các tòa nhà công cộng vào thế kỷ thứ 2, một số song song cùng với tiếng Latinh. Ở Syria, những người lính Palmyra thậm chí đã sử dụng thổ ngữ Aram trong các câu khắc, một ngoại lệ đáng lưu ý bởi vì theo luật thì tiếng Latin là ngôn ngữ của quân đội.

Kho lưu trữ của Babatha là một ví dụ có tính gợi ý về sự đa ngôn ngữ trong đế quốc. Những cuộn giấy cói này được đặt tên theo tên của một người phụ nữ Do Thái ở tỉnh Arabia có niên đại từ năm 93 tới năm 132 CN, chúng chủ yếu sử dụng tiếng Aram, thổ ngữ, viết bằng các ký tự Hy Lạp cùng với ảnh hưởng của tiếng Semit và Latinh; tuy nhiên một đơn thỉnh cầu gửi tới vị tổng đốc La Mã lại được viết bằng tiếng Hy Lạp.

Địa vị thống trị của tiếng Latinh trong giới học giả tinh hoa có thể làm phai mờ tính liên tục của ngôn ngữ nói, bởi vì tất cả các nền văn hóa bên trong đế quốc La Mã chủ yếu là được truyền miệng. Sau giai đoạn phân chia quyền lực chính trị vào thời kì hậu cổ đại, tiếng Latin đã phát triển thành các nhánh khác nhau với tính chất cục bộ mà cuối cùng đã trở thành nhóm ngôn ngữ Rôman, chẳng hạn như tiếng Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Pháp, Ý và Romania.

Vì là một ngôn ngữ quốc tế của tri thức và văn học, bản thân tiếng Latin vẫn tiếp tục là một phương tiện dùng trong các hoạt động ngoại giao và cho sự phát triển trí thức được đồng nhất với chủ nghĩa nhân văn thời Phục hưng cho đến tận thế kỷ 17, và đối với pháp luật và Giáo hội Công giáo Rôma cho đến ngày nay.

Mặc dù tiếng Hy Lạp tiếp tục là ngôn ngữ của Đế quốc Đông La Mã, sự phân bố ngôn ngữ ở phía Đông lại phức tạp hơn. Đa số những người nói tiếng Hy Lạp sống ở bán đảo Hy Lạp và các đảo, miền tây Tiểu Á, các thành phố lớn, và một số vùng ven biển. Giống như tiếng Hy Lạp và Latinh, tiếng Thrace có nguồn gốc từ hệ ngôn ngữ Ấn-Âu, giống như một số ngôn ngữ đã biến mất khác ở Anatolia vốn chỉ được chứng thực từ những chữ khắc vào thời kì đế quốc. Nhiều ngôn ngữ Phi-Á khác nhau— chủ yếu là tiếng Copt ở Ai Cập, và Aram ở Syria và Lưỡng Hà— chưa bao giờ bị tiếng Hy Lạp thay thế. Tuy nhiên, việc sử dụng tiếng Hy Lạp trên toàn thế giới là một nhân tố cho phép truyền bá Thiên Chúa giáo, như được chỉ ra thông qua ví dụ đó là việc sử dụng tiếng Hy Lạp trong các thư từ của thánh Paul. bói toánSulpicius Severus, khi đang biên soạn vào thế kỷ thứ 5 ở Gallia Aquitania, đã ghi chép bằng song ngữ với tiếng Gaul là ngôn ngữ đầu tiên. Sự tồn tại của thổ ngữ Galatia ở Anatolia mà gần giống với ngôn ngữ được nói bởi người Treveri gần Trier đã được chứng thực bởi Jerome (331–420), ông ta là người có sự hiểu biết trực tiếp. Đa phần các học giả ngôn ngữ học lịch sử đều cho rằng tiếng Gaul thực sự vẫn còn được nói cho đến tận giai đoạn giữa tới giai đoạn cuối thế kỷ thứ 6 ở Pháp. Bất chấp sự La Mã hóa đáng kể đối với văn hóa vật chất bản địa, tiếng Gaul đã được duy trì để có thể sống sót và đã tồn tại đồng thời với tiếng Latinh trong suốt hàng thế kỷ thống trị Gaul của người La Mã. trong khi lần cuối cùng tiếng Gaul được nhắc đến ở Pháp là bởi Gregory của Tours trong giai đoạn giữa năm 560 và 575, ông ta ghi chép rằng một điện thờ ở Auvergne mà "được gọi là Vasso Galatae theo tiếng Gallia" đã bị phá hủy và thiêu trụi. Sau một thời kỳ dài sử dụng song ngữ, ngữ hệ Gaul-La Mã mới xuất hiện mà bao gồm cả tiếng Pháp đã được định hình bởi tiếng Gaul theo một vài phương diện; trong trường hợp của tiếng Pháp chúng bao gồm các từ mượn và cách dịch phỏng theo (bao gồm oui, và ảnh hưởng trong cách chia động từ và thứ tự từ.

Xã hội

nhỏ|upright=1.25|Một bữa tiệc nhiều thế hệ được miêu tả trên một bức tranh tường ở [[Pompeii (thế kỷ thứ 1 sau công nguyên)]] thumb|Bữa tiệc của Seuso tại Lacus Pelso (Hồ Balaton)

Đế quốc La Mã có sự đa dạng văn hóa đặc biệt, cùng với "một khả năng gắn kết đáng kinh ngạc hơn nữa" để tạo ra một ý thức về bản sắc chung trong khi lại chứa đựng rất nhiều các dân tộc khác nhau nằm bên trong hệ thống chính trị của nó suốt một khoảng thời gian dài. Người La Mã đã chú ý đến việc tạo ra các công trình công cộng và những không gian thoáng đãng chung dành cho tất cả mọi người dân như là các khu chợ, đấu trường đài vòng, trường đua ngựa và các nhà tắm, điều này giúp nuôi dưỡng ý thức về "lối sống La Mã".

Xã hội La Mã cũng có nhiều hệ thống phân cấp xã hội chồng chéo mà những khái niệm hiện đại về "giai cấp" trong tiếng Anh có thể không đại diện một cách chính xác cho nó. Hai thập kỷ của những cuộc nội chiến mà từ đó đã giúp cho Augustus nổi lên và trở thành nhà cai trị duy nhất đã khiến cho xã hội truyền thống ở Rome rơi vào tình trạng hỗn loạn và biến động, nhưng nó lại không ảnh hưởng một cách trực tiếp tới sự phân bố giàu nghèo và quyền lực xã hội. Từ góc nhìn của các tầng lớp dưới, nó đơn giản chỉ là thêm vào kim tự tháp xã hội một đỉnh chóp. Những mối quan hệ cá nhân như sự bảo trợ, tình bạn (Amicitia), gia đình, hôn nhân đã tiếp tục ảnh hưởng đến các hoạt động chính trị và chính quyền như dưới thời Cộng hòa. Tuy nhiên, vào triều đại của Nero, việc tìm thấy một cựu nô lệ lại giàu có hơn một công dân tự do, hoặc một kỵ sĩ có nhiều quyền lực hơn một nguyên lão lại không phải là một điều bất thường.

Sự mập mờ chính xác hơn là sự rườm rà của hệ thống phân cấp xã hội quá cứng nhắc dưới thời cộng hòa đã dẫn đến sự gia tăng di động xã hội dưới thời đế quốc, cả theo chiều hướng đi lên và đi xuống, tới một mức độ vượt xa tất cả những xã hội cổ đại đã được ghi chép rõ ràng khác. Phụ nữ, nô lệ được giải phóng, và nô lệ có cơ hội để có được và sử dụng ảnh hưởng theo những cách mà trước kia họ ít có khả năng đạt được. Đời sống xã hội trong đế quốc, đặc biệt là đối với những người có tiềm lực cá nhân giới hạn, đã được thúc đẩy hơn nữa bởi thông qua sự phát triển của các hiệp hội tự nguyện và hội anh em (collegiasodalitates) được hình thành cho nhiều mục đích khác nhau: các hiệp hội nghề nghiệp và thương mại, các nhóm cựu chiến binh, những hội tương tế tôn giáo, các hội ăn uống và nhậu nhẹt, những đoàn biểu diễn nghệ thuật, và các hội mai táng.

thumb|Một công dân của [[Ai Cập thuộc La Mã|Ai Cập dưới thời La Mã (chân dung xác ướp Fayum)|288x288px]]

Địa vị pháp lý

Theo luật gia Gaius, sự khác biệt chủ yếu trong "luật pháp nhân" của người La Mã đó là tất cả mọi người sẽ là người tự do (Liberi) hoặc là nô lệ (servi). Tư cách pháp lý của người tự do hơn nữa có thể được xác định bằng quyền công dân của họ. Hầu hết người dân đều giữ những quyền hạn chế (chẳng hạn như ius Latinum,"quyền của người Latin"), nhưng có quyền được bảo vệ về mặt pháp luật và các đặc quyền không dành cho những người không có quyền công dân. Người tự do không được coi là công dân nhưng khi sinh sống bên trong thế giới La Mã thì giữ địa vị là peregrini, không phải người La Mã. Năm 212 CN, bằng sắc lệnh được biết đến với tên gọi là Constitutio Antoniniana, hoàng đế Caracalla đã mở rộng quyền công dân cho tất cả các cư dân tự do của đế quốc. Chủ nghĩa quân bình hợp pháp này đòi hỏi một sự sửa đổi sâu rộng đối với những pháp luật hiện hành vốn đã phân chia giữa công dân và những người không phải công dân.

Phụ nữ

Những người phụ nữ La Mã tự do được coi là công dân từ thời nhà nước Cộng hoà cho tới thời Đế quốc, nhưng họ không có quyền bỏ phiếu hay nắm giữ chức vụ chính trị, hoặc phục vụ trong quân đội. Đứa trẻ sinh ra từ người mẹ có quyền công dân thì cũng sẽ có được điều này, thể hiện bằng cách nói ex duobus civibus Romanis natos ("trẻ em sinh ra bởi hai công dân La Mã"). Một người phụ nữ La Mã giữ tên họ của gia đình mình (nomen) trong suốt cuộc đời. Con cái thường lấy theo tên của người cha, nhưng vào thời kì đế quốc, đôi khi lại sử dụng một phần tên của người mẹ cho tên của họ, hoặc thậm chí sử dụng nó để thay thế.

Hình thái hôn nhân cổ xưa manus trong đó người phụ nữ phải lệ thuộc vào uy quyền của người chồng đã được bãi bỏ một cách rộng khắp vào thời kì đế quốc, và một người phụ nữ đã lập gia đình có quyền giữ lại quyền sở hữu với bất kỳ của hồi môn nào mà họ sở hữu. Về mặt pháp lý, họ vẫn nằm dưới thẩm quyền pháp lý của người cha, bất kể là họ đã đi lấy chồng đi chăng nữa và chỉ khi nào người cha qua đời, họ mới được tự do về mặt pháp lý. Sự sắp đặt này là một trong những yếu tố về mức độ độc lập của phụ nữ La Mã được hưởng khi so sánh với những người phụ nữ của những nền văn hóa cổ đại khác và cho tới tận thời kỳ hiện đại: mặc dù họ phải trả lời cha mình về những vấn đề pháp lý, họ không bị ràng buộc bởi sự giám sát trực triếp của người cha trong đời sống hàng ngày, và người chồng không có quyền lực pháp lý đối với họ. Mặc dù đối với những người chỉ kết hôn một lần duy nhất, sẽ là một niềm tự hào khi là "một đàn ông -một phụ nữ" (univira), có rất ít sự kỳ thị đối với việc ly dị, hay là nhanh chóng tái hôn sau khi mất một người chồng do qua đời hoặc ly hôn.

Người con gái có quyền thừa kế bình đẳng với người con trai nếu người cha của họ qua đời mà không để lại một di chúc. Một người mẹ La Mã của quyền sở hữu tài sản và nhường lại nó khi thấy phù hợp, bao gồm thiết lập các điều khoản trong di chúc của mình, điều này khiến họ có ảnh hưởng rất lớn với những người con trai của họ ngay cả khi những người con trai của họ đã trưởng thành.

Là một phần trong cải cách của Augustus nhằm khôi phục lại đạo đức truyền thống và trật tự xã hội, luật đạo đức đã cố gắng để chỉnh đốn lại đạo đức của đàn ông và phụ nữ như là một biện pháp để thúc đẩy "các giá trị gia đình". Dưới thời cộng hòa Tội ngoại tình là một chuyện gia đình riêng tư, nó đã bị hình sự hóa và được định nghĩa chung là một hành vi tình dục bất chính (stuprum) mà diễn ra giữa một công dân nam và một phụ nữ có chồng, hoặc giữa một người phụ nữ có chồng với bất cứ nam giới nào không phải là chồng của họ. Nhà nước đã khuyến khích việc sinh con: một người phụ nữ nếu sinh được 3 người con thì sẽ được ban tặng những huy chương mang tính tượng trưng và quyền tự do về mặt pháp lý lớn hơn (ius trium liberorum).

Bởi vì họ có tư cách pháp lý là công dân và mức độ tự do nhất định, phụ nữ có thể sở hữu tài sản, ký kết các hợp đồng, và tham gia vào việc kinh doanh, bao gồm vận tải bằng tàu thủy, sản xuất, và cho vay. Những bản khắc trên khắp đế quốc tôn vinh phụ nữ như là người bảo trợ trong việc tài trợ cho các công trình công cộng, đây là dấu hiệu cho thấy họ có thể đã có được và tùy ý sử dụng sự giàu có đáng kể này; chẳng hạn như công trình Khải hoàn môn của nhà Sergii được Salvia Postuma tài trợ, bà là thành viên của gia tộc được vinh danh này, và công trình xây dựng lớn nhất tại khu chợ ở Pompeii được Eumachia tài trợ, bà ta là một nữ tư tế của nữ thần Venus.

Nô lệ và pháp luật

Dưới triều đại của Augustus, có đến 35% người dân ở Ý là nô lệ, điều này khiến cho La Mã trở thành một trong năm "xã hội nô lệ" trong lịch sử, trong đó những người nô lệ chiếm ít nhất một phần năm dân số và đóng một vai trò quan trọng trong nền kinh tế. Chế độ nô lệ là một chế độ phức tạp không những chống đỡ cấu trúc xã hội truyền thống của người La Mã mà còn đóng vai trò hữu ích trong nền kinh tế. Trong môi trường đô thị, nô lệ có thể là các chuyên gia như thầy giáo, thầy thuốc, đầu bếp, người giữ sổ sách, ngoài ra thì phần lớn các nô lệ đã qua huấn luyện hoặc không có kỹ năng thì lao động ở trong các hộ gia đình hoặc các công xưởng. Các ngành nông nghiệp và công nghiệp, chẳng hạn như xay xát và khai thác mỏ, đều dựa trên việc khai thác sức lao động của nô lệ. Bên ngoài đất Ý, nô lệ chiếm trung bình khoảng từ 10 đến 20 phần trăm dân số, ở tỉnh Ai Cập thuộc La Mã thì lại thưa thớt nhưng tập trung nhiều hơn ở một số vùng của Hy Lạp. Việc mở rộng quyền sở hữu đất canh tác và các ngành công nghiệp của người La Mã sẽ bị ảnh hưởng từ thực tiễn của chế độ nô lệ ở các tỉnh. Mặc dù chế độ nô lệ thường được đánh giá là đang trong quá trình suy tàn vào thế kỷ thứ 3 và thứ 4, nó vẫn là một phần không thể thiếu của xã hội La Mã cho tới tận thế kỷ thứ 5. Chế độ nô lệ đã chấm dứt dần dần vào thế kỷ thứ 6 và thứ 7 cùng với sự suy tàn của các trung tâm đô thị ở phía Tây và sự tan rã của nền kinh tế đế quốc phức tạp mà đã tạo ra nhu cầu cho nó. thumb|Nô lệ giữ tấm bảng viết cho người chủ nhân ([[phù điêu đến từ một cỗ quan tài thể kỷ thứ 4)]]

Pháp luật liên quan đến chế độ nô lệ là "cực kỳ phức tạp". Theo luật La Mã, nô lệ được coi là tài sản và không có địa vị pháp lý. Họ có thể phải chịu các hình thức nhục hình vốn không thường được áp dụng đối với công dân, bóc lột tình dục, tra tấn, và hành quyết nô lệ mà không cần xét xử. Một nô lệ bị cưỡng bức thì không phải là một vấn đề quan trọng trong pháp luật bởi lẽ tội hiếp dâm chỉ có thể bị tống giam nếu đó là người tự do; Người chủ nô có quyền khởi tố người cưỡng bức nô lệ của mình vì đã làm thiệt hại tài sản theo Luật Aquilia Nô lệ có hình thức hôn nhân không được pháp luật công nhận được gọi là conubium, nhưng đôi khi hôn nhân của họ được công nhận, và nếu cả hai được trả tự do thì họ có thể kết hôn. Sau những cuộc chiến tranh nô lệ dưới thời Cộng hòa, pháp luật dưới triều đại của Augustus và những người kế vị ông đã cho thấy một chiều hướng quan tâm đến việc kiểm soát các mối đe dọa từ các cuộc khởi nghĩa thông qua việc hạn chế kích thước của các nhóm lao động, và việc săn lùng nô lệ bỏ trốn.

Ban đầu, nô lệ sẽ được mua lại từ quân đội bởi các đại lý bán buôn, sau đó họ sẽ được đem bày bán công khai tại các khu chợ hoặc thậm chí là các cửa hàng. Nô lệ bị giao bán tại các gian hàng bị buộc phải đứng trong tình trạng khỏa thân hoàn toàn, và trên cổ mỗi người nô lệ đêu đeo một tấm thẻ cung cấp các thông tin về nguồn gốc, sức khỏe, tính cách, trí thông minh, giáo dục và các thông tin khác của họ cho người mua. Thường thì người ta sẽ ưa chuộng các nô lệ khỏe mạnh, và ưu tiên nô lệ đàn ông hơn. Nô lệ trẻ em có giá thấp hơn nô lệ người lớn. Nô lệ có thể được đem hoàn trả lại sau sáu tháng nếu như họ có những khuyết điểm không được biểu hiện ở quầy giao bán, hoặc nếu như họ làm cho người chủ thua lỗ. Giao dịch nô lệ được giám sát bởi các quan chức tài chính La Mã được gọi là Quaestor (quan coi quốc khố).

Về mặt pháp luật, một nô lệ không thể sở hữu tài sản, nhưng nếu một nô lệ quản lý việc kinh doanh, người này có thể được trao cho một tài khoản cá nhân hoặc quỹ (peculium) mà có thể sử dụng như thể nó là của riêng mình. Các điều khoản của tài khoản này khác nhau tùy thuộc vào mức độ tin tưởng và hợp tác giữa người chủ nô với nô lệ: một nô lệ với năng khiếu kinh doanh có thể được cho phép dành nhiều thời gian cho việc tạo ra lợi nhuận, và có thể được phép thừa kế peculium, người này còn quản lý các nô lệ khác trong gia đình của chủ nô. Trong một hộ gia đình hoặc nơi làm việc, một hệ thống cấp bậc giữa các nô lệ có thể tồn tại, với một nô lệ có đóng vai trò là ông chủ của nô lệ khác.

Theo thời gian, nô lệ đã dần nhận được sự bảo vệ của pháp luật, trong đó họ có quyền nộp đơn khiếu nại chống lại người chủ của họ. Một dự luật buôn bán có thể chứa một điều khoản quy định rằng các nô lệ không được phép sử dụng cho nạn mại dâm, tuy rằng gái mại dâm ở La Mã cổ đại thường là nô lệ. Với việc bùng phát buôn bán nô lệ thái giám trong những năm cuối thế kỷ 1 CN đã thúc đẩy đạo luật trong đó cấm thiến một nô lệ trái với ý muốn của họ "vì ham muốn hoặc lợi ích." Hoàng đế Claudius đã tuyên bố rằng nếu một nô lệ bị chủ nhân bỏ rơi, anh ta sẽ trở thành người tự do. Nero đã trao cho nô lệ quyền khiếu nại chống lại chủ nhân của họ tại một tòa án. Và dưới thời Antoninus Pius, một chủ nhân giết một nô lệ mà không có lý do chính đáng có thể bị xét xử vì tội giết người. Từ giữa đến cuối thế kỷ thứ 2 sau Công nguyên, việc nô lệ phàn nàn về sự đối xử tàn nhẫn hoặc không công bằng của chủ sở hữu đối với họ đã trở nên rất phổ biến. Vì hầu hết nô lệ La Mã có thể dễ dàng trà trộn vào dân chúng nếu họ trốn thoát, các chủ sở hữu thường ngăn cản nô lệ bỏ trốn bằng cách đặt xăm lên trán họ những dòng chữ như "Tôi là một kẻ trốn chạy!" hoặc "Đóng thuế" nếu nô lệ thuộc sở hữu của nhà nước La Mã. Vì lý do này, nô lệ thường đeo những tấm băng đô để che đi hình xăm của họ khi trốn thoát.

Lễ hội Saturnalia, được tổ chức vào ngày 17 tháng 12 theo Lịch Julian, là một dịp hiếm hoi mà người nô lệ có thể tạm thời được hưởng những quyền như người tự do. Vào dịp lễ này, nô lệ sẽ được thưởng thức một bữa tiệc thịnh soạn, được đánh bạc, thậm chí được quyền chỉ trích hoặc tỏ ra thiếu tôn trọng đối với chủ nhân mà không bị trừng phạt. Một số nguồn còn đề cập đến việc người chủ và nô lệ đã ăn tối cùng nhau, hay người chủ đã phục vụ bữa ăn cho các nô lệ của mình như một cách để tôn vinh họ.

Chế độ nô lệ của La Mã không dựa trên chủng tộc. Nô lệ được đưa đến từ khắp các vùng đất ở châu Âu và Địa Trung Hải, bao gồm Gaul, Hispania, Đức, Britannia, khu vực Balkan, Hy Lạp... Nói chung, nô lệ ở Ý là những người Ý bản xứ, Tuổi đời trung bình được ghi lại vào thời điểm qua đời của nô lệ ở Rome là cực kỳ thấp: 17 tuổi rưỡi (17.2 cho nam; 17.9 cho nữ).

Trong giai đoạn bành trướng dưới thời Cộng hòa khi chế độ nô lệ đã trở nên phổ biến, tù nhân chiến tranh là một nguồn cung cấp nô lệ chính và cuộc chinh phục Hy Lạp đã đem về Rome thêm một số nô lệ có tay nghề cao và cả nô lệ có học thức. Nô lệ cũng được buôn bán trong các khu chợ, và đôi khi được bán bởi những tên cướp biển. Trẻ sơ sinh bị bỏ rơi và việc tự bán mình làm nô lệ của những người nghèo là những nguồn khác. Ngược lại, Vernae, là những nô lệ "cây nhà lá vườn" được sinh ra từ những nữ nộ lệ trong các hộ gia đình ở thành thị hoặc trong một điền trang đồng quê hoặc nông trại. Mặc dù họ không có tư cách pháp lý đặc biệt, nếu như người chủ ngược đãi hoặc không nuôi nấng vernae của mình thì sẽ phải đối mặt với sự chê bai của xã hội, bởi vì họ được coi là một phần trong familia của người này, hộ gia đình, và trong một số trường hợp có thể thực sự là con cái của những đàn ông tự do trong gia đình.

Những nô lệ có tay nghề cao hoặc học thức có thể tích lũy được một peculium đủ lớn để mua lại sự tự do của họ, hoặc được chủ nô giải phóng. Việc giải phóng nô lệ đã trở nên đủ thường xuyên tới mức vào năm 2 trước Công nguyên một đạo luật (Lex Fufia Caninia) đã được ban hành trong đó giới hạn số lượng nô lệ mà một chủ nô được cho phép giải phóng trong di chúc của mình.

Nô lệ được giải phóng

nhỏ|Bình đựng di cốt hỏa táng của nô lệ được giải phóng Tiberius Claudius Chryseros và hai nữ giới, có thể là vợ và con gái của ông ta. Rome khác với các thành bang Hy Lạp ở chỗ cho phép những người nô lệ được giải phóng trở thành công dân. Sau khi được giải phóng, một nô lệ đã từng thuộc về một công dân La Mã được hưởng quyền tự do từ người chủ sở hữu và cả quyền tự do chính trị thực sự (Libertas), trong đó có cả quyền bầu cử. Một nô lệ có được quyền Libertas thì được gọi là một libertus ("người được giải phóng", Liberta đối với nữ) trong mối quan hệ với chủ cũ của mình, người chủ cũ sẽ trở thành người bảo trợ của họ (Patronus): hai bên tiếp tục có những nghĩa vụ thông thường và hợp pháp với nhau. Những người nô lệ được giải phóng còn được xếp vào một tầng lớp xã hội, nói chung gọi là libertini, mặc dù các nhà văn sau đó sử dụng thuật ngữ libertuslibertinus.

Một libertinus không có quyền nắm giữ các chức vụ công hoặc là giáo sĩ tối cao của nhà nước, nhưng người này có thể đóng một vai trò của một giáo sĩ trong tôn giáo thờ cúng hoàng đế. Ông ta cũng không thể kết hôn với một người phụ nữ từ một gia đình thuộc tầng lớp nguyên lão, cũng như bản thân ông ta không được phép đứng vào hàng ngũ nguyên lão, nhưng vào thời kì đầu của đế quốc, những nô lệ được giải phóng đã giữ vị trí chủ chốt trong bộ máy quan liêu của chính phủ nhiều tới mức Hadrianus đã phải hạn chế sự tham gia của họ bằng pháp luật. Bất kỳ đứa trẻ nào được một nô lệ được giải phóng sinh ra thì đều là người tự do, với đầy đủ các quyền công dân.

Sự thăng tiến thành công của những nô lệ được giải phóng—thông qua ảnh hưởng chính trị trong việc phụng sự đế quốc hoặc thông qua sự giàu có—là một đặc trưng của xã hội đế quốc thời kỳ đầu. Sự thành công của một nhóm những nô lệ được giải phóng xuất sắc này đã được chứng thực bằng những bản khắc trên khắp đế quốc, và bởi việc sở hữu một số ngôi nhà xa hoa nhất tại Pompeii, chẳng hạn như ngôi nhà của gia đình Vettii. Tuy nhiên, những người này cũng thường bị giới quý tộc khinh miệt và gán cho biệt danh "Nouveau riche" (những người giàu có thô tục).

Việc giải phóng nô lệ thường được tổ chức trong một buổi lễ công khai, được thực hiện trước sự chứng kiến của một số quan chức nhà nước. Chủ sở hữu sẽ chạm vào đầu người nô lệ bằng một chiếc gậy và tuyên bố rằng anh (cô) ta được tự do. Tuy vậy các nghi thức đơn giản hơn đôi khi được sử dụng, chẳng hạn như chủ sở hữu tuyên bố trả tự do cho một nô lệ trước mặt bạn bè và gia đình, hoặc chỉ là một lời tuyên bố trong bữa tối gia đình. Một chiếc mũ phớt được gọi là Pileus sẽ được trao cho các nô lệ mới được giải phóng này.

Hệ thống đẳng cấp

Từ La tinh Ordo (số nhiều ordines) đề cập đến một sự phân biệt xã hội, nó được dịch sang tiếng Anh với nhiều nghĩa khác nhau là "giai cấp, tầng lớp, đẳng cấp", nhưng không có cái nào trong số đó là chính xác. Một trong những mục đích của việc điều tra dân số La Mã đó là xác định một cá nhân thuộc về Ordo nào. Hai ordines cao nhất ở Rome là tầng lớp nguyên lão và kỵ sĩ. Bên ngoài Rome, decurion, hay còn được gọi là curiales (tiếng Hy Lạp:bouleutai), là Ordo thống trị cao nhất của mỗi một thành phố riêng lẻ. nhỏ|trái|Mảnh vỡ của một chiếc quách mô tả [[Gordianus III và các nguyên lão (thế kỷ 3)]]

Viện nguyên lão của Đế quốc La Mã là một tổ chức chính trị đã tồn tại từ khi nền văn minh La Mã cổ đại ra đời. Viện nguyên lão đã nắm giữ vai trò quan trọng trong đời sống chính trị thời kỳ Cộng hòa. Sau khi Cộng hòa La Mã sụp đổ, cán cân quyền lực theo hiến pháp đã chuyển từ " Viện nguyên lão La Mã " sang "Hoàng đế La Mã". Kể từ thời hoàng đế đầu tiên là Augustus, Hoàng đế và Viện nguyên lão về danh nghĩa là hai nhánh chính phủ đồng đẳng. Tuy nhiên, trên thực tế, quyền lực thực sự của Viện nguyên lão là không đáng kể, vì Hoàng đế nắm giữ quyền lực thực sự. Do đó, tư cách thành viên trong Viện nguyên lão chỉ còn là ước muốn sở hữu bởi các cá nhân muốn tìm kiếm uy tín và vị thế trong xã hội, thay vì tìm kiếm quyền lực thực tế. Trong triều đại của các Hoàng đế đầu tiên, các quyền lập pháp, tư pháp và bầu cử đều được chuyển từ "Hội đồng thường dân " sang Viện nguyên lão. Tuy nhiên, do sự kiểm soát mà Hoàng đế nắm giữ đối với Viện nguyên lão là tuyệt đối, Viện nguyên lão đã trở thành một công cụ để Hoàng đế thực thi các quyền lực của mình.

"Nguyên lão", bản thân nó không phải là một chức vụ được bầu chọn ở La Mã cổ đại, mỗi một cá nhân được nhận vào Viện nguyên lão sau khi ông ta đã được bầu và giữ chức vụ là một thẩm phám hành pháp ít nhất một nhiệm kì. Một nguyên lão cũng phải đáp ứng một yêu cầu về tài sản tối thiểu là 1 triệu sestertii, vốn được xác định bởi những cuộc điều tra dân số. Nero đã ban tặng nhiều tiền bạc cho một số nguyên lão từ các dòng họ lâu đời nhưng nay họ đã trở nên quá nghèo khổ để có thể đủ điều kiện. Không phải tất cả những người có đủ điều kiện Ordo senatorius đều được lựa chọn vào một vị trí trong Viện nguyên lão, họ được yêu cầu phải có nơi cư trú hợp pháp tại Rome. Hoàng đế thường bổ sung những vị trí còn khuyết trong hội đồng 600 thành viên bằng cách bổ nhiệm.. Con trai của một nguyên lão thuộc Ordo senatorius cũng phải hội đủ điều kiện riêng của mình thì cũng mới được chấp nhận vào Viện Nguyên Lão. Một nguyên lão có thể bị mất ghế nếu ông ta vi phạm tiêu chuẩn đạo đức: ví dụ như ông ta bị cấm kết hôn với một phụ nữ được trả tự do hoặc chiến đấu trong đấu trường.

Dưới triều đại của Nero, các nguyên lão chủ yếu vẫn từ Rome và các vùng đất khác của Ý cùng với một số đến từ bán đảo Iberia và miền nam nước Pháp; Những người đến từ các tỉnh nói tiếng Hy Lạp ở phía Đông bắt đầu được thêm vào dưới thời Vespasianus Vị nguyên lão đầu tiên tới từ tỉnh Cappadocia phía đông đã được thừa nhận dưới triều đại Marcus Aurelius. Dưới thời triều đại Severus (193–235), các nguyên lão người Ý chỉ chiếm chưa đến một nửa Viện nguyên lão. Vào thế kỷ thứ 3 CN, nơi ở cố định tại Rome đã không còn là điều cần thiết nữa, và những bản khắc chứng thực rằng các vị nguyên lão đã hoạt động chính trị và tỏ ra hào phóng ở quê nhà của mình (patria). Cuộc điều tra dân số vào năm 28 trước Công nguyên đã cho thấy có một số lượng lớn những người đủ điều kiện, và trong năm 14 CN, một ngàn kỵ sĩ đã được ghi nhận chỉ riêng tại Cadiz và Padua. Tầng lớp kị sĩ còn nổi lên thông qua con đường binh nghiệp (tres militiae) để nắm giữ các chức vụ quan trọng như Thái thú và Kiểm sát trưởng trong chính quyền đế quốc.

Sự nổi lên của các nguyên lão và kỵ sĩ đến từ các tỉnh là một khía cạnh của biến động xã hội trong ba thế kỷ đầu của đế quốc. Tầng lớp quý tộc La Mã dựa trên sự cạnh tranh và không giống với tầng lớp quý tộc châu Âu sau này, một gia đình La Mã không thể duy trì vị thế của nó chỉ đơn thuần thông qua thừa kế hoặc có được quyền sở hữu đất đai. Được đứng vào những ordines cao hơn mang đến sự ưu đãi và đặc quyền, nhưng nó cũng đi kèm với một số trách nhiệm. Vào thời cổ đại, mỗi một thành phố đều phải trông đợi vào sự tài trợ đến từ những công dân có ảnh hưởng của nó cho các công trình công cộng, các sự kiện, và những buổi lễ (munera), thay vì là từ thuế mà vốn chủ yếu dùng cho quân đội. Để duy trì địa vị thì đòi hỏi mỗi người đều phải có những khoản chi tiêu cá nhân lớn. Những Decurion đã trở nên quan trọng đối với hoạt động của các thành phố tới mức vào giai đoạn cuối của đế quốc, khi mà những thành viên của Hội đồng thành phố ngày càng trở nên ít dần, những người đã đứng vào Viện nguyên lão lại được chính quyền trung ương khuyến khích từ bỏ vị trí của mình và trở về quê hương, trong một nỗ lực để duy trì các hoạt động dân sự.

Vào giai đoạn cuối của đế quốc, các dignitas ("giá trị, sự kính trọng") đi kèm với hàng ngũ nguyên lão và kỵ sĩ còn được đề cao hơn nữa bằng các tước hiệu như là vir illustris, "người nổi tiếng". Danh xưng clarissimus (tiếng Hy Lạp lamprotatos) được sử dụng để chỉ rõ dignitas của một nguyên lão nào đó và gia đình của họ bao gồm cả phụ nữ. "Các thứ hạng" của địa vị kỵ sĩ đã gia tăng nhanh. Những kỵ sĩ phục vụ đế quốc được xếp hạng theo mức lương (sexagenarius, 60,000 sesterce mỗi năm; centenarius, 100,000; ducenarius, 200,000). Tước hiệu eminentissimus, "xuất sắc nhất" (tiếng Hy Lạp exochôtatos) được dành cho những kỵ sĩ đã từng là Pháp quan thái thú.

Sự bất bình đẳng

nhỏ|upright=.8|Một con báo tấn công một người bị kết án tại đấu trường (tranh khảm thế kỷ 3 từ Tunisia) Khi mà nguyên tắc về sự bình đẳng của các công dân trước pháp luật thời cộng hòa bị lu mờ dần, các đặc quyền mang tính biểu tượng và xã hội của tầng lớp thượng lưu dẫn sự phân cấp một cách không chính thức ở bên trong xã hội La Mã thành hai tầng lớp đó là những người nắm giữ quyền cao chức trọng (honestiores) và những người thuộc tầng lớp thấp kém (humiliores). Nói chung, honestiores là những thành viên của ba "giai cấp" trên, cùng với một số sĩ quan quân đội. Việc kết án phụ thuộc vào sự đánh giá của vị viên chức chủ tọa đối với "giá trị"

👁️ 5 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
thumb|Bản đồ đế quốc La Mã Thần Thánh dưới triều Hoàng đế [[Karl IV của Thánh chế La Mã|Karl IV]] **Đế quốc La Mã Thần Thánh** (tiếng Latinh: _Sacrum Romanum Imperium_; tiếng Đức: _Heiliges Römisches
**Đế quốc La Mã** hay **Đế quốc Rôma** ( ; ) là giai đoạn tiếp nối Cộng hòa La Mã cổ đại. Chính thể Đế chế La Mã, được cai trị bởi các quân chủ
Sự thay đổi về cương thổ của Cộng hòa La Mã, Đế quốc La Mã và Đế quốc Đông La Mã qua từng giai đoạn phát triển. Hình động, click vào để xem sự thay
nhỏ| Bức tranh _Lời cầu nguyện cuối cùng của những người tuẫn đạo Cơ Đốc giáo_ do [[Jean-Léon Gérôme vẽ vào năm 1883.]] **Đế quốc La Mã** **đàn áp Cơ Đốc giáo** (chữ Anh: _Persecution
Sự khuếch trướng của Kitô giáo từ gốc gác mơ hồ của nó vào khoảng năm 40, bấy giờ mới có ít hơn 1.000 tín đồ, thành tôn giáo lớn nhất của toàn bộ Đế
**Vương quốc Ý** ( hoặc , , ) là một thực thể chính trị của đấng Tối cao thời Trung Cổ. Ở bán đảo Ý thời bấy giờ, không có nhà nước thực sự và
**Quân đội Đế quốc La Mã Thần thánh** (, _Reichsheer_ hay _Reichsarmatur_; ) được thành lập vào năm 1422 cho đến khi bị giải thể năm 1806 cùng sự tan rã của đế chế. Đây
thumb|[[Tranh khảm La Mã|Tranh khảm (220–250) được tìm thấy tại El Djem, Tunisia (Phi Lợi Gia thuộc La Mã). Trên đây viết dòng chữ Latinh "Im đi! Để lũ trâu ngủ" _(Silentiu[m] dormiant tauri)_ và
**Quân đội Đế quốc La Mã** là lực lượng vũ trang được triển khai bởi các đế chế La Mã trong thời kỳ Nguyên thủ (30 TCN - 284). Theo người sáng lập-hoàng đế Augustus
nhỏ|Đồng solidus của Constantinus khoảng 407–408 đúc tại Lyon, với mặt sau là hình Constantinus cầm trên tay quân kỳ hoàng đế (Labarum) và quả cầu chiến thắng đang giẫm trên người một nô lệ
**_The History of the Decline and Fall of the Roman Empire_** (tạm dịch _Lịch sử suy tàn và sụp đổ của Đế quốc La Mã_) là một bộ sách về lịch sử Đế quốc La
**Vương quốc La Mã**, còn được gọi là **chế độ quân chủ La Mã**, hoặc là **Thời kỳ vương quyền của La Mã cổ đại**, là kỷ nguyên mở đầu của lịch sử La Mã,
**Dacia thuộc La Mã** (còn gọi là _Dacia Traiana_ và _Dacia Felix_) là một tỉnh của đế quốc La Mã (từ năm 106-271/275 CN). Lãnh thổ của nó bao gồm phía đông và phía đông
nhỏ|Bản đồ cho thấy Đế quốc La Mã (màu tím) và Parthia (màu vàng) cùng nhau chia sẻ [[Đế quốc Seleukos (màu xanh ở giữa) và qua đó giúp họ trở thành quốc gia mạnh
thumb|Cách sắp xếp chỗ ngồi tại lễ khánh thành Đại hội Đế quốc trong Toà thị chính [[Regensburg từ bản khắc năm 1675: Hoàng đế La Mã Thần thánh và các Tuyển đế hầu ngồi
**Legion Romana** tức **Quân đoàn La Mã**, **Binh đoàn La Mã** là một đơn vị tổ chức của Quân đội La Mã trong giai đoạn từ Cộng hòa La Mã tới Đế quốc La Mã.
nhỏ|Huy hiệu của [[Maximilian II của Thánh chế La Mã|Maximilian II từ 1564 tới 1576. Các hoàng đế sử dụng đại bàng hai đầu làm biểu tượng quyền lực]] **Hoàng đế La Mã Thần thánh**
thumb|Huy hiệu của [[Joseph II của Thánh chế La Mã|Joseph II, vị _Quốc vương của người La Mã_ cuối cùng được biết đến.]] **Vua của người La Mã** (), hay **Vua La Mã Đức** (),
phải|Augustus, Hoàng đế La Mã đầu tiên của chế độ Nguyên thủ. Danh hiệu ‘"Hoàng đế La Mã"’ được các nhà sử học về sau dùng để gọi người đứng đầu nhà nước La Mã
**Đế quốc Palmyra** (260 - 273) là một quốc gia được tách khỏi Đế quốc La Mã trong cuộc khủng hoảng của thế kỷ thứ ba. Quốc gia này bao gồm các tỉnh La Mã
**Chiến tranh La Mã – Parthia từ năm 58 tới năm 63**, hay còn được gọi là **Chiến tranh kế vị Armenia**, là cuộc chiến tranh xảy ra giữa Đế quốc La Mã và đế
**Viện nguyên lão** là một tổ chức chính trị ở La Mã cổ đại. Đây là một tổ chức lâu dài nhất trong lịch sử La Mã, được thành lập trong những ngày đầu tiên
**Cuộc chinh phục Britannia của La Mã** là một quá trình diễn ra dần dần, bắt đầu có kết quả vào năm 43 dưới thời hoàng đế Claudius, và viên tướng của ông, Aulus Plautius
Dưới đây là **danh sách các hoàng đế Đông La Mã**, bắt đầu từ khi thành phố Constantinopolis được thành lập vào năm 330 CN đến khi nó thất thủ vào tay Đế quốc Ottoman
**Syria** là một trong những tỉnh La Mã đầu tiên, nó được Pompeius sáp nhập vào đế quốc La Mã trong năm 64 TCN, như một hệ quả của cuộc viễn chinh quân sự ở
thumb|[[Tuyển đế hầu Berthold von Henneberg, Giám mục vương quyền xứ Mainz, người đã đề nghị lập ra Chính phủ đế chế đầu tiên]] **Chính phủ đế quốc** (tiếng Đức: Reichsregiment; tiếng Anh: _Imperial Government_)
**Nhà thờ Hoàng đế Đức** () là một từ ngữ truyền thống để chỉ các nhà thờ lớn, mà có liên hệ đến quyền lực của hoàng đế Đế quốc La Mã Thần thánh. ##
**Cận vệ của Hoàng đế La Mã** (Latinh: _Praetoriani_) là lực lượng cận vệ được sử dụng bởi các Hoàng đế La Mã, khởi đầu từ Augustus (27 TCN - 14 CN) và bị giải
**_Binh đoàn La Mã_** (tựa gốc tiếng Anh: **_Centurion_**) là một bộ phim điện ảnh đề tài cổ trang–chiến tranh và hành động của Anh–Pháp do Neil Marshall làm đạo diễn kiêm viết kịch bản,
Bộ binh Auxilia đang vượt sông, có lẽ là [[sông Donau|sông Danube, bằng cầu phao trong Cuộc chiến Chinh phục Dacia của Hoàng đế Trajan (101 - 106 CN). Có thể nhận ra họ từ
Một con đường do người La Mã xây dựng Một con đường La Mã ở Bulgaria **Đường La Mã** hay **những con đường La Mã** là các con đường giao thông hay hệ thống các
**La Mã cổ đại** là nền văn
**Nhà Sassan**, còn gọi là **Sassanian**, **Sasanid**, **Sassanid**, (tiếng Ba Tư: ساسانیان) hay **Tân Đế quốc Ba Tư**, là triều đại Hỏa giáo cuối cùng của Đế quốc Ba Tư trước sự nổi lên của
**Karl V** (tiếng Tây Ban Nha: _Carlos_; tiếng Đức: _Karl_; tiếng Hà Lan: _Karel_; tiếng Ý: _Carlo_) (24 tháng 2 năm 1500 – 21 tháng 9 năm 1558) là người đã cai trị cả Đế
**Đế chế Parthia** hay còn được gọi là **Đế chế Arsaces** (247 TCN – 224 CN) (tiếng Việt trong một số tài liệu Phật giáo còn dịch Parthia là **An Tức**) là một quốc gia
**Đế quốc Mông Cổ**, tên chính thức là **Đại Mông Cổ Quốc** ( ) là đế quốc du mục lớn nhất trong lịch sử, từng tồn tại trong các thế kỷ 13 và 14. Khởi
nhỏ|"[[Capitoline Brutus", một bức tượng chân dung có thể miêu tả Lucius Junius Brutus, người đã lãnh đạo cuộc nổi dậy chống lại vị vua cuối cùng của Rome và là người sáng lập ra
**Đế quốc Byzantine**, còn được gọi là **Đế quốc Đông La Mã**, là sự tiếp nối của Đế quốc La Mã ở các tỉnh phía đông trong thời kỳ Hậu Cổ đại và Trung cổ
thumb|right|Biểu trưng hoàng gia của Đế quốc Áo với quốc huy ít hơn (được sử dụng cho đến năm 1915 thời Áo-Hung) thumb|right|Biểu trưng hoàng gia của Đế quốc Áo với quốc huy vừa phải
Các quốc gia trên thế giới có đặt căn cứ quân sự của Hoa Kỳ. **Chủ nghĩa đế quốc Mỹ** () là một thuật ngữ nói về sự bành trướng chính trị, kinh tế, quân
**Đế quốc Tây La Mã** là phần đất phía tây của Đế quốc La Mã cổ đại, từ khi Hoàng đế Diocletianus phân chia Đế chế trong năm 285; nửa còn lại của Đế quốc
**Tuyển đế hầu** (; ; ), còn được gọi tắt là **Tuyển hầu**, là tước vị dưới thời đại Đế quốc La Mã Thần thánh, dành để gọi những người trong Đại cử tri đoàn
**Cappadocia** là một tỉnh của đế quốc La Mã ở Tiểu Á (ngày nay là khu vực trung đông Thổ Nhĩ Kỳ), với thủ phủ của nó là Caesarea. Nó được Hoàng đế Tiberius (trị
**Ludwig IV** còn gọi là **Ludwig der Bayer** (5 tháng 4 1282 ở München - 11 tháng 10, 1347 tại Puch gần Fürstenfeldbruck), xuất thân từ nhà Wittelsbach, là Vua La Mã Đức từ năm
**Quan hệ La Mã – Trung Quốc** là các tiếp xúc chủ yếu gián tiếp, quan hệ mậu dịch, luồng thông tin và các lữ khách đi lại không thường xuyên giữa đế quốc La
Các **cuộc chiến tranh Đông La Mã - Ottoman** là một loạt các cuộc xung đột mang tính quyết định giữa một quốc gia mới nổi của người Thổ Nhĩ Kỳ Ottoman và một Đế
**Công quốc Áo** () là một công quốc thời Trung cổ của Đế chế La Mã Thần thánh, được thành lập vào năm 1156 bởi _Privilegium Minus_, khi Phiên hầu quốc Áo (Ostarrîchi) tách khỏi
**Đế quốc Ottoman** còn được gọi là **Đế quốc Osman** (; **', ; or **'; ) hay **Đế quốc Thổ Nhĩ Kỳ**, là một Đế quốc trải rộng xuyên suốt Nam Âu, Trung Đông và
**Franz II** (tiếng Anh: Francis II; 12 tháng 2 năm 1768 – 2 tháng 3 năm 1835) là Hoàng đế cuối cùng của Đế quốc La Mã Thần thánh (1792 – 1806) với đế hiệu
phải|nhỏ|Tượng Karl IV ở [[Praha, Cộng hòa Séc]] **Karl IV** (; ; ; 14 tháng 5 năm 1316 - 29 tháng 11 năm 1378) của Praha, tên lúc sinh ra là **Wenzel** (Václav), là vua