✨Cuộc chinh phục Britannia của La Mã

Cuộc chinh phục Britannia của La Mã

Cuộc chinh phục Britannia của La Mã là một quá trình diễn ra dần dần, bắt đầu có kết quả vào năm 43 dưới thời hoàng đế Claudius, và viên tướng của ông, Aulus Plautius đã trở thành vị thống đốc đầu tiên của Britannia. Đảo Anh đã thường xuyên là mục tiêu của các cuộc xâm lược, trên kế hoạch và thực tế, bởi các đạo quân của Cộng hòa La Mã và đế quốc La Mã. Cũng giống như với các khu vực khác ở phía rìa của đế quốc, Britannia đã có được các mối liên hệ ngoại giao và thương mại với những người La Mã trong suốt gần một thế kỷ kể từ lúc các cuộc viễn chinh của Julius Caesar diễn ra vào năm 55 và 54 trước Công nguyên.

Từ giữa năm 55 trước Công nguyên tới thập niên 40 sau công nguyên, hiện trạng triều cống, con tin, và các quốc gia chư hầu mà không có sự chiếm đóng quân sự trực tiếp, bắt đầu bằng cuộc xâm lược Britannia của Caesar, phần lớn vẫn còn nguyên vẹn. Augustus đã chuẩn bị tiến hành các cuộc xâm lược vào năm 34 trước Công nguyên, năm 27 trước Công nguyên và 25 trước Công nguyên. Kế hoạch đầu tiên và thứ ba phải hoãn lại do các cuộc khởi nghĩa ở những nơi khác trong đế quốc, lần thứ hai là do người Briton dường như đã sẵn sàng để đạt được một thỏa thuận Theo tác phẩm Res Gestae của Augustus, hai vị vua người Anh, Dumnovellaunus và Tincomarus, đã chạy trốn tới Roma dưới triều đại của ông

Vào những năm 40 sau công nguyên, tình hình chính trị bên trong Britannia dường như trở nên sự náo động. Người Catuvellauni đã thay chỗ người Trinovantes để trở thành vương quốc hùng mạnh nhất ở phía đông nam Britannia, tiếp quản cố đô Camulodunum (Colchester) của người Trinovantes, và đang dồn ép bộ tộc láng giềng của họ là người Atrebates, vốn cai trị bởi con cháu của Commius, đồng minh cũ của Julius Caesar.

Caligula cũng đã lên kế hoạch tiến hành một chiến dịch chống lại người Anh vào năm 40, nhưng việc thực hiện nó lại kỳ lạ: theo Suetonius, ông ta đã sắp xếp quân đội của mình trong đội hình chiến đấu và phải quay mặt về phía eo biển Manche và ra lệnh cho họ để tấn công chỗ nước ứ đọng. Sau đó, ông ta cho quân lính đi thu thập vỏ sò, coi chúng như là "cướp bóc từ đại dương, nhờ có Capitol và Cung điện". Các nhà sử học hiện nay không chắc chắn liệu điều đó có nghĩa là một sự trừng phạt mỉa mai dành cho một cuộc nổi loạn của binh sĩ hoặc do sự loạn trí của Caligula. Chắc chắn nỗ lực xâm lược này đã tạo sự sẵn sàng cho quân đội và tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc xâm lược của Claudius có thể diễn ra vào 3 năm sau đó (ví dụ như một ngọn hải đăng được Caligula xây dựng tại Boulogne-sur-Mer, mô hình cho một cái khác được xây dựng ngay sau năm 43 tại Dubris).

Sự chuẩn bị của Claudius

Vào năm 43 SCN, hoàng đế Claudius đã cho xây dựng một đạo quân xâm lược, có thể bằng cách tập hợp lại quân đội của Caligula, nhằm để khôi phục ngai vàng cho Verica, một vị vua lưu vong của người Atrebates. Aulus Plautius, một vị nguyên lão ưu tú đã được giao trọng trách chỉ huy toàn bộ bốn quân đoàn, tổng cộng khoảng 20.000 người, cộng với số quân trợ chiến tương đương. Các quân đoàn tham chiến là:

Legio II Augusta Legio IX Hispana Legio XIV Gemina Legio XX Valeria Victrix

Quân đoàn II Augusta vào lúc này đang nằm dưới sự chỉ huy của vị hoàng đế tương lai, Vespasianus. Ba vị tướng chỉ huy các quân đoàn khác được đề cập trong các ghi chép đó là: Gnaeus Hosidius Geta, có thể đã chỉ huy IX Hispana, và anh trai của Vespasianus,Titus Flavius ​​Sabinus II được đề cập bởi Dio Cassius (Dio nói rằng Sabinus là cấp dưới của Vespasianus, nhưng vì Sabinus là anh trai và bước vào sự nghiệp chính trị trước Vespasianus nên ông ta khó có thể là một quan bảo dân quân đội). Gnaeus Sentius Saturninus được đề cập bởi Eutropius

Vượt biển và đổ bộ

Đạo quân xâm lược chính dưới quyền Aulus Plautius đã vượt biển theo ba đạo. Cảng xuất phát của cuộc xâm lược thường được coi là ở Boulogne, và nơi đổ bộ chính là tại Rutupiae (Richborough, trên bờ biển phía đông của Kent). Không có nơi nào trong số các địa điểm này là chắc chắn. Dio không đề cập đến cảng xuất phát, và mặc dù Suetonius nói rằng đạo quân thứ hai dưới quyền Claudius đã khởi hành từ Boulogne, thì cũng không nhất thiết rằng toàn bộ lực lượng xâm lược cũng đã như vậy. Richborough có một cảng tự nhiên lớn mà sẽ thích hợp cho điều này, cùng với đó những bằng chứng khảo cổ học cho thấy rằng đã có sự chiếm đóng của quân đội La Mã ở đó vào khoảng thời điểm thích hợp. Tuy nhiên, Dio nói rằng những người La Mã đã đi thuyền từ đông sang tây, và một cuộc hành trình từ Boulogne tới Richborough là từ nam đến bắc. Một số nhà sử học cho rằng họ đã khởi hành từ Boulogne đến Solent, đổ bộ ở trong vùng lân cận của Noviomagus (Chichester) hoặc Southampton, trong lãnh thổ trước kia được cai trị bởi Verica. Một giải thích khác có thể là khởi hành từ cửa sông Rhine tới Richborough, đó sẽ là từ đông sang tây.

Những trận chiến trên sông

Cuộc kháng chiến của người Briton được lãnh đạo bởi Togodumnus và Caratacus, con trai của Cunobelinus, vị vua của người Catuvellauni. Một lực lượng lớn của người Briton đã chạm trán với những người La Mã tại một điểm băng qua sông được cho là gần Rochester trên sông Medway. Trận chiến đã xảy ra trong hai ngày. Hosidius Geta đã suýt nữa bị bắt sống, nhưng ông ta đã được cứu thoát và quay lại trận chiến một cách dứt khoát tới mức ông đã được ban cho một cuộc diễu binh chiến thắng(ornamenta triumphalia).

Người Briton đã bị đẩy lùi trở lại sông Thames. Người La Mã đã truy đuổi họ qua bên kia sông và khiến cho họ mất người nhiều người trong các đầm lầy của Essex. Cho dù việc người La Mã đã sử dụng một cây cầu hiện có cho mục đích này hoặc xây dựng một cây cầu tạm thời là không chắc chắn. Ít nhất đã có một bộ phận của đội quân trợ chiến người Batavia bơi qua sông như một lực lượng riêng biệt.

Togodumnus qua đời ngay sau trận chiến trên sông Thames. Plautius đã dừng lại và báo tin cho Claudius tham gia truy đuổi đến cùng với ông ta. Theo Cassius Dio, Plautius đang cần sự giúp đỡ của hoàng đế để đánh bại người Briton, lúc này đang quyết tâm trả thù cho Togodumnus. Tuy nhiên, Claudius vốn không phải là người lính. Khải hoàn môn Claudius cho biết rằng ông đã tiếp nhận sự đầu hàng của mười một vị vua mà gặp bất kỳ tổn thất nào, và Suetonius nói rằng Claudius đã tiếp nhận sự đầu hàng của người Briton mà không cần chiến đấu hoặc đổ máu Quân đoàn Chín đã được phái về phía bắc hướng tới Lincoln và trong vòng bốn năm kể từ khi bắt đầu cuộc xâm lược, có khả năng là một khu vực phía nam của tuyến đường từ Humber đến cửa sông Severn đã nằm dưới sự kiểm soát của người La Mã. Các chiến dịch của người La Mã từ năm 43 SCN tới năm 60 SCN. Vào cuối năm 47, thống đốc mới của Britannia, Ostorius Scapula, đã bắt đầu một chiến dịch chống lại các bộ lạc của xứ Wales ngày nay, và ở đồng bằng Cheshire. Người Silures ở phía đông nam xứ Wales đã gây ra nhiều vấn đề nghiêm trọng cho Ostorius và họ đã quyết liệt bảo vệ biên giới xứ Wales của mình. Bản thân Caratacus đã bị đánh bại trong trận Caer Caradoc và trốn sang bộ lạc chư hầu của La Mã là người Brigantes, vốn chiếm đóng khu vực Pennines. Tuy nhiên, nữ hoàng của họ, Cartimandua lại không thể hoặc không sẵn sàng để bảo vệ ông ta, và bà đã giao nộp ông ta cho những kẻ xâm lược nhằm đổi lại bằng sự đình chiến với những người La Mã. Ostorius qua đời và ông được thay thế bằng Aulus Gallus, người đã đưa biên giới xứ Wales xuống dưới sự kiểm soát của La Mã nhưng ông ta cũng không tiến xa hơn về phía bắc hoặc tây, có lẽ vì Claudius muốn tránh những gì mà ông coi là một cuộc chiến khó khăn và ít đem lại lợi ích trong địa hình miền núi của vùng cao Britannia. Khi Nero đã trở thành hoàng đế vào năm 54, ông ta dường như đã quyết định tiếp tục cuộc xâm lược và bổ nhiệm Quintus Veranius là thống đốc, một người vốn có kinh nghiệm đối phó với các bộ tộc vùng đồi ở Tiểu Á. Veranius và người kế nhiệm ông Gaius Suetonius Paulinus đã tiến hành một chiến dịch thành công ở xứ Wales, và nổi tiếng với việc phá hủy trung tâm của các druid tại Mona hoặc Anglesey vào năm 60 và được các sử gia sau này gọi là cuộc thảm sát Menai. Sự chiếm đóng hoàn toàn xứ Wales đã bị hoãn lại khi mà cuộc khởi nghĩa của Boudica nổ ra và buộc người La Mã phải quay trở về phía đông nam. Người Silures đã không hoàn toàn bị chinh phục cho đến khoảng năm 76 SCN khi chiến dịch kéo dài của Sextus Julius Frontinus nhằm chống lại họ bắt đầu có được những thành công.

Từ năm 60 tới năm 78

Sau khi dập tắt thành công cuộc khởi nghĩa của Boudica, một số thống đốc La Mã mới đã tiếp tục cuộc chinh phục về phía viền phía bắc. Cartimandua đã buộc phải yêu cầu người La Mã trợ giúp cho mình sau khi chồng bà, Venutius, nổi loạn. Quintus Petillius Cerialis đã đưa quân đoàn của mình từ Lincoln tiến xa tới tận York và đánh bại Venutius gần Stanwick vào khoảng năm 70. Điều này dẫn đến việc người Brigantes đã La tinh hóa và bộ tộc Parisii dần đồng hóa hơn nữa vào trong đế quốc. Frontinus đã được phái đến Britannia thuộc La Mã trong năm 74 SCN để kế nhiệm Quintus Petillius Cerialis làm thống đốc của đảo này. Ông ta đã chinh phục người Silures và các bộ tộc thù địch khác của xứ Wales, thiết lập một căn cứ mới tại Caerleon cho Legio II Augusta và một mạng lưới các pháo đài nhỏ hơn cách xa khoảng 15–20 km cho các đơn vị quân trợ chiến của mình. Trong nhiệm kỳ của mình, ông có thể đã thiết lập pháo đài tại Pumsaint ở phía tây xứ Wales, chủ yếu là để khai thác các mỏ vàng tại Dolaucothi. Ông thôi giữ chức thống đốc vào năm 78 sau công nguyên, và sau đó được bổ nhiệm làm ủy viên về nước ở Rome. Thống đốc mới là Gnaeus Julius Agricola vốn nổi tiếng qua cuốn tiểu sử tán dương ông ta được viết bởi người con rể, Tacitus.

Agricola (tổng đốc từ năm 78 tới năm 84)

Những chiến dịch của Agricola. Những chiến dịch phía bắc. Tổ chức của quân đội La Mã ở phía bắc. Đến Britannia vào giữa mùa hè năm 78, Agricola nhận thấy rằng một số các bộ tộc bị đánh bại trước đó đã dần tái lập lại sự độc lập của họ. Đầu tiên, ông đối phó với người Ordovices ở miền bắc xứ Wales, họ trước đó đã tiêu diệt một ala kỵ binh trợ chiến của người La Mã vốn đóng quân trong lãnh thổ của họ. Nhờ vào hiểu biết về địa hình do ông từng phụng vụ trong quân ngũ ở Britannia trước đây, Agricola đã có thể tiến quân một cách nhanh chóng, đánh bại và hầu như tiêu diệt họ. Sau đó ông xâm lược Anglesey, buộc cư dân ở đây phải cầu hòa. Năm sau, ông tiến đánh người Brigantes ở miền bắc nước Anh và người Selgovae dọc theo bờ biển phía nam của Scotland, sử dụng sức mạnh quân sự áp đảo để thiết lập lại sự kiểm soát của người La Mã

Scotland trước thời Agricola

Chi tiết về những năm đầu diễn ra sự chiếm đóng của La Mã ở miền Bắc nước Anh không rõ ràng nhưng nó bắt đầu không sớm hơn năm 71, vì Tacitus nói rằng trong năm đó Petillius Cerialis (thống đốc từ năm 71 tới năm 74) đã tiến hành một cuộc chiến tranh thắng lợi trước người Brigantes. Tacitus đã ca ngợi cả Cerialis và người kế nhiệm ông Julius Frontinus (thống đốc từ năm 75 tới năm 78), nhưng lại không cung cấp thêm thông tin về các sự kiện tới trước năm 79 mà liên quan đến các vùng đất hoặc các dân tộc sống ở phía bắc của người Brigantes.

Đặc biệt, những bằng chứng khảo cổ học đã chỉ ra rằng người La Mã đã tiến hành chiến dịch và xây dựng doanh trại quân đội ở phía bắc dọc theo Gask Ridge. Trong quá trình mô tả các chiến dịch của Agricola, Tacitus không tuyên bố một cách rõ ràng rằng đây thực sự là một sự trở lại vùng đất trước đây bị Roma chiếm đóng, tại đây sự chiếm đóng của người La Mã hoặc đã bị các cư dân ở đây lật đổ, hoặc đã bị những người La Mã từ bỏ.

Agricola ở Caledonia

Tacitus ghi lại rằng sau khi kết hợp sử dụng cả quân sự và ngoại giao để dẹp tan sự bất mãn giữa những người Briton đã bị chinh phục trước đó, Agricola đã cho xây dựng nhiều pháo đài trong lãnh thổ của họ vào năm 79. Trong năm 80, ông hành quân đến Vịnh Tay (một số nhà sử học cho rằng ông ta dừng lại dọc theo Vịnh Forth cùng năm đó) và không trở về phía nam cho đến tận năm 81, vào lúc đó ông đã tiến hành củng cố các vùng đất mới được ông chinh phục, và trong các vùng đất nổi loạn mà ông đã tái chinh phục. Vào năm 82 ông đã đi thuyền tới Kintyre hoặc tới bờ biển Argyll, hoặc cả hai. Trong năm 83 và 84, ông tiến về phía bắc dọc theo phía đông của Scotland và bờ biển phía bắc bằng cả quân bộ và hải quân, ông đã tiến hành chiến dịch thắng lợi chống lại cư dân của nó, và giành được một chiến thắng quan trọng trước các dân tộc miền Bắc Britannia dưới sự chỉ huy của Calgacus trong trận Mons Graupius.

Trước khi được triệu hồi vào năm 84, Agricola đã cho xây dựng một mạng lưới đường giao thông quân sự cùng các pháo đài để bảo đảm sự chiếm đóng của La Mã. Những pháo đài trước đó đã được tăng cường và những pháo đài mới được thiết lập ở phía đông bắc Scotland dọc theo ranh giới cao nguyên Scotland, củng cố quyền kiểm soát đối với những thung lũng hẹp mà cho phép tới và ra khỏi khu vực cao nguyên Scotland. Hệ thống đường giao thông quân sự và tiếp tế dọc theo đông nam Scotland và phía đông bắc nước Anh (ví dụ như đường Dere) cũng đã được tăng cường. Ở nơi xa nhất về phía nam của Caledonia, vùng đất của người Selgovae (xấp xỉ Dumfriesshire ngày nay và Stewartry của Kirkcudbright) cũng đã có rất nhiều pháo đài được thiết lập chắc chắn, không chỉ thiết lập sự kiểm soát hiệu quả ở đó mà nó cũng hoàn tất hệ thống thành lũy quân sự vây quanh khu vực nam trung tâm Scotland (hầu hết vùng cao nguyên phía nam, Teviotdale và miền tây Tweeddale). Trái ngược những hành động của người La Mã nhằm chống lại người Selgovae, các vùng lãnh thổ của người Novantae, người Damnonii, và người Votadini đã không có pháo đài nào được thiết lập, và không có gì để chỉ ra rằng là người La Mã đã có chiến tranh với họ.

Từ năm 84 tới năm 96

Năm 84SCN, Agricola đã được hoàng đế Domitianus triệu hồi về Roma. Những người kế nhiệm ông đã không có tên trong bất cứ tài liệu nào còn sót lại, nhưng có vẻ như họ không thể hoặc không muốn tiếp tục cuộc chinh phục xa về phía bắc. Pháo đài tại Inchtuthil đã bị triệt phá trước khi nó được hoàn thành và các doanh trại khác của hệ thống Gask Rigde ở Perthshire, vốn được dựng lên nhằm củng cố sự hiện diện của người La Mã ở Scotland sau khi kết thúc trận Mons Graupius, đã bị từ bỏ trong khoảng một vài năm.

Thất bại trong việc chinh phục Caledonia

Người La Mã sau đó đã rút quân về một phòng tuyến được thiết lập như là một trong những limes của đế quốc (tức là một phòng tuyến biên giới), đó là trường thành Hadrianus. Một nỗ lực đã được thực hiện nhằm để đưa phòng tuyến này tiến xa về phía bắc đến khu vực sông Clyde-sông Forth trong năm 142 khi mà trường thành Antoninus được xây dựng. Nhưng nó lại một lần nữa bị bỏ rơi sau hai thập kỷ. Người La Mã sau đó tiếp tục rút về đoạn trường thành Hadrian được xây dựng sớm và vững chắc hơn ở khu vực biên giới sông Tyne-Vịnh Solway, nơi này đã được xây dựng vào khoảng năm 122. Tuy vậy, quân đội La Mã lại tiếp tục thâm nhập sâu hơn về phía bắc Scotland ngày nay nhiều lần hơn. Thật vậy, đã có một mật độ lớn các doanh trại hành quân của người La Mã ở Scotland hơn bất cứ nơi nào khác ở châu Âu như là một kết quả của ít nhất bốn nỗ lực lớn nhằm chinh phục vùng đất này. Đáng chú ý nhất là vào năm 209 khi hoàng đế Septimius Severus, tuyên bố tiến hành chiến dịch chống lại liên minh của người Caledonia do sự khiêu khích từ sự hiếu chiến của bộ tộc Maeatae. Ông đã sử dụng ba quân đoàn của đạo quân đồn trú ở Britannia (được tăng cường bởi hai quân đoàn Parthica mới được thành lập gần đây), 9.000 vệ binh hoàng gia với sự hỗ trợ của kỵ binh, và một số lượng lớn quân trợ chiến với sự tiếp tế từ biển của hạm đội Britannia, hạm đội Rhine và hai đội tàu chuyển từ khu vực sông Danube tới cho mục đích này. Đến năm 210, chiến dịch của Severus đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể, bất chấp chiến thuật du kích của người Caledonia và mức độ thương vong nặng nề rõ ràng của người La Mã.

Chiến dịch của Severus đã bị cắt ngắn sau khi ông mắc một căn bệnh thập tử nhất sinh. Ông quay về Eboracum và qua đời ở đó vào năm 211. Mặc dù con trai ông, Caracalla vẫn tiếp tục chiến dịch vào năm sau, ông ta đã sớm dàn xếp hòa bình. Người La Mã sau đó sẽ không bao giờ tiến hành chiến dịch tiến sâu vào Caledonia một lần nào nữa.

👁️ 3 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Cuộc chinh phục Britannia của La Mã** là một quá trình diễn ra dần dần, bắt đầu có kết quả vào năm 43 dưới thời hoàng đế Claudius, và viên tướng của ông, Aulus Plautius
**Dacia thuộc La Mã** (còn gọi là _Dacia Traiana_ và _Dacia Felix_) là một tỉnh của đế quốc La Mã (từ năm 106-271/275 CN). Lãnh thổ của nó bao gồm phía đông và phía đông
thumb|[[Đảo Anh vào khoảng đầu giữa thiên niên kỷ 1, trước khi thành lập các vương quốc Anglo-Saxon. ]] **Briton** là một nhóm người Celt cổ đã từng sống tại Đảo Anh từ thời đại
**Đế quốc Tây La Mã** là phần đất phía tây của Đế quốc La Mã cổ đại, từ khi Hoàng đế Diocletianus phân chia Đế chế trong năm 285; nửa còn lại của Đế quốc
**Quân đội Đế quốc La Mã** là lực lượng vũ trang được triển khai bởi các đế chế La Mã trong thời kỳ Nguyên thủ (30 TCN - 284). Theo người sáng lập-hoàng đế Augustus
**Đế quốc La Mã** hay **Đế quốc Rôma** ( ; ) là giai đoạn tiếp nối Cộng hòa La Mã cổ đại. Chính thể Đế chế La Mã, được cai trị bởi các quân chủ
**Lucius Septimius Severus** (; 11 tháng 4 năm 145 – 4 tháng 2 năm 211) là Hoàng đế của Đế quốc La Mã (193–211). Severus sinh ra ở châu Phi và đã vươn tới quyền
**Maximianus** hay **Maximian** (tiếng Latin: ; sinh 250 - mất tháng 7 năm 310 Bên cạnh đó, trong nhiều tài liệu cổ còn có chứa những ám chỉ mơ hồ về Illyricum như là quê
**Gaius Julius Caesar** viết theo người La Mã là **Gaivs Ivlivs Caesar** (; 12 tháng 7 năm 100 TCN – 15 tháng 3 năm 44 TCN) là một vị tướng và chính khách người La
**Gaius Valerius Aurelius Diocletianus** (khoảng ngày 22 tháng 12 năm 244 – 3 tháng 12 năm 311), thường được gọi là **Diocletianus**, là Hoàng đế La Mã từ năm 284 cho đến năm 305. Sinh
**George V** (3 tháng 6 năm 1865– 20 tháng 1 năm 1936) là Quốc vương Vương quốc Anh và các quốc gia tự trị của Anh, và Hoàng đế Ấn Độ, từ 6 tháng 5
upright|[[Tranh bộ đôi màu ngà mô tả chân dung Stilicho (phải) và vợ ông là Serena cùng con trai Eucherius vào năm 395 (Thánh Đường Monza) )]] **Flavius Stilicho** (đôi khi còn viết là **Stilico**)
**Titus Flavius Vespasianus**, thường được gọi là **Titus** (; ngày 30 tháng 12 năm 39 - 13 tháng 9 năm 81), là một vị Hoàng đế của Đế quốc La Mã. Ông trị quốc trong
**Legio Secunda Augusta** (Quân đoàn hai Augusta), là một quân đoàn La Mã, được thành lập bởi Gaius Vibius Pansa Caetronianus vào năm 43 trước Công nguyên, và vẫn còn hiện diện tại Britannia trong
**Flavius Theodosius Augustus** (11 tháng 1 năm 347 – 17 tháng 1 năm 395), cũng được gọi là **Theodosius I** hay **Theodosius Đại đế**, là hoàng đế La Mã) trị vì từ năm 379 đến
**_Rome: Total War_** (tạm dịch: _Rome – Chiến tranh tổng lực_) là trò chơi máy tính thuộc thể loại chiến thuật thời gian thực và chiến lược theo lượt do hãng The Creative Assembly phát
**Magnus Maximus **(Latin: Flavius ​​Magnus Maximus Augustus) (khoảng 335-28, 388), còn được gọi là **Maximianus** và **Macsen Wledig** trong tiếng Wales, Hoàng đế Tây La Mã từ năm 383-388. Khi là chỉ huy của nước
**Đế quốc Palmyra** (260 - 273) là một quốc gia được tách khỏi Đế quốc La Mã trong cuộc khủng hoảng của thế kỷ thứ ba. Quốc gia này bao gồm các tỉnh La Mã
**Đế quốc Gallia** () là tên mà người nay đặt cho một quốc gia ly khai trong Đế quốc La Mã, tồn tại từ năm 260 đến năm 274. Nó khởi nguồn từ cuộc Khủng
**Flavius Valerius Constantius** (khoảng ngày 31 tháng 3 năm 250-25 tháng 7 năm 306), thường được gọi là Constantius I hoặc Constantius Chlorus, là Hoàng đế La Mã giai đoạn năm 293-306. Ông là cha
**Miền Bắc nước Anh** hay **Bắc Anh** () được xem là một khu vực văn hoá riêng. Khu vực trải dài từ biên giới với Scotland tại phía bắc đến gần sông Trent tại phía
**Gaius Julius Caesar Augustus Germanicus** (; 31 tháng 8 năm 12 – 24 tháng 1 năm 41), thường gọi theo biệt hiệu **Caligula**, là vị Hoàng đế La Mã thứ ba và là một thành
Sự phân chia đế quốc vào năm 271 CN. **Cuộc khủng hoảng thế kỷ thứ ba** (còn gọi là "loạn sứ quân" hoặc "khủng hoảng hoàng đế") (235-284 CN) là giai đoạn mà đế quốc
**Chiến tranh chống người Pict của Stilicho** là tên của một cuộc chiến giữa quân đội của Đế chế La Mã phương Tây do Stilicho lãnh đạo và những người Pict ở Anh vào khoảng
**Ernst August** (sinh ngày 05 tháng 06 năm 1771 – mất ngày 18 tháng 11 năm 1851), là vua của Vương quốc Hannover từ này 02/06/1837 cho đến khi ông qua đời vào năm 1851.
**Margaret của Liên hiệp Anh** (Margaret Rose; 21 tháng 8 năm 1930 – 9 tháng 2 năm 2002) là con gái út của George VI của Liên hiệp Anh và Elizabeth Bowes-Lyon và là người
**Gallienus** (; 218 – 268) là Hoàng đế La Mã với cha mình Valerianus từ năm 253 đến 260 và một mình từ năm 260 đến 268. Ông đã cai trị trong cuộc khủng hoảng
**Jersey** (; /ʒɛri/), còn được gọi là **Địa hạt Jersey**, là một quốc đảo và lãnh thổ Phụ thuộc vương quyền của Vương quốc Anh, nằm ngoài khơi Tây Bắc nước Pháp. Đây là hòn
**Thân vương xứ Wales** (, ), còn gọi là **Công tước xứ Wales** (tại Việt Nam thường dịch sai thành **Hoàng tử/Hoàng thân xứ Wales**), là một tước hiệu theo truyền thống thường được trao
**_Total War: Rome II_** (tạm dịch: _Chiến tranh tổng lực: La Mã 2_) là một trò chơi máy tính thuộc thể loại chiến thuật thời gian thực và chiến lược theo lượt sắp tới do
, thường được gọi đơn giản là **Code Geass** là một bộ anime dài tập do hãng Sunrise tạo ra, đạo diễn Taniguchi Gorō và kịch bản của Ōkouchi Ichirō, với thiết kế nhân vật
**_Commentarii de Bello Gallico_** (; "Tường thuật về cuộc chiến xứ Gallia") hay **_Bellum Gallicum_** ("Chiến tranh Gallia") là một cuốn hồi ký của Julius Caesar về cuộc chiến xứ Gallia, được viết dưới dạng
thế=This is a 1750 map of the islands of Britain and Ireland produced by cartographer Didier Robert de Vaugondy. It is titled and labeled in Latin.|phải|nhỏ| “Brittanicae Insulae” của Didier Robert de Vaugondy, 1750 Tên
thumb|upright=1.5|_Thánh Giá Mathilde_, cây thánh giá nạm ngọc của Mathilde, Tu viện trưởng Essen (973-1011), bộc lộ nhiều đặc trưng trong nghệ thuật tạo hình Trung Cổ. **Thời kỳ Trung Cổ** (; hay còn gọi
**Lịch sử châu Âu** mô tả những sự kiện của con người đã diễn ra trên lục địa châu Âu. Từ thời tiền sử tới thời hiện đại. Châu Âu có một lịch sử dài,
**Giuseppe Maria Garibaldi** (;; 4 tháng 7 năm 1807 – 2 tháng 6 năm 1882) là một tướng quân, nhà yêu nước, nhà cách mạng và người theo chủ nghĩa cộng hòa người Ý. Ông
**HMS _Hood_ (51)** là chiếc tàu chiến-tuần dương cuối cùng và cũng đồng thời là chiếc tàu chiến-tuần dương duy nhất thuộc lớp Admiral của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc được chế tạo hoàn
**Scotland** (phát âm tiếng Anh: , ) là một quốc gia cấu thành Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland, chiếm một phần ba diện tích phía bắc của đảo Anh, giáp với Anh
**Lịch sử Scotland** có liên hệ mật thiết tiến trình phát triển của quần đảo Anh với sự biến dạng liên tục của cấu trúc dân cư. Tiến trình Lịch sử Scotland luôn gắn liền
**Elizabeth Angela Marguerite Bowes-Lyon** (4 tháng 8 năm 1900 – 30 tháng 3 năm 2002) là Vương hậu của Vương quốc Liên hiệp Anh và các quốc gia tự trị của Anh từ ngày 11
"**Quốc ca Liên bang Nga**" () là tên bài quốc ca chính thức của Nga. Bài quốc ca này dùng chính giai điệu của bài "Quốc ca Liên bang Xô viết", sáng tác bởi Alexander
**Athena** hoặc **Athene**, còn có hiệu là **Pallas**, là một nữ thần Hy Lạp cổ đại gắn liền với trí tuệ, nghề thủ công mỹ nghệ và chiến tranh, Dòng chữ này có thể liên
**Sex Pistols** là một ban nhạc punk rock của Anh thành lập tại Luân Đôn vào năm 1975. Họ là người khởi xướng phong trào punk tại Vương quốc Anh và truyền cảm hứng cho
Đường Buchanan ở trung tâm thành phố, nhìn về phía nam **Glasgow** (tiếng Gael Scotland: _Glaschu_) là thành phố lớn nhất trong số 32 đơn vị hành chính của Scotland, nằm bên sông Clyde ở
**Giáo hoàng Grêgôriô I** (Latinh: _Gregorius I_), thường được biết đến là **Thánh Grêgôriô Cả**, là vị giáo hoàng thứ 64 của Giáo hội Công giáo. Cùng với Giáo hoàng Lêôn I, ông được suy
Quần đảo Anh trở thành nơi sinh sống vào hơn 800.000 năm trước, khi việc phát hiện ra các công cụ bằng đá và dấu chân tại Happisburgh ở Norfolk đã cho thấy. Bằng chứng
thumb|Pink Floyd (1973) **Pink Floyd** là một ban nhạc progressive rock của Anh đã tạo nên được sự công nhận rộng lớn với phong cách psychedelic rock (còn gọi là space rock), đã được họ
**Philippos của Hy Lạp và Đan Mạch** **, Công tước xứ Edinburgh** (sau gọi là **Philip Mountbatten**; 10 tháng 6 năm 1921 – 9 tháng 4 năm 2021) là chồng của Nữ vương Elizabeth II
**Luís Carlos Almeida da Cunha** (sinh ngày 17 tháng 11 năm 1986), thường được biết đến với tên gọi **Nani** hay **Luis Nani**, là một cựu cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Bồ Đào
**_Nhiệm vụ bất khả thi: Nghiệp báo – Phần 1_** (tựa gốc tiếng Anh: **_Mission: Impossible – Dead Reckoning Part One_**) là một bộ phim điện ảnh Mỹ thuộc thể loại điệp viên hành động