✨Trung Cổ

Trung Cổ

thumb|upright=1.5|Thánh Giá Mathilde, cây thánh giá nạm ngọc của Mathilde, Tu viện trưởng Essen (973-1011), bộc lộ nhiều đặc trưng trong nghệ thuật tạo hình Trung Cổ. Thời kỳ Trung Cổ (; hay còn gọi là Trung Đại) là giai đoạn trong lịch sử châu Âu bắt đầu từ sự sụp đổ của Đế quốc Tây La Mã vào thế kỷ 5, kéo dài tới cuối thế kỷ 15 và chuyển sang thời kỳ Phục hưng và Thời đại Khám phá. Trung Cổ là thời đại thứ hai trong ba thời đại lịch sử theo cách phân kỳ truyền thống của lịch sử phương Tây, cùng với Cổ đại cổ điển và Hiện đại. Bản thân thời kỳ Trung Cổ được chia làm ba giai đoạn: Sơ kỳ Trung Cổ, Trung kỳ Trung Cổ và Hậu kỳ Trung Cổ.

Suy giảm dân số, sự đảo ngược đô thị hóa, chế độ tập quyền tan rã, sự di cư hàng loạt và xâm lược của các bộ tộc, bắt đầu từ hậu kỳ cổ đại, tiếp tục diễn ra trong Sơ kỳ Trung Cổ. Các làn sóng di cư với mức độ lớn của các man tộc trong Giai đoạn Di cư, bao gồm nhiều sắc tộc German, hình thành nên những vương quốc mới trên tàn tích của Đế quốc Tây La Mã. Trung Đông, Bắc Phi, và bán đảo Iberia bị xâm lăng và rơi vào tay Đế quốc Hồi giáo Umayyad. Mặc dù có nhiều thay đổi quan trọng trong xã hội và cấu trúc chính trị nhưng sự đứt quãng với cổ đại cổ điển không diễn ra hoàn toàn. Đế quốc Đông La Mã (Byzantine) vẫn duy trì vai trò một cường quốc ở Đông Địa Trung Hải. Bộ luật của Đế quốc, Pháp điển Dân sự dưới triều Hoàng đế Justinianus, được tái phát hiện ở Bắc Ý vào khoảng năm 1070. Hầu hết các vương quốc tại Tây phương đều tích hợp một số định chế La Mã còn tồn tại. Các tu viện được thành lập rộng khắp để tiếp tục truyền bá Kitô giáo cho châu Âu. Người Frank, dưới triều đại Nhà Carolus, đã thiết lập nên Đế chế Carolus ngắn ngủi trong thế kỉ 9. Nó bao phủ phần lớn Tây Âu trước khi thoái trào do nội chiến cùng ngoại xâm: người Viking từ phương Bắc, người Magyar từ phía Đông, và người Saracen từ phía Nam.

Bước sang Trung kỳ Trung Cổ, bắt đầu từ những năm 1000, dân số châu Âu tăng nhanh khi các cải tiến kỹ thuật và nông nghiệp cũng như khí hậu ấm Trung cổ giúp sản lượng cây trồng tăng cao và theo đó là thương mại phát đạt. Chế độ trang viên, tổ chức làng mạc của các nông dân trả địa tô và lao dịch cho quý tộc, chế độ phong kiến, cấu trúc chính trị mà trong đó các Hiệp sĩ và quý tộc bậc thấp trả quân dịch cho các lãnh chúa để đổi lấy quyền thuê đất và trang viên, là hai cách vận hành xã hội thời Trung kỳ Trung Cổ. Thập tự chinh, được kêu gọi lần đầu năm 1095, là các nỗ lực của người Công giáo Tây Âu nhằm tái kiểm soát Đất Thánh từ tay người Hồi giáo. Các nhà quân chủ củng cố nhà nước tập quyền, giảm bớt tội phạm và bạo lực, nhưng khiến cho ý tưởng một thế giới Kitô giáo hợp nhất trở nên xa vời. Đời sống trí thức nở rộ với Triết học kinh viện, nhấn mạnh sự kết hợp Đức tin và Lý trí, cùng với sự thành lập các viện đại học. Thần học của Tôma Aquinô, những bức họa của Giotto, thơ ca của Dante và Chaucer, các cuộc lữ hành của Marco Polo, và kiến trúc Gothic trỗi dậy trong các đại giáo đường như Nhà thờ chính tòa Đức Bà Chartres là những thành tựu của giai đoạn này, lan đến thời Hậu kỳ kế tiếp.

Hậu kỳ Trung Cổ gắn với những khó khăn và tai ương bao gồm nạn đói, bệnh dịch, và chiến tranh, gây suy giảm nghiêm trọng dân số Tây Âu; từ 1347 tới 1350, Cái Chết Đen giết chết một phần ba dân số châu Âu. Tranh cãi, dị giáo và ly giáo bên trong Giáo hội Công giáo song hành với sự xung đột giữa các nhà nước, nội chiến, và khởi nghĩa nông dân. Những phát triển văn hóa và kỹ thuật biến đổi xã hội châu Âu, khép lại thời Trung Cổ và bắt đầu thời kỳ cận đại.

Từ nguyên và phân kỳ

Trung Cổ (hay Trung Đại) là một trong ba thời đại chính trong sơ đồ phân kỳ lâu đời về lịch sử châu Âu: văn minh cổ điển hay Cổ Đại, Trung Đại, và Hiện Đại.

Các nhà văn thời trung đại chia lịch sử làm các thời kì khác nhau như "Sáu thời đại" hay "Bốn đế chế" và xem thời họ sống là giai đoạn cuối cùng trước buổi diệt vong của thế giới. Khi nhắc đến thời đại của chính mình, họ thường tự gọi là "hiện đại". Trong những năm 1330, nhà nhân văn, thi hào Petrarca gọi thời kì tiền Ki-tô giáo là antiqua ("cổ đại:) và thời kì Ki-tô giáo là nova ("mới"). Leonardo Bruni là nhà sử học đầu tiên đề xuất cách phân loại ba thời kỳ trong cuốn Lịch sử dân tộc Florentine (1442). Bruni và các sử gia sau ông lập luận rằng Ý đã khôi phục kể từ thời Petrarca, và do đó thêm một thời kỳ thứ ba vào sau hai thời kỳ của Petrarca. Thuật ngữ "Trung Đại" xuất hiện lần đầu trong Tiếng Latinh là media tempetas (dịch nghĩa đen là "mùa trung gian"). Ban đầu, có nhiều cách dùng khác nhau, bao gồm medium aevum, tức "thời đại trung gian" (trung đại) xuất hiện năm 1625., Cách phân kỳ ba giai đoạn trở thành tiêu chuẩn sau khi nhà sử học người Đức Christoph Cellarius (1638-1707) chia lịch sử làm ba giai đoạn: Cổ Đại, Trung Đại và Hiện đại. Các tài liệu tiếng Việt cũng sử dụng cách phân kỳ trên, và sử dụng các thuật ngữ "Trung Cổ", "Trung Đại" hoặc "Trung thế kỷ" để chỉ giai đoạn thứ hai.

Mốc lịch sử được cho là đánh dấu khởi đầu thời Trung Đại phổ biến nhất là năm 476, do Bruni sử dụng đầu tiên. nhưng không có sự thống nhất rộng rãi nào về thời điểm kết thúc này. Tùy thuộc vào hoàn cảnh, các sự kiện như chuyến hành trình đầu tiên của Christopher Columbus tới châu Mỹ năm 1492, thành Constantinopolis thất thủ vào tay người Thổ năm 1453, hoặc Cải cách Kháng nghị năm 1517 đôi khi cũng được sử dụng. Đối với Tây Ban Nha, các thời điểm thường dùng là cái chết của Ferrando II năm 1516, cái chết của Nữ vương Isabel I của Castilla năm 1504, hoặc Chiến tranh Granada kết thúc Reconquista năm 1492. Các nhà sử học từ các quốc gia nói tiếng Rôman có khuynh hướng chia Trung Đại làm hai phần: "Thượng phần" và "Hạ phần" (chẳng hạn tiếng Pháp: haut Moyen Âge và bas Moyen Âge). Các nước nói tiếng Anh hoặc nói tiếng Đức, thường chia Trung Đại làm ba giai đoạn: "Sơ kỳ", "Trung kỳ" và "Hậu kỳ" (tiếng Anh: Early, High và Late Middle Ages). nhưng với sự tiếp nhận cách phân kỳ ba giai đoạn, việc dùng thuật ngữ Thời kỳ Tăm tối hạn chế lại chỉ để nhắc đến thời Sơ kỳ Trung Đại, ít nhất là trong số các sử gia.]] Đế quốc Rôma đạt đến cực điểm về quy mô lãnh thổ trong thế kỉ thứ 2; hai thế kỉ sau đó chứng kiến sự suy giảm từ từ năng lực kiểm soát của Rôma đối với các vùng thuộc địa xa xôi. Các vấn đề kinh tế, nhất là lạm phát, và các áp lực bên ngoài từ các miền biên giới kết hợp lại khiến cho thế kỉ thứ 3 đầy bất ổn chính trị, với các hoàng đế đoạt được ngai vàng chỉ để bị thay thế nhanh chóng bởi những kẻ thoán ngôi mới. Phí tổn quân sự tăng không ngừng trong thế kỉ thứ 3, chủ yếu dành cho cuộc chiến với đế quốc Sassanid mới phục hưng ở Ba Tư. Quân đội tăng gấp đôi quân số, và kỵ binh cùng các đơn vị nhỏ hơn thay thế Legion làm các đơn vị chiến thuật chính. Nhu cầu thu ngân sách dẫn đến việc tăng thuế và suy yếu tầng lớp địa chủ, những người kém bằng lòng đảm trách các cơ quan hành chính địa phương hơn. Năm 330, sau một giai đoạn nội chiến, Constantinus Đại đế (cai trị 306-337) tái lập thành phố Byzantium thành kinh đô phương đông, đổi tên thành Constantinopolis (hay Constantinople). Những cuộc cải cách của Diolectian đã củng cố bộ máy quan liêu chính phủ, đổi mới chính sách thuế, và tăng cường quân đội, cho đế chế thêm thời gian cầm cự nhưng không tận gốc giải quyết những vấn đề nó đang đối mặt: thuế khóa quá mức, tỉ lệ sinh trong dân số giảm dần, sức ép từ các biên giới, và những vấn đề khác. Nội chiến giữa các hoàng đế đối địch trở nên phổ biến từ giữa thế kỉ 4, khiến cho quân lính xao lãng biên giới và cho phép các man tộc xâm lấn. Trong phần lớn thế kỉ 3, xã hội Rôma ổn định trong một hình thức mới khác với thời kì cổ điển (Rôma trước thời quân chủ), với một khoảng cách giàu nghèo rộng thêm, và một sự suy yếu trong sức sống của các thị trấn tỉnh lẻ. Một sự thay đổi khác là "Kitô hóa", hay sự cải đạo diễn ra trên toàn đế chế sang Kitô giáo, một quá trình từ từ xảy ra từ thế kỉ 2 tới thế kỉ 5.

thumb|upright=1.6|Bản đồ phác lược biên giới chính trị ở châu Âu khoảng năm 450 Năm 376, người Ostrogoth, trốn chạy khỏi người Hung, được hoàng đế Valens (cai trị 364-378) cho phép định cư tại tỉnh Thracia ở Balkan. Sự định cư này không diễn ra không êm ả, và khi những viên chức không giải quyết tốt tình huống, người Ostrogoth bắt đầu cướp bóc và tàn phá Valens, người tìm cách dẹp tắt sự hỗn loạn, đã bị giết trong khi đánh nhau với người Ostrogoth tại trận Hadrianopolis ngày 9 tháng 8 năm 378. Không kém gì những liên minh bộ tộc như vậy từ phương bắc, các chia rẽ nội bộ trong lòng đế chế, đặc biệt là bên trong giáo hội Kitô, cũng gây nên nhiều vấn đề. Năm 400, người Visigoth xâm lược đế quốc Tây Rôma, và tuy bị đẩy lùi khỏi Ý trong một thời gian ngắn, năm 410 dưới sự lãnh đạo của Alaric I họ đã cướp thành Rôma. Năm 406 người Halani, người Vandal và người Suevi băng qua xứ Gallia; trong ba năm sau đó họ đã lan khắp xứ này và từ 409 tràn qua Pyrénées vào miền Iberia. Cái gọi là "Thời đại Di cư" bắt đầu, khi nhiều dân tộc khác nhau, ban đầu chủ yếu là các dân tộc German di chuyển khắp châu Âu. Người Frank, người Alemanni, người Burgundy đều dừng chân ở bắc Gallia trong khi người Angles, người Sachsen, người Juti định cư tại quần đảo Anh. Chỉ đến khi Attila chết vào năm 453, liên minh Hung tan rã thì người Hung mới thôi là mối đe dọa cho đế chế. Những cuộc xâm lược từ các bộ lạc này đã thay đổi hoàn toàn bản chất chính trị và dân cư của thứ từng là Đế quốc Tây Rôma.

Đến nửa cuối thế kỷ thứ 5 miền tây của đế chế bị chia ra thành các đơn vị chính trị khác nhau, cai trị bởi các bộ lạc đã xâm lược chúng trong nửa đầu thế kỷ. Việc hoàng đế cuối cùng của phương tây, Romulus Augustus, bị phế truất năm 476 thường được xem là đánh dấu sự chấm dứt của đế quốc Tây Rôma.

Sơ kỳ Trung Cổ

Các xã hội mới

Cấu trúc chính trị của Tây Âu thay đổi với sự kết thúc đế quốc Rôma thống nhất một thời. Mặc dù sự di cư các dân tộc thường được mô tả là những cuộc "xâm lược", chúng không chỉ là những cuộc viễn chinh quân sự thuần túy mà còn là những đợt di cư toàn bộ các bộ tộc vào đế quốc. Những đợt di dân như vậy xảy ra thuận lợi nhờ giới thượng lưu Tây Rôma không chịu hỗ trợ quân đội hoặc đóng các loại thuế để quân đội có thể kìm giữ man dân di cư. Những hoàng đế ở thế kỉ 5 thường chịu sự điều khiển của những vị tướng quyền lực nắm quân đội như Stilicho (mất năm 408), Aspar (chết năm 471), Ricimer (chết năm 472) hay Gundobad (chết năm 516), những người chỉ một phần hoặc hoàn toàn không có gốc gác Rôma. Khi dòng tộc hoàng đế đứt đoạn, nhiều vị vua thay thế họ cũng mang dòng dõi ngoại dân. Hôn nhân giữa những vị vua này với giới thượng lưu Rôma xảy ra phổ biến đương thời. Điều này dẫn tới một sự dung hợp văn hóa Rôma với các tập quán của những bộ tộc xâm lược, bao gồm những nghị hội cho phép những đàn ông tự do của bộ tộc nhiều tiếng nói trong các vấn đề chính trị hơn trong nhà nước Rôma. Những vật tạo tác còn lưu lại đến nay của người Rôma và man dân thường tương tự nhau, và thường là man dân bắt chước Rôma. Phần nhiều văn hóa văn tự và học thuật của những vương quốc mới cũng dựa trên các truyền thống trí thức Rôma. Một khác biệt quan trọng là sự giảm hụt trong ngân sách thuế do những chính thể mới. Nhiều thực thể chính trị mới không còn chu cấp cho quân đội thông qua thuế, mà dựa vào việc ban cho tướng lĩnh đất đai hoặc cho thuê. Điều này giảm bớt nhu cầu ngân sách thuế lớn và hệ thống đánh thuế Rôma tan rã. Chiến tranh thường xuyên xảy ra giữa các vương quốc và cả trong nội bộ vương quốc. Chế độ nô lệ suy giảm khi nguồn cung suy yếu, các đô thị suy sút và nhìn chung xã hội trở nên nông thôn hóa.

thumb|left|Đồng tiền đúc hình [[Theodoric Đại đế]] Giữa thế kỉ 5 và thế kỉ 6, những dân tộc mới và những cá nhân hùng mạnh lấp vào chỗ trống chính trị để lại bởi chính phủ trung ương tập quyền Rôma. Người Burgundy định cư tại Gallia, và sau khi một triều đại trước đó bị người Hung hủy diệt, họ thành lập một vương quốc vào những năm 440. Giữa miền Genève và Lyon ngày nay, nó trở thành một triều đại hùng mạnh của Burgundy trong cuối thế kỉ 5 và đầu thế kỉ 6. Ở miền bắc Gallia, người Frank và người Briton xây dựng những thể chế nhỏ. Vương quốc của người Frank có trung tâm năm ở miền đông nam Gallia, và vị vua mà ta có được nhiều thông tin là Childeric (mất năm 481). Dưới triều đại con trai của Childeric là Clovis (cai trị 509-511), vương quốc Frank mở rộng và cải sang Ki-tô giáo. Người Briton, gắn bó với dân bản địa của Britannia-tức Đại Anh (Great Britain) ngày nay-định cư ở nơi nay gọi là Bretagne. Những nền quân chủ khác được thiết lập bởi người Visigoth ở Tây Ban Nha, người Suevi ở tây bắc Tây Ban Nha, và người Vandal ở Bắc Phi.

Những cuộc xâm lăng mang những nhóm sắc tộc mới tới châu Âu, mặc dù không đồng đều vì một số khu vực nhận những dòng di cư nhiều hơn vùng khác. Chẳng hạn ở Gallia, những người xâm lược định cư chủ yếu ở miền đông bắc so với tây nam. Người Slav định cư ở Trung và Đông Âu và bán đảo Balkan. Sự định cư của các dân tộc kéo theo sự thay đổi trong ngôn ngữ. Tiếng Latin của Đế quốc Tây Rôma dần dần bị thay thế bởi những ngôn ngữ dựa trên Latin, nhưng có những đặc trưng riêng, được gọi là các ngôn ngữ Roman. Những thay đổi từ Latin sang ngôn ngữ mới mất nhiều thế kỉ. Tiếng Hy Lạp vẫn duy trì là ngôn ngữ của Đế quốc Byzantine, nhưng sự di cư của người Slav dẫn đến sự lan truyền các ngôn ngữ Slav ở Đông Âu.

Byzantine trường tồn

[[Tranh khảm minh họa Justinianus I và giám mục của Ravenna, cận vệ, và quần thần|thumb|right]] Trong khi Tây Âu chứng kiến sự hình thành những vương quốc mới, Đế quốc Đông Rôma vẫn còn nguyên vẹn và trải qua một sự phục hồi kinh tế cho tới đầu thế kỉ 7. Ít có cuộc xâm lược động đến miền đông đế chế; hầu hết xảy ra ở vùng Balkan. Hòa bình với Ba Tư, kẻ thù truyền kiếp của Rôma, kéo dài trong phần lớn thế kỉ 5. Đế quốc phương đông đặc trưng bởi những mối quan hệ gần gũi hơn giữa nhà nước chính trị và Giáo hội Ki-tô, và những vấn đề giáo lý có một vai trò quan trọng hơn trong chính trị phương đông so với Tây Âu. Sự phát triển của nền pháp lý bao gồm sự hoàn chỉnh Luật Rôma; nỗ lực đầu tiên-Bộ luật Theodosianus-hoàn tất năm 438. Dưới triều đại hoàng đế Justinian (cai trị 527-565), một đợt biên soạn mới diễn ra Bộ luật Justinianus hay Corpus Juris Civilis (Bộ Luật Dân sự). Justinian cũng giám sát việc xây dựng Đại giáo đường Hagia Sophia ở Contantinopolis và sự tái chinh phục Bắc Phi từ tay người Vandal và Ý từ người Ostrogoth Cuộc chinh phục Ý không hoàn thành, bởi một sự bùng phát dịch hạch năm 542 đầy chết chóc, buộc Justinian dành phần cuối cuộc đời tập trung vào các biện pháp phòng thủ thay vì mở rộng tái chiếm. Khi vị hoàng đế băng hà, Byzantine đã lấy lại quyền kiểm soát phần lớn Ý, Bắc Phi, và có một chỗ đứng chân ở nam Tây Ban Nha. Nhiều nhà sử học chỉ trích tham vọng khôi phục Đế quốc Rôma thống nhất của Justinianus là tốn kém, tạo ra một đế quốc quá lớn vượt tầm kiểm soát và tạo điều kiện cho người Hồi giáo xâm lược; tuy nhiên những vấn đề mà những người kế tục Justinian đối diện không chỉ bởi việc tăng thuế quá mức để bù đắp chiến phí mà còn là bản chất dân sự của đế chế, khiến cho việc tăng quân số hết sức khó khăn.

Bên trong đế quốc sự xâm nhập từ từ vào vùng Balkan của người Slav tạo thêm một khó khăn nữa cho những người kế thừa Justinianus. Nó bắt đầu một cách chậm chạp, nhưng tới cuối những năm 540 các bộ lạc Slav đã tràn khắp Thrace và Illyrium, và đánh bại một đạo quân đế chế gần Hadrianopolis năm 551. Trong những năm 560 người Avar bắt đầu mở rộng căn cứ của họ ở bờ bắc sông Danube, tới cuối thế kỉ 6 họ đã trở thành thế lực thống trị ở Trung Âu và thường xuyên có thể buộc các hoàng đế phương Đông nộp cống phẩm; thế lực của họ còn tồn tại tới năm 796. Một vấn đề khác nảy sinh từ can dự của Hoàng đế Mauricius (cai trị 582-602) vào chính trị Ba Tư khi ông can thiệp để đưa Khosrau II lên ngôi ở Ctesiphon. Điều này giúp tạo nên một thời kỳ hòa bình giữa hai cường quốc, nhưng khi Mauricius bị lật đổ, người Ba Tư đã lấy cớ xâm lược Byzantine, chiếm đóng phần lớn đế chế, bao gồm Ai Cập, Syria và Tiểu Á, trước khi Hoàng đế Heraclius phản công thắng lợi, khôi phục toàn bộ lãnh thổ bị mất và ký hòa ước năm 628.

Xã hội phương Tây

Ở Tây Âu, một số gia tộc thượng lưu Rôma diệt vong trong khi số còn lại tham gia vào Giáo hội nhiều hơn các sự vụ thế tục. Các giá trị gắn với nền học thức và giáo dục Rôma hầu như biến mất, và trong khi năng lực biết đọc biết viết vẫn là quan trọng, nó lui xuống thành một kĩ năng thực dụng hơn là một dấu hiệu về vị thế tinh hoa. Trong thế kỉ 4, Thánh Hieronymus (mất năm 420) thuật lại giấc mơ thấy Thượng đế khiển trách ông vì đã dành nhiều thời gian đọc Cicero hơn là Kinh Thánh. Đến thế kỉ 6, Thánh Gregorius của Tours (mất năm 594) cũng có một giấc mơ tương tự, nhưng ở đây là bị trừng trị vì học tốc ký. Vào cuối thế kỉ 6, những phương tiện chính cho giảng truyền của Giáo hội đã chuyển sang âm nhạc và mỹ thuật thay vì sách. Hầu hết các nỗ lực trí thức hướng vào việc bắt chước nền học vấn cổ điển, nhưng một vài tác phẩm độc đáo cũng được sáng tác, bên cạnh những bài hát truyền khẩu mà nay đã thất truyền. Các tác phẩm của Sidonius Apollinaris (mất 489), Cassiodorus (mất khoảng 585), và Boethius (mất khoảng 525) là tiêu biểu cho thời kỳ này.

Những thay đổi cũng diễn ra trong dân thường, khi mà văn hóa quý tộc tập trung vào những bữa yến tiệc lớn tổ chức ở các sảnh đường thay vì những mối quan tâm tới nghệ thuật. Trang phục giới thượng lưu thường đính rất nhiều trang sức vàng. Các vị vua và lãnh chúa xây dựng một giới thân cận quanh mình gồm những chiến binh tạo nên xương sống của quân đội. Trong giới tinh hoa các mối ràng buộc thân tộc đóng vai trò quan trọng, bên cạnh các phẩm hạnh như trung thành, dũng cảm, và danh dự. Những mối ràng buộc này dẫn đến sự thịnh hành của các mối hận thù truyền kiếp (bởi nghĩa vụ trả thù cho người thân) trong xã hội quý tộc, chẳng hạn như ở xứ Gallia thời Merovingien theo lời thuật của Gregorius xứ Tours. Hầu hết các mối hận thù này kết thúc với những khoản bồi thường mạng người (tiếng Đức là wergeld). Phụ nữ tham gia vào xã hội quý tộc chủ yếu trong vai trò là vợ và mẹ, nhất là vị trí mẹ của một nhà cầm quyền đặc biệt nổi bật ở Gallia, Trong xã hội Anglo-Saxon ít khi có những ấu vương khiến cho vai trò thái hậu yếu ớt hơn, nhưng bù lại ở đây các nữ tu viện trưởng nắm quyền rộng rãi ở các tu viện. Chỉ ở Ý dường như phụ nữ luôn được xem là ở dưới sự bảo vệ và kiểm soát của đàn ông.

Tái dựng một ngôi làng Trung Cổ ở miền nông thôn Bavaria|thumb|left Xã hội nông thôn ít được ghi chép lại hơn nhiều so với giới quý tộc. Hầu hết thông tin có được đến từ Khảo cổ học; chỉ một vài ghi chép chi tiết về đời sống nông dân trước thế kỉ 9 còn sót lại. Hầu hết những mô tả này gián tiếp xuất hiện trong các đạo luật hoặc từ con mắt của những tác giả thuộc giới thượng lưu. Những hình mẫu chiếm hữu đất ở phương Tây không đồng nhất; một vài khu vực có đất đai rất phân tán, nhưng ở những nơi khác những điền trang lớn lại phổ biến. Những sự khác biệt này cho phép một sự đa dạng những nếp sống khác nhau, một số do những quý tộc địa chủ thống trị trong khi một số cộng đồng có rất nhiều quyền tự trị. Quy mô định cư cũng rất khác nhau: một số nông dân sống trong những làng lớn có tới 700 cư dân; số khác sống trong những trang trại cách biệt nhau; và cả những vùng hai hình thức trên trộn lẫn với nhau. Không giống như thời Mạt kỳ Rôma, không có sự chia cách sắc nét nào giữa vị trí pháp lý của nông dân tự do và quý tộc, và một gia đình nông dân tự do có thể nâng mình lên qua vài thế hệ nhờ phục vụ trong quân đội để trở thành một lãnh chúa quyền lực.

Đời sống và văn hóa thành thị thay đổi mạnh mẽ trong Sơ kỳ Trung Đại. Mặc dù các thành phố Ý vẫn có người cư trú, chúng co lại đáng kể về quy mô. Chẳng hạn Rôma, giảm từ dân số hàng trăm nghìn người xuống còn khoảng 30 nghìn vào cuối thế kỉ 6. Các đền thờ Rôma cải thành nhà thờ Công giáo và các tường thành vẫn được duy trì. Mặc dù từng có những cộng đồng Người Do Thái trong nhiều thành phố Rôma, họ chịu đựng những thời kì ngược đãi sau khi đế quốc cải sang đạo Ki-tô. Chính thức mà nói họ được khoan dung, nhưng luôn chịu những áp lực cải đạo và có những thời kì bị xua đuổi tới những vùng khác.

Sự trỗi dậy của Hồi giáo

upright=1.3|thumb| [[Cuộc xâm lược Hồi Giáo|Đế chế Hồi giáo và sự bành trướng của nó. Màu tối nhất là cương vực mở rộng từ 622 tới 632, màu đậm vừa là vùng mở rộng từ 632 tới 661, và vùng sáng nhất là lãnh thổ chiếm được từ 661 tới 750.]] Những tín ngưỡng tôn giáo trong đế quốc Byzantine và Ba Tư chuyển đổi mạnh mẽ cuối thế kỷ 6 và đầu thế kỷ 7. Đạo Do Thái là một đức tin cải đạo tích cực, và ít nhất một lãnh tụ chính trị Người Ả Rập cải sang đạo này.☃☃ Kitô giáo cũng cử những đoàn truyền giáo tích cực cạnh tranh với đạo Zoroastre (Hỏa giáo), đặc biệt nhắm vào người dân ở Bán đảo Ả Rập. Những mối quan hệ phức tạp này hội tụ với sự trỗi dậy của đạo Islam (Hồi giáo) ở Arabia dưới thời Mohammed (mất năm 632). Sau cái chết của ông, các đội quân Islam đã chinh phục phần lớn Byzantine và Ba Tư, bắt đầu với Syria năm 634-635, vươn tới Ai Cập năm 640-641, Ba Tư những năm 637-642, Bắc Phi cuối thế kỉ 7. Năm 711, người Hồi giáo vươn tới bán đảo Iberia và tới 714 chiếm phần lớn nơi này, một vùng mà họ gọi là Al-Andalus.

Các cuộc chinh phục của Hồi giáo đạt đến đỉnh điểm vào giữa thế kỉ 8. Sự thất bại của quân Hồi giáo trong Trận Tours năm 732 dẫn đến sự tái chiếm miền nam Pháp bởi người Frank, nhưng thực ra lý do chính của việc Hồi giáo ngừng tấn công châu Âu là cuộc đảo chính lật đổ Khalifah Omeyyad. Triều đại kế tục là Nhà Abbas dời đô tới Bagdad và từ đó bận tâm đến Trung Đông nhiều hơn châu Âu, để mất kiểm soát nhiều vùng đất Hồi giáo. Những con cháu dòng dõi Omeyyad chiếm đóng bán đảo Iberia, Nhà Aghlab kiểm soát Bắc Phi và Nhà Tulun cai trị ở Ai Cập. Đến giữa thế kỉ 8, các tuyến đường giao thương mới nổi lên ở Địa Trung Hải; thương mại giữa người Frank và người Ả Rập thay thế cho các tuyến đường hàng hải của Rôma trước kia. Người Frank cung cấp gỗ, lông thú, gươm và cả nô lệ để đổi lại lụa và các loại sợi khác, gia vị...và các kim loại quý từ Ả Rập.

Thương mại và tiền tệ

Các cuộc di cư và xâm lược ở thế kỉ 4 và 5 đã làm đứt đoạn mạng lưới giao thương giữa các miền Địa Trung Hải. Các sản phẩm châu Phi ngừng xuất khẩu sang châu Âu, đầu tiên không còn thấy trong nội địa và tới thế kỉ 7 chỉ còn thấy ở vài thành phố như Rôma hay Naples và tới cuối thế kỉ 7 hoàn toàn không hiện diện dưới ảnh hưởng của cuộc chinh phục của Hồi giáo. Sự thay thế hàng hóa từ viễn dương bằng các sản phẩm địa phương là một xu hướng xảy ra ở các miền Rôma cũ trong suốt thời Sơ kỳ Trung Đại. Điều này đặc biệt rõ ràng ở những miền không nằm trên bờ Địa Trung Hải như bắc Gallia hay đảo Anh. Các hàng hóa hiếm hoi không phải từ địa phương mà khảo cổ học ghi nhận thường là những mặt hàng xa xỉ. Ở miền bắc châu Âu, mạng lưới buôn bán không chỉ có tính địa phương, mà các hàng hóa cũng thường đơn sơ, chỉ có một rất ít đồ gốm và các sản phẩm tinh xảo khác. Xung quanh bờ Địa Trung Hải, đồ gốm vẫn còn phổ biến và được vận chuyển từ nơi tương đối xa chứ không chỉ gồm hàng địa phương.

Các nhà nước German khác nhau ở phương tây đều đúc những đồng tiền bắt chước những dạng Rôma và Byzantine sẵn có. Vàng tiếp tục được khai thác để đúc tiền cho đến cuối thế kỉ 7, cho đến khi nó được thay thế bởi Bạc. Đồng tiền bạc Frank nhỏ nhất là Denarius hay Denier, trong khi ở miền Anglo-Saxon là Penny. Từ những miền này, đồng denier và penny lan ra khắp châu Âu trong thời kì 700-1000. Tiền đồng hoặc đồng thau không được đúc, vàng cũng vậy, trừ miền Nam Âu. Các đồng tiền này chỉ có đơn vị nhỏ nhất mà không có đơn vị bội.

Giáo hội và đời sống tu viện

thumb|right|upright|Một bức tranh thế kỉ 11 minh họa thánh [[Giáo hoàng Grêgôriô I|Gregorius Cả đang đọc cho một thư ký viết.]] Ki-tô giáo từng là một nhân tố thống nhất chính yếu giữa miền Đông và Tây châu Âu, nhưng cuộc chinh phục Bắc Phi của người Ả Rập đã cắt lìa mối liên lạc đường biển giữa hai khu vực này. Giáo hội Byzantine ngày càng khác biệt trong ngôn ngữ, nghi lễ, luật lệ với Giáo hội phương Tây. Giáo hội phương Đông dùng tiếng Hy Lạp thay vì tiếng Latin ở phương Tây. Sự khác biệt về thần học và chính trị xuất hiện, và tới đầu và giữa thế kỉ 8 những vấn đề như sự Bài trừ thánh tượng, hôn nhân tăng lữ, và chế độ nhà nước kiểm soát nhà thờ đã tới mức độ mà sự khác biệt về văn hóa và tôn giáo giữa hai miền lớn hơn là những tương đồng. Sự đổ vỡ chính thức xảy ra vào năm 1054, khi Giáo hoàng ở Rôma và Thượng phụ Đại kết ở Constantinopolis xung đột với nhau về quyền tối cao trong giáo hội và rút phép thông công lẫn nhau, dẫn tới sự phân chia Ki-tô giáo thành hai Giáo hội-nhánh phương Tây trở thành Công giáo Rôma và nhánh phương Đông thành Chính thống giáo Hy Lạp.

Cấu trúc giáo hội thời Đế quốc Rôma tồn tại qua những đợt di dân và xâm lược hầu như nguyên vẹn ở phương Tây, nhưng ngôi vị giáo hoàng ít được coi trọng, và chỉ một vài giám mục ở phương Tây xem giám mục của Rôma (tức Giáo hoàng) như là lãnh tụ về tôn giáo hay chính trị. Với việc Byzantine tái chinh phục Italia từ người Goth, trước năm 750 các Giáo hoàng muốn đăng quang cần sự chuẩn thuận từ Hoàng đế Đông Rôma và do đó nhiều Giáo hoàng quan tâm nhiều hơn tới các sự vụ ở Byzantine và các tranh cãi thần học ở phương Đông. Các bản lưu trữ thư từ của Gregorius Cả (Giáo hoàng những năm 590-604) cho thấy trong số hơn 850 bức thư, hầu hết là liên quan tới sự vụ ở Ý hay ở Constantinopolis. Phần duy nhất ở Tây Âu mà Giáo hoàng có ảnh hưởng là đảo Anh, nơi Gregorius gửi đoàn truyền giáo năm 597 để cải người Anglo-Saxon sang Ki-tô gáo. Những linh mục Ireland là những nhà truyền giáo tích cực nhất ở Tây Âu giữa thế kỉ 5 và 7, đầu tiên tới xứ Anh và Scotland sau đó tiến vào lục địa. Dẫn dắt bởi những tu sĩ như Columba (mất năm 597) và Columbanus (mất năm 615), họ đã lập nên những tu viện, dạy tiếng Latin và Hy Lạp, và soạn nhiều công trình tôn giáo lẫn thế tục.

Sơ kỳ Trung Đại cũng chứng kiến sự thịnh hành chế độ tu viện ở phương Tây. Hình hài đời sống tu viện được xác định bởi những truyền thống và tư tưởng vốn bắt nguồn từ những Giáo phụ sa mạc ở Ai Cập và Syria. Hầu hết các tu viện châu Âu thuộc vào loại tập trung vào trải nghiệm cộng đồng về đời sống tinh thần, khởi đầu vào thế kỉ 4 bởi thánh Pachomius (mất năm 348). Những lý tưởng về đời sống tu viện lan truyền từ Ai Cập tới Tây Âu trong các thế kỉ 5 và 6 thông qua các sách kể truyện thánh như "Cuộc đời thánh Antôn Cả". Thánh Benedictus của Nurcia (mất năm 547) viết Luật Benedict cho tu viện vào thế kỉ 6, mô tả chi tiết những trách nhiệm điều hành và tôn giáo của một cộng đồng các tu sĩ lãnh đạo bởi một Tu viện trưởng. Tu sĩ và các tu viện có một tác động sâu sắc lên đời sống tôn giáo và chính trị thời Sơ kỳ Trung Đại, trong nhiều trường hợp đã đóng vai trò như những nơi ủy thác đất đai cho những gia đình quyền quý, trung tâm tuyên truyền và ủng hộ cho hoàng gia ở những vùng mới chiếm đóng, và căn cứ cho các đoàn truyền giáo và nhập đạo. Chúng là những trụ sở dạy chữ và kiến thức chính và đôi khi là duy nhất trong một vùng. Nhiều trong số những bản thảo của văn học Latin cổ điển được chép lại trong các tu viện vào thời Sơ kỳ Trung Đại. Các tu sĩ cũng là tác giả của những tác phẩm mới, bao gồm lịch sử, thần học, và các đề tài khác, với những đại diện như Bêđa (mất năm 735) ở miền bắc xứ Anh.

Châu Âu thời Carolingien

thumb|right|upright= 1.5|Bản đồ minh họa sự bành trướng của cường quốc Frank từ 481 tới 814

Miền đất của người Frank ở bắc Gallia chia ra thành ba vương quốc là Austrasia, Neustria, và Burgundy trong thế kỉ 6 và 7, có quan hệ lỏng lẻo với nhau vì vương vị ở ba vương quốc đều thuộc vương tộc Merovingian có Tổ tiên chung là Clovis. Thế kỉ 7 chứng kiến một thời kì chiến tranh hỗn loạn giữa Austrasia và Neustria. Sự hỗn loạn này bị Pépin Già, Trưởng quản hoàng gia Austrasia (mất năm 640) đứng đằng sau ngai vàng, khai thác. Con cháu Pépin thừa hưởng ngôi vị này, đóng vai trò cố vấn và nhiếp chính. Một trong những người chắt của ông, Charles Martel (mất năm 741), thắng trận Poitiers năm 732, ngăn chặn sự xâm lặng của quân đội Hồi giáo qua dãy Pyrénées.

Con trai của Charles Martel, Pépin Lùn (mất năm 768) tiến hành cuộc đảo chính năm 753 và thống nhất hai vương quốc Austrasia và Neustria, lập nên triều đại Carolingien. Một cuốn biên niên sử đương thời cho rằng Pépin đã được Giáo hoàng Stephanus II (giữ ngôi 752-757) ủng hộ đảo chính. Pépin sử dụng bộ máy tuyên truyền để hợp thức hóa triều đại của mình, bằng cách mô tả nhà Merovingien là bất tài hoặc tàn bạo, tán tụng công lao của Charles Martel, và lan truyền những giai thoại về lòng mộ đạo cao cả của dòng họ ông. Đến lúc sắp qua đời năm 768, theo tục lệ người Frank Pépin chia vương quốc cho hai con trai, Charles và Carloman. Khi Carloman chết bệnh, Charles không cho con nhỏ của em trai nối ngôi và tự đưa mình nên thành nhà vua duy nhất của Austrasia và Neustria. Charles, ngày nay thường được gọi dưới tên Charles Đại Đế hay Charlemagne, tiến hành một chương trình xâm lược quy mô kể từ năm 774, dần dần thống nhất một phần lớn châu Âu, lập lên một đế chế bao phủ phần lớn nước Pháp hiện nay, bắc Ý và miền Sachsen. Trong các cuộc chiến tranh kéo dài tới khoảng năm 800, ông tặng thưởng chiến lợi phẩm và đất đai chiếm được cho các đồng minh. Với việc chinh phục vương quốc Lombard (774), ông giải phóng Giáo hội Rôma khỏi nỗi sợ một cuộc xâm lược từ phía Bắc, xác lập Lãnh thổ Giáo hoàng. Vào ngày Giáng sinh năm 800, tại Vương cung thánh đường Thánh Phêrô, Giáo hoàng Leo III tuyên phong Charlemagne làm Hoàng đế của người Rôma.

thumb|left|Vương cung thánh đường của Charlemagne tại [[Aachen, hoàn thành vào năm 805]] Lễ đăng quang của Charlemagne được xem như một điểm bước ngoặt trong lịch sử trung đại, đánh dấu sự trở lại Đế quốc Tây Rôma trong hình hài mới, bởi tân hoàng đế cai trị trên phần lớn lãnh thổ trước kia thuộc các hoàng đế phương Tây. Nó cũng đặt Charlemagne lên tư thế ngang hàng với Đế quốc Byzantine. Tuy nhiên, có những khác biệt giữa đế quốc Carolingien mới thành lập và cả đế quốc Tây Rôma trước kia và đế quốc Byzantine đương thời. Lãnh thổ Frank chủ yếu là nông thôn, chỉ có một vài thành thị nhỏ. Hầu hết dân cư là nông dân sinh sống ở những trang trại nhỏ. Thương mại rất yếu ớt và hầu hết diễn ra với người Anh và Scandinavia, tương phản với Đế quốc Rôma xưa kia với mạng lưới giao thương tập trung ở miền Địa Trung Hải.

Phục Hưng Carolingien

Triều đình Charlemagne ở Aachen từng là trung tâm của một sự nảy nở văn hóa đôi khi được gọi là "Phục Hưng Carolingien". Thời kì này chứng kiến một sự gia tăng tỉ lệ biết chữ, sự phát triển của mỹ thuật, kiến trúc và luật học. Tu sĩ người Anh Alcuin (mất năm 804) được mời tới Aachen và truyền bá giáo dục tại các tu viện ở miền Northumbria. Cơ quan văn thư của Charlemagne tạo nên một kiểu chữ viết mới, ngày nay gọi là chữ Carolingien, cho phép kiểu ghi chép thông thường giúp phát triển sự liên lạc trên khắp châu Âu. Charlemagne bảo trợ những thay đổi trong nghi lễ nhà thờ, áp đặt các dạng nghi lễ Rôma lên các vùng ông cai quản, cũng như những các Bình ca Gregoriano vào thánh ca nhà thờ. Một hoạt động quan trọng của các học giả thời kì này là sao chép, hiệu đính và truyền bá các tác phẩm đại cương về các chủ đề tôn giáo và thế tục, với mục đích khuyến khích việc học tập. Các công trình mới về các chủ đề tâm linh và sách giáo khoa cũng được lưu hành. Các nhà ngữ pháp học của thời kì này đã chỉnh sửa ngôn ngữ Latin, biến nó từ dạng Tiếng Latin Cổ điển của Đế quốc Rôma thành một dạng linh hoạt hơn để phù hợp nhu cầu của giáo hội và chính quyền. Dưới thời Charlemagne, ngôn ngữ này đã phân kỳ quá nhiều khỏi ngôn ngữ cổ điển đến mức về sau nó được gọi là tiếng Latin Trung Cổ.

Đế quốc tan vỡ

Charlemagne dự định tiếp tục truyền thống Frank là chia lãnh thổ đế quốc cho những người con của mình, nhưng bất thành vì đến năm 813 chỉ còn một người con của ông còn sống là Louis Mộ Đạo (cai trị 814-840). Ngay trước khi qua đời, Charlemagne đưa Louis lên làm thái tử.

Triều đại của Louis đánh dầu bởi một loạt những sự chia cắt đế chế giữa các con trai của ông và từ năm 829 là các cuộc nội chiến giữa nhiều liên minh của phụ vương và các hoàng tử giành quyền kiểm soát các miền đế quốc. Cuối cùng, Louis chấp nhận cho con cả là Lothaire I (mất năm 855) là hoàng đế và thừa hưởng Italia. Phần còn lại của đế chế chủ yếu được chia giữa Lothaire và Charles Hói (mất năm 877), con út của ông. Lothaire giữ Đông Frank, bao gồm hai bờ sông Rhine về phía đông, để lại cho Charles Tây Frank tới các miền tây của Rhineland và Alps. Louis German (mất 876), người con thứ ba từng nổi dậy chống em trai, được phép cai trị miền Bavaria dưới quyền anh cả Lothaire. Tuy nhiên việc phân chia này vẫn chưa làm hài lòng các thành viên hoàng tộc: cháu nội hoàng đế là Pépin II của Aquitaine (con trai của hoàng tử Pépin I của Aquitaine đã chết) nổi loạn đòi làm chủ Aquitaine, trong khi Louis German tìm cách sáp nhập toàn bộ miền Đông Frank. Louis Mộ Đạo mất năm 840 trong lúc đế quốc vẫn trong cảnh rối ren.

Một cuộc nội chiến dài ba năm theo sau hoàng đế băng hà chấm dứt bởi Hiệp ước Verdun (843), một vương quốc được thành lập giữa sông Rhine và sông Rhône dưới quyền cai trị của Lothaire cùng với các lãnh thổ ở Ý; Đồng thời đế vị của ông được xác nhận. Louis German kiểm soát Bavaria và miền đất phía đông ở Đức ngày nay. Charles Hói nhận miền phía tây Frank, bao gồm phần lớn nước Pháp hiện nay. Năm 987 Carolingiens bị thay thế ở lãnh thổ phía tây, với sự đăng quang của Hugh Capet (cai trị 987-996) mở đầu vương triều Capetien ở Pháp. Dòng dõi này ở miền Đông còn diệt vong sớm hơn, vào năm 911, với cái chết của Louis Thiếu Đế, và việc Konrad I (cai trị 911-918), một người ngoài hoàng tộc, được bầu làm vua.

Sự đổ vỡ của Đế quốc Carolingien song hành với những cuộc xâm lược, di cư và cướp bóc bởi các kẻ thù bên ngoài. Các miền bờ biển Đại Tây Dương và phía bắc bị quấy nhiễu bởi người Viking, những người cũng tấn công quần đảo Anh và định cư ở đó cũng như ở Iceland. Năm 911, thủ lĩnh Viking Rollo (mất khoảng 931) nhận được sự cho phép từ Charles Giản Dị (cai trị 898-922) định cư cộng đồng Viking ở nơi về sau trở thành Normandie. Miền đông của đế quốc Frank cũ, đặc biệt là ở Đức và Ý, chịu đựng những đợt công kích liên tục của người Magyar cho đến khi đội quân xâm lược thất bại tại Trận Lechfeld năm 955. Trong khi đó, sự sụp đổ của triều đại Abbas dẫn tới thế giới Hồi giáo bị phân mảnh thành các tiểu quốc nhỏ hơn, một vài trong số đó bắt đầu bành trướng tới Italia và Sicilia, cũng như vượt Pyréneés vào miền Nam của một số vương quốc Frank.

Các vương quốc mới và Byzantine hồi sinh

Một bảng ngà ở thế kỉ thứ 10 minh họa Chúa đón nhận một nhà thờ từ |thumb|left|upright Các nỗ lực của các vị vua ở địa phương nhằm chống lại những kẻ xâm lược dẫn đến sự hình thành những thực thể chính trị mới. Ở nước Anh Anglo-Saxon, Vua Alfred Đại đế (cai trị 871-899) đạt được một thỏa thuận với thủ lĩnh Viking cuối thế kỉ 9, dẫn đến việc những di dân Đan Mạch định cư ở Northumbria, Mercia và, nhiều phần thuộc Đông Anglia. Tới giữa thế kỉ 10, con cháu của Alfred đã hoàn thành chinh phục Northumbria, và khôi phục quyền cai quản của người Anh trên phần lớn đảo Anh. Ở miền bắc Anh, Kenneth MacAlpin (mất khoảng 860) thống nhất người Pict và Người Scotland, lập nên Vương quốc Alba. Ông tìm kiếm sự công nhận của Đế quốc Byzantine với đế hiệu của mình, bằng cách cho con trai Otto II (cai trị 967-983) kết hôn với Theophanu (mất 991), con gái của hoàng đế Byzantine quá cố Romanos II (cai trị 959-963) năm 972. Đến cuối thế kỉ 10 vương quốc Italia đã rơi vào vùng ảnh hưởng của nhà Ottonen sau một thời gian ổn định; Otto III (cai trị 996-1002) dành phần lớn triều đại của ông cai trị ở vương quốc này Vương quốc Tây Frank bị chia nhỏ hơn nữa, và dù các vị vua vẫn đứng đầu trên danh nghĩa, phần lớn quyền lực chính trị đã rơi vào tay các lãnh chúa địa phương.

Các nỗ lực truyền đạo Ki-tô tới Scandinavia trong thế kỉ 9 và 10 đã giúp tăng cường sự phát triển của các nền quân chủ ở Thụy Điển, Đan Mạch và Na Uy, thu nhận nhiều quyền lực và lãnh thổ. Một vài vị vua cải sang Ki-tô giáo, nhưng tới năm 1000 không phải tất cả. Người Scandinavi cũng bành trướng và lập thuộc địa khắp châu Âu. Bên cạnh định cư ở Ireland, xứ Anh, và Normandie, các đợt di dân còn diễn ra ở nơi là nước Nga này nay và Iceland. Các thương nhân và cướp biển người Thụy Điển tràn xuống những con sông ở thảo nguyên Nga, thậm chí còn thử tấn công bất thành Constantinople vào những năm 860 và 907. Nước Tây Ban Nha Ki-tô giáo, ban đầu bị đẩy lùi vào một vùng nhỏ phía bắc bán đảo, đã mở rộng chậm chạp về phía nam suốt các thế kỉ 9 và 10, lập nên các Vương quốc Asturias và Vương quốc León.

Ở Đông Âu, Byzantine hồi phục lại sự thịnh vượng của mình dưới thời các Hoàng đế Basil I (cai trị 867-886), Leo VI (886-912) và Constantinus VII (913-959) thuộc Nhà Macedonian. Thương mại hồi sinh và các vị hoàng đế trông nom việc mở rộng một nền hành chính thống nhất cho các tỉnh. Quân đội được tổ chức lại, cho phép các Hoàng đế John I (cai trị 969-976) và Basil II (cai trị 976-1025) mở rộng cương vực đế chế ở mọi hướng. Triều đình đế quốc ở Constantinople là trung tâm của một sự hồi sinh trong nghiên cứu cổ điển, một thời kì mà giờ đôi khi gọi là "Phục Hưng Macedonia". Các tác giả như John Geometres (sống khoảng thế kỉ 10) sáng tác những khúc ca, bài thơ, và các tác phẩm mới. Các nỗ lực truyền giáo của cả giới tăng lữ Tây và Đông dẫn tới sự cải đạo của người Moravia, người Bulgary, người Bohemia, người Ba Lan, người Hungary, và các cư dân Slav ở Rus Kiev. Bulgaria, thành lập khoảng năm 680, đạt đến đỉnh cao sau đó, vươn từ Budapest tới Hắc Hải và từ sông Dnieper ở Ukraina ngày nay tới Biển Adriatic. Suy yếu dần bởi các cuộc chiến tranh với các thế lực khác, tới năm 1018, những quý tộc người Bulgary cuối cùng đã đầu hàng đế quốc Byzantine.

Nghệ thuật và kiến trúc

thumb|right|upright|Một trang từ cuốn [[Phúc Âm Kells, một thánh kinh minh họa được chế tác tại quần đảo Anh cuối thế kỉ 8 hoặc đầu thế kỉ 9]] Rất ít công trình đồ sộ bằng đá nào được xây dựng trong thời kì giữa các giáo đường kiểu Constantine thế kỉ 4 tới thế kỉ 8, mặc dù ở thế kỉ 6-7 khá nhiều giáo đường cỡ nhỏ xuất hiện. Tới đầu thế kỉ 8, Đế quốc Carolingien hồi sinh dạng kiến trúc nhà thờ lớn. Một đặc điểm của nhà thờ thời kì này là sử dụng cánh ngang, tức những "cánh tay" của một công trình có hình chữ thập vuông góc với trục chính hay gian giữa của nó. Các đặc điểm khác của kiến trúc nhà thờ bao gồm tháp trung tâm, và mặt tiền đồ sộ thường nằm ở phía tây của tòa nhà.

Nghệ thuật Carolingien chỉ nhằm phục vụ cho một nhóm nhỏ những nhân vật ở triều đình, các tu viện và giáo đường. Nó bị thống ngự bởi nỗ lực lấy lại chân giá trị và chủ nghĩa cổ điển trong nghệ thuật cung đình Rôma và Byzantine. Trong khi ở quần đảo Anh hình thành nghệ thuật đảo quốc, hay sự kết hợp của truyền thống Celt với nghệ thuật Anglo-Saxon trong trang trí với các hình thức Địa Trung Hải, các tác phẩm chính còn lưu lại ngày nay là các thánh kinh minh họa và các phù điêu chạm ngà (mẫu của những tác phẩm trên kim loại đã bị nung chảy). Các vật tạo tác từ kim loại quý là dạng nghệ thuật đỉnh cao của thời đại này, nhưng hầu hết đã thất truyền chỉ trừ một vài cây thập tự như Thánh giá Lothaire, một vài hòm thánh tích, và các vật khai quật được hầm mộ Sutton Hoo (Anglo-Saxon), các kho báu ở Gourdon (Merovingien), Guarrazar (Vigigoth) và Nagyszentmiklós (Byzantine). Trâm cài đầu là một phần quan trọng của trang sức cá nhân giới thượng lưu, một số chiếc tinh xảo còn lưu lại tới nay như Trâm Tara (Ireland). Các sách Phúc Âm được trang trí dầy đặc cũng còn được bảo tồn với số lượng lớn, trong đó có những tác phẩm nổi bật về hàm lượng nghệ thuật như Phúc Âm Kells, Phúc Âm Lindisfarne, và cuốn sách kinh của Charles Hói, Codex Aureus của St. Emmeram nổi tiếng và làm từ vàng và khảm đá quý. Triều đình Charlemagne dường như đã đóng vai trò tiếp nhận điêu khắc tượng hình quy mô lớn vào Nghệ thuật Ki-tô giáo, và tới cuối thời kì này các tượng có kích thước giống người thật như Thánh giá Gero trở thành phổ biến trong các nhà thờ lớn.

Thành tựu quân sự

Trong thời mạt kì Đế quốc Rôma, những phát triển chính về quân sự là nỗ lực tạo ra một lực lượng kỵ binh hiệu quả cũng như tiếp tục phát triển hai loại quân có tính đặc chủng cao. Sự thành lập của kỵ binh trang bị nặng Cataphract (quân thiết kỵ) là một đặc điểm quan trọng của quân đội La mã thế kỉ 5. Các đội quân man dân có trọng tâm khác nhau trong đội hình-người Anglo-Saxon chủ yếu bao gồm bộ binh trong khi quân Vandal và Visigoth có một tỉ lệ kỵ binh đáng kể. Thời kỳ đầu xâm lược, yên cương còn chưa được biết đến, gây hạn chế cho tính hữu dụng của kỵ binh trong vai trò quân xung kích. Sự thay đổi lớn nhất trong thời kì này là sự tiếp nhận loại cung của người Hung thay cho cung Scythia yếu hơn trước đó. Một sự phát triển khác là việc sử dụng ngày càng nhiều trường kiếm và và sự thay thế dần Áo giáp vảy bằng Áo giáp lưới và Áo giáo tấm.

Tầm quan trọng của bộ binh và khinh kỵ bắt đầu suy giảm vào đầu thời Carolingien, trong khi thiết kị tinh nhuệ trở thành nòng cốt. Việc đánh thuế dân quân lên dân tự do suy giảm trong thời kì này. Mặc dù phần lớn quân đội Carolingien cưỡi ngựa, một tỉ lệ lớn trong đó là bộ binh cưỡi ngựa (chỉ để tăng tính cơ động, còn dàn trận tấn công kiểu bộ binh), thay vì kỵ binh thực sự. Một ngoại lệ là nước Anh Anglo-Saxon nơi quân đội vẫn hợp thành từ các đội quân tuyển mộ ở địa phương, gọi là fyrd (dân quân) do quý tộc địa phương đó chỉ huy. Về mặt kĩ thuật, một trong những thay đổi chính là sự trở lại của Nỏ vốn từng xuất hiện và mai một trong thời Rôma. Một thay đổi khác là sự xuất hiện của yên cương cho phép tăng hiệu quả đột kích của kỵ binh. Móng ngựa cũng xuất hiện và tỏ ra hữu ích ngoài cả ý nghĩa quân sự, nó cho phép ngựa có thể sử dụng ở những địa hình nhiều đá.

Trung kỳ Trung Cổ

Xã hội và đời sống kinh tế

Một bức tranh minh họa Pháp thời Trung Cổ về ba giai cấp trong xã hội: [[tăng lữ, hiệp sĩ và nông dân. Mối quan hệ giữa các giai cấp này nằm trong khuôn khổ của Chế độ phong kiến và Chế độ trang viên.|thumb|left]] Trung kỳ Trung Đại chứng kiến một sự gia tăng dân số. Dân cư châu Âu tăng từ khoảng 35 triệu năm 1000 lên khoảng 80 triệu năm 1347, mặc dù nguyên nhân chính xác vẫn còn chưa rõ ràng: có thể là những kĩ thuật canh tác cải tiến, sự suy giảm của chiếm hữu nô lệ, một khí hậu ấm hơn hoặc nhờ không chịu những cuộc xâm lược. Tới khoảng 90 phần trăm dân số châu Âu là nông dân sống ở nông thôn. Nhiều người không còn sống trong những nông trang biệt lập mà gia nhập vào những cộng đồng nhỏ, tức các Trang viên hoặc làng. phân bố ở Nam Âu nhiều hơn là miền bắc. Việc phá rừng lấy đất canh tác, hoặc khuyến khích nông dân khẩn hoang cũng đóng góp vào sự gia tăng dân số.

Các giai tầng khác của xã hội bao gồm quý tộc, tăng lữ và thị dân. Quý tộc, bao gồm giới quyền quý có tước hiệu và các Hiệp sĩ đơn thuần, khai thác lợi ích từ các trang viên và nông dân, mặc dù thẳng thừng thì họ không sở hữu đất đai mà là được ban quyền thu lợi tức của đất đai từ trang viên hay các miền đất khác từ một chúa tể đứng trên họ, trong một hệ thống gọi là Chế độ phong kiến. Trong thế kỉ 11 và 12, những miền đất này, tức những Đất phong (hay thái ấp), trở thành có tính thừa kế, và ở nhiều vùng không còn có thể bị phân chia giữa những người thừa kế khác nhau của một gia trưởng như thời kì đầu Trung Cổ. Thay đó, hầu hết thái ấp và đất đai khác được truyền cho con trai cả của gia trưởng.

Sự thống trị của quý tộc được xây dựng trên quyền kiểm soát đất đai, tham gia vào quân đội như kỵ binh nặng, kiểm soát các Lâu đài, và được miễn sưu thuế lao dịch. Các lâu đài, ban đầu bằng gỗ và về sau bằng đá, bắt đầu được xây dựng từ thế kỉ 9 và 10 để phòng bị với những rối loạn xã hội đương thời, cung cấp sự bảo vệ khỏi quân xâm lược cướp bóc cũng như cho phép các lãnh chúa phòng ngự địch thủ. Quyền kiểm soát lâu đài ít nhiều cho phép quý tộc thách thức vua hoặc các vị chúa tể khác. Giới quý tộc có tính phân tầng; vua và các quý tộc bậc cao nhất kiểm soát lượng lớn bình dân và đất đai, cũng như các quý tộc phụ thuộc. Bên dưới đó, các quý tộc thấp hơn có ít đất đai và nông dân hơn. Thấp nhất là những hiệp sĩ; họ thu lợi tức nhưng không sở hữu đất đai và phải phục vụ quý tộc (phong quân) của họ.

Giới giáo sĩ (tăng lữ) chia thành hai loại:

  • Giáo sĩ triều: tức những người sống ở thế giới bên ngoài

  • Giáo sĩ dòng: tức những người sống theo luật lệ tu trì và thường là tu sĩ.

Trong suốt thời kì này giáo sĩ vẫn chiếm một tỉ lệ rất nhỏ trong dân chúng, thường dưới một phần trăm. Hầu hết giáo sĩ dòng tu là từ thành viên giới quý tộc chọn đời sống tôn giáo, đây cũng là nguồn gốc xuất thân của giáo sĩ triều bậc trên; trong khi các thầy tu ở xứ đạo địa phương thường xuất thân từ nông dân.

Thị dân có một vị trí ít nhiều khác biệt, vì họ không phù hợp vào sự phân chia ba giai cấp xã hội truyền thống gồm quý tộc, tăng lữ và nông dân. Trong thế kỉ 12 và 13, vai trò của thị dân tăng cường nhanh chóng nhờ các thị trấn đã có lớn lên cùng những trung tâm dân cư được thành lập. Tuy vậy trong suốt thời Trung Cổ dân cư thành thị chắc chắn không bao giờ vượt quá được 10 phần trăm tổng dân số. right|upright|thumb|Một minh họa thế kỉ 13 về một người Do Thái (đội mũ đặc trưng của họ) tranh cãi với một người Ki-tô

Người Do Thái cũng di cư khắp châu Âu trong thời kỳ này. Các cộng đồng được thành lập ở Đức và Anh trong các thế kỉ 11 và 12, nhưng người Do Thái Tây Ban Nha, định cư từ lâu dưới chính quyền Hồi giáo, nay chịu sự thống trị của người Ki-tô và chịu áp lực cải đạo. Bên cạnh người Do Thái, cũng có những người không theo Ki-tô giáo khác ở nhiều nơi của châu Âu-người Slav đa thần ở Đông Âu và người Hồi giáo ở Nam Âu.

Phụ nữ ở thời Trung Đại chính thức thì phụ thuộc vào một người đàn ông, có thể là cha, chồng hoặc một người họ hàng nam giới nào đó. Các góa phụ, những người thường có nhiều quyền hạn trên đời sống của chính mình hơn, vẫn bị giới hạn bởi luật lệ. Công việc của phụ nữ thường chỉ bao gồm cai quản gia đình và những nhiệm vụ liên quan tới việc trong nhà. Phụ nữ nông dân chịu trách nhiệm chăm sóc gia đình, nuôi dưỡng trẻ nhỏ, cũng như làm vườn và trông nom gia súc gần nhà. Họ có thể bổ sung cho thu nhập gia đình bằng việc quay sợi hoặc ủ rượu tại gia. Vào mùa thu hoạch, họ cũng tham gia phụ giúp đồng áng. Phụ nữ trong giới thị dân bên cạnh việc gia đình cũng tham gia và buôn bán, nhưng loại buôn bán nào cho phép phụ nữ tham gia thì thay đổi theo từng quốc gia và từng thời kì. Phụ nữ quý tộc đôi khi có thể đảm nhiệm việc cai quản cơ ngơi thái ấp trong khi nam giới vắng mặt, nhưng họ thường bị cấm tham gia vào sự vụ quân đội hoặc chính quyền. Vai trò duy nhất dành cho phụ nữ trong Giáo hội là sơ, vì họ không thể trở thành linh mục. Trong cuối thế kỉ 13 các tuyến đường thủy và bộ tới Viễn Đông đã được khai phá, nhất là được mô tả trong cuốn Marco Polo phiêu lưu ký của nhà buôn Marco Polo (mất năm 1324). Bên cạnh các cơ hội thương mại, các tiến bộ nông nghiệp và kĩ thuật khiến cho sản lượng thu hoạch gia tăng, đến lượt mình nó cho phép mạng lưới giao thương mở rộng. Thương mại gia tăng đem lại những phương thức giao dịch tiền tệ mới, và tiền vàng một lần nữa được khai thác ở châu Âu, đầu tiên ở Ý và sau đó ở Pháp và các quốc gia khác. Các dạng hợp đồng thương mại mới xuất hiện, cho phép chia sẻ rủi ro giữa giới thương gia. Các phương pháp kế toán được cải tiến, một phần qua việc sử dụng vào sổ hai lần; các loại ngân phiếu cũng xuất hiện, cho phép tiền được chuyển phát dễ dàng hơn.

Các cường quốc nổi lên

Bản đồ chính trị châu Âu và Địa Trung Hải năm 1190|thumb|upright=1.3

Thời Trung Kỳ Trung Đại là chính là giai đoạn hình thành nhiều nhà nước phương Tây hiện đại. Các vị quân vương ở Pháp, Anh, và Tây Ban Nha củng cố quyền lực của họ, và lập nên những thể chế cai trị vững bền. Các quốc gia mới như Hungary và Ba Lan, sau khi cải sang đạo Ki-tô, trở thành những cường quốc ở Trung Âu. Chế độ giáo hoàng, gắn bó lâu dài với ý thức hệ về nền độc lập khỏi các vị vua thế tục, lần đầu tiên khẳng định tuyên bố thẩm quyền trần thế trên toàn bộ thế giới Ki-tô; nền Quân chủ Giáo hoàng đạt tới đỉnh điểm của nó vào đầu thế kỉ 13 dưới triều đại Giáo hoàng Innocent III (tại vị 1198-1216). Các cuộc Thập tự chinh phương Bắc và sự xâm nhập của các vương quốc và quân đội Ki-tô vào các vùng trước đây theo đa thần ở miền Baltic và đông bắc Phần Lan đã dẫn tới sự cưỡng bức đồng hóa nhiều sắc dân bản địa vào văn hóa châu Âu.

Trong thời kì đầu Trung Kỳ Trung Đại, triều đại Ottonen cai trị Đức nỗ lực tìm cách kiểm soát các vị công tước hùng mạnh nắm quyền ở các công quốc có nguồn gốc từ thời kỳ Di cư. Năm 1024, họ bị thay thế bởi triều đại Salien, nổi tiếng về xung đột với giáo hoàng dưới thời Hoàng đế Heinrich (cai trị 1084-1105) trên quyền bổ nhiệm giáo chức, trong một cuộc tranh chấp kéo dài thường gọi là Tranh cãi Tấn phong. Những hậu duệ của Heinrich IV tiếp tục xung đột với giáo hoàng cũng như giới quý tộc trong nước. Một giai đoạn bất ổn diễn ra sau cái chết của Hoàng đế Heinrich V người không để lại người thừa kế nào, cho đến khi Friedrich Barbarossa (cai trị 1155-1190) nắm được ngai vàng. Mặc dù ông cai trị đất nước một cách hiệu quả, các vấn đề cơ bản vẫn còn đó, và những vị vua sau ông vật lộn để giữ quyền lực cho tới thế kỉ 13. Cháu nội của Barbarossa là Friedrich II (cai trị 1220-1250), người cũng được thừa kế ngai vàng Sicilia thông qua mẹ mình, liên tục đụng độ với giáo hoàng. Triều đình của ông nổi tiếng nhờ những học giả mà ông vời tới và bản thân ông thường bị cáo buộc là dị giáo. Cùng lúc ông và những người kế vị chịu rất nhiều khó khăn, bao gồm sự xâm lược của người Mông Cổ vào châu Âu từ giữa thế kỉ 13. Người Mông Cổ đầu tiên tiêu diệt các công quốc Kievan Rus' và sau đó xâm lược Đông Âu vào những năm 1241, 1259, 1287.

Dưới triều đại cai trị của Nhà Capétien nước Pháp chậm chạp mở rộng quyền lực trung ương tới giới quý tộc, vươn ra khỏi Île-de-France để kiểm soát ngày càng nhiều phần vương quốc vào thế kỉ 11 và 12. Họ đối mặt

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
nhỏ|Lăng mộ năm 1342 của [[Katarina Vilioni, thành viên của một gia đình thương gia người Ý ở Dương Châu]] Dựa trên bằng chứng văn bản và khảo cổ học, người ta tin rằng hàng
thumb|upright=1.5|_Thánh Giá Mathilde_, cây thánh giá nạm ngọc của Mathilde, Tu viện trưởng Essen (973-1011), bộc lộ nhiều đặc trưng trong nghệ thuật tạo hình Trung Cổ. **Thời kỳ Trung Cổ** (; hay còn gọi
Các chiến binh Công giáo chiếm đóng Jerusalem trong cuộc Thập tự chinh thứ nhất. **Giai đoạn giữa Trung Cổ** là một thời kỳ lịch sử ở châu Âu kéo dài trong ba thế kỷ
nhỏ|Trận Poitiers qua bức họa "Bataille de Poitiers en Octobre 732" của [[Charles de Steuben]] **Sơ kỳ Trung cổ** là một thời kỳ lịch sử của châu Âu kéo dài từ năm 600 tới khoảng
phải|Sự sụp đổ của Constantinopolis, Trong hình là [[Mehmed II đang dẫn quân tiến vào thành. Tranh của Fausto Zonaro.]] **Hậu kỳ Trung Cổ** hay **Giai đoạn cuối Trung Cổ** (tiếng Anh: _Late Middle Ages_)
**Âm nhạc thời Trung cổ** là những tác phẩm âm nhạc phương Tây được viết vào thời kỳ Trung cổ (khoảng 500–1400). Thời kỳ này bắt đầu với sự sụp đổ của Đế chế La
thumb|Nông nghiệp thời Trung Cổ **Nông nghiệp thời Trung cổ** (476 - 1500) thể hiện các tập quán canh tác, cây trồng, công nghệ, xã hội và kinh tế nông nghiệp của châu Âu từ
right|thumb|[[Phân tầng xã hội truyền thống của những nước phương tây trong thế kỷ XV]] right|thumb **Giáo hội và nhà nước ở châu Âu thời trung cổ** nêu rõ sự tách biệt nguyên tắc phân
Phân lớp **Côn trùng có cánh** (danh pháp khoa học: **_Pterygota_**) là một phân lớp trong lớp côn trùng và bao gồm các loài côn trùng có cánh. Nó cũng bao gồm các bộ côn
**Thời kỳ ấm Trung cổ** là một giai đoạn khí hậu ấm lên ở vùng Bắc Đại Tây Dương và có thể có mối liên hệ với các sự kiện khí hậu khác trên thế
nhỏ|302x302px| Triết học đứng giữa bảy [[Giáo dục các môn khai phóng|môn học khai phóng; hình ảnh từ _Hortus deliciarum_ của Herrad von Landsberg (thế kỷ 12). ]] **Triết học thời Trung cổ** là triết
Thời kỳ này của lịch sử Ba Lan kéo dài khoảng một thiên niên kỷ, từ thế kỷ thứ 5 đến thế kỷ thứ 16. Thường được ghi nhận từ ngày đế quốc Tây La
nhỏ|[[Lâu đài Bodiam, xây dựng vào thế kỷ 14 ở Anh]] nhỏ|[[Lâu đài Malbork, xây dựng vào thế kỷ 12-13 tại Ba Lan]] **Kiến trúc thời Trung Cổ** là kiến ​​trúc phổ biến ở thời
nhỏ|Nhiều loài thực vật trong họ Asteraceae thu hút côn trùng có ích. **Côn trùng có ích** (đôi khi được gọi là **bọ có lợi**) là bất kỳ loài côn trùng nào thực hiện các
nhỏ|phải|Trùng đế giày **Trùng cỏ** (Danh pháp khoa học: **_Infusoria_**) là tên gọi chỉ chung về những sinh vật nguyên sinh hiện diện ở hầu hết các vực nước như ao, hồ, sông và biển.
**Tiếng Hán trung cổ** () là một dạng tiếng Trung Quốc trong lịch sử, được dùng trong cuốn _Thiết Vận_, một từ điển vần (vận thư) phát hành lần đầu tiên năm 601 với nhiều
**Nam Bắc triều** (, 420-589) là một giai đoạn trong lịch sử Trung Quốc, bắt đầu từ năm 420 khi Lưu Dụ soán Đông Tấn mà lập nên Lưu Tống, kéo dài đến năm 589
**Cuộc xâm lược châu Âu của người Mông Cổ** vào thế kỷ 13 là một loạt các cuộc chiến nhằm chinh phục mảnh đất này của người Mông Cổ, bằng con đường tiêu diệt các
Bài viết này cung cấp một cái nhìn sơ lược về lịch sử nước Đức vào thời Trung cổ, tức trong khoảng thời gian từ thế kỷ IX đến thế kỷ XV. Giai đoạn này
**Nhiễm trùng cơ hội** (**opportunistic infection**) là nhiễm trùng do vi khuẩn, virus, nấm hoặc ký sinh trùng gây bệnh gây nên khi hệ thống miễn dịch của cơ thể vật chủ bị suy yếu
**Tiếng Anh trung đại** (Middle English, viết tắt **ME**) là dạng tiếng Anh nói trong khoảng thời gian từ cuộc xâm lược của người Norman (1066) cho đến cuối thế kỷ XV. Tiếng Anh trải
Vợt trụng kèm muỗng, vợt trụng mỳ, vá trụng có kèm muỗng
là một giai đoạn của tiếng Nhật được dùng từ năm 794 đến 1185, tức là vào Thời kỳ Heian. Nó là hậu duệ của tiếng Nhật cổ (). ## Bối cảnh Trong khi tiếng
**Thị trấn trung cổ Toruń** () là khu vực lịch sử lâu đời nhất của thành phố Toruń. Đây là một trong những Di sản Thế giới của Ba Lan được công nhận vào năm
[Phiên bản 2021] son herorange set son 3 cây lâu trôi có dưỡng chính hãng Inuka, son nội địa trung lên màu chuẩn, mỹ phẩm nội địa trung có thể thay thế son blackrouge, son
[Phiên bản 2021] son herorange set son 3 cây lâu trôi có dưỡng chính hãng Inuka, son nội địa trung lên màu chuẩn, mỹ phẩm nội địa trung có thể thay thế son blackrouge, son
[Phiên bản 2021] son herorange set son 3 cây lâu trôi có dưỡng chính hãng Inuka, son nội địa trung lên màu chuẩn, mỹ phẩm nội địa trung có thể thay thế son blackrouge, son
[Phiên bản 2021] son herorange set son 3 cây lâu trôi có dưỡng chính hãng Inuka, son nội địa trung lên màu chuẩn, mỹ phẩm nội địa trung có thể thay thế son blackrouge, son
CHAI X.ị.T KHỬ TRÙNG CƠ THỂ - Bảo vệ kháng khuẩn 24H Chiết xuất từ Tinh dầu gừng, sả chanh, tỏi, tràm trà.... Cách sử dụng: Rất đơn giản, chỉ cần mở nắp chai và
Vì Sao Như Thế Nào - Thời Trung Cổ Vì sao mỗi lâu đài có một khu vườn bí mật Trở thành hiệp sĩ như thế nào Vì sao đường phố thời Trung cổ thường
Vì Sao Như Thế Nào - Thời Trung Cổ Vì sao mỗi lâu đài có một khu vườn bí mật Trở thành hiệp sĩ như thế nào Vì sao đường phố thời Trung cổ thường
là một giai đoạn của Tiếng Nhật Bản sau Tiếng Nhật trung cổ và trước tiếng Nhật cận đại. Đó là một giai đoạn chuyển tiếp mà ngôn ngữ thể hiện nhiều đặc điểm cổ
- HETIS Adhesive Foam là gạc xốp vô trùng có băng keo, dày 4 - 5 mm, cấu tạo 2 lớp:Lớp trên cùng là lớp màng PU (polyurethane film, được phủ keo acrylic) với kích
- HETIS Adhesive Foam là gạc xốp vô trùng có băng keo, dày 4 - 5 mm, cấu tạo 2 lớp:Lớp trên cùng là lớp màng PU (polyurethane film, được phủ keo acrylic) với kích
[MUA 5 TẶNG 1] Hộp Đựng Mút Trang Điểm Tán Kem Nền Hình Quả Bầu Quả Trứng Có Móc Thoáng Khí Cute Dễ Thương Tiện Dụng * CHẤT LIỆU: nhựa PP cao cấp, an toàn
[MUA 5 TẶNG 1] Hộp Đựng Mút Trang Điểm Tán Kem Nền Hình Quả Bầu Quả Trứng Có Móc Thoáng Khí Cute Dễ Thương Tiện Dụng * CHẤT LIỆU: nhựa PP cao cấp, an toàn
MÔ TẢ SẢN PHẨMCHAI XỊT KHỬ TRÙNG CƠ THỂ - Bảo vệ kháng khuẩn 24H Chiết xuất từ Tinh dầu gừng, sả chanh, tỏi, tràm trà....Cách sử dụng:Rất đơn giản, chỉ cần mở nắp chai
[MUA 5 TẶNG 1] Hộp Đựng Mút Trang Điểm Tán Kem Nền Hình Quả Bầu Quả Trứng Có Móc Thoáng Khí Cute Dễ Thương Tiện Dụng * CHẤT LIỆU: nhựa PP cao cấp, an toàn
CHAI XỊT KHỬ TRÙNG CƠ THỂ - Bảo vệ kháng khuẩn 24H Chiết xuất từ Tinh dầu gừng, sả chanh, tỏi, tràm trà....Cách sử dụng:Rất đơn giản, chỉ cần mở nắp chai và xịt vào
[MUA 5 TẶNG 1] Hộp Đựng Mút Trang Điểm Tán Kem Nền Hình Quả Bầu Quả Trứng Có Móc Thoáng Khí Cute Dễ Thương Tiện Dụng * CHẤT LIỆU: nhựa PP cao cấp, an toàn
Thời kỳ Trung cổ được biết đến như một thời kỳ bạo lực, tăm tối và đầy ghê sợ được kể lại bằng giọng văn vui đùa dí dỏm và hình vẽ vui nhộn trong
**Các đài kỉ niệm thời Trung Cổ ở Kosovo** (; ) là một Di sản thế giới được UNESCO công nhận bao gồm bốn nhà thờ và tu viện Chính thống Serbia đại diện cho
**Tiếng Thụy Điển cổ** (tiếng Thụy Điển hiện đại: _fornsvenska_) là tên chung của 2 phiên bản tiếng Thụy Điển được nói vào khoảng thời Trung Cổ: tiến Thụy Điển sớm (_klassisk fornsvenska_), được nói
Set 4 bông mút tán trang điểm hình trứng có thể sử dụng khô và ướt tiện dụng MIN178 Màu sắc: loạt màu hồng, loạt màu tím, loạt màu xanh lá cây, loạt màu vàng
MÔ TẢ SẢN PHẨMÁo bầu kẻ XUÂN HÈ dáng babydoll trẻ trung, có nơ bụng, chất cotton cho mẹ bầu đi làm đi chơi freesize 45-g ☆ Thiết kế kiểu dáng babydoll dễ mặc và
**Tiếng Anh cổ** () hay **tiếng Anglo-Saxon** là dạng cổ nhất của tiếng Anh, từng được nói tại Anh, nam và đông Scotland vào thời sơ kỳ Trung Cổ. Nó được mang đến đảo Anh
**Tiếng Na Uy cổ** (Tiếng Na Uy: _gammelnorsk_, _gam(m)alnorsk_), còn được gọi là **tiếng Na Uy Bắc Âu** là một dạng của Tiếng Na Uy từng được nói vào giữa thế kỉ 11 và 14,
**Thành cổ Baku** hay **Nội thành Baku** () là vùng lõi lịch sử của Baku, thủ đô của Azerbaijan. Đây là phần cổ kính nhất của Baku, được bao quanh bởi những bức tường dễ
thumb|right|Một trang từ _[[Cuốn sách Súc tích về Tính toán bởi Hoàn thiên và Cân bằng_ của Al-Khwarizmi]] Toán học trong thời đại hoàng kim của Hồi giáo, đặc biệt là trong thế kỷ 9
#SatSunÁo thun dài tay nữ form rộng màu sắc trẻ trung có size* Full size M, L, XLM: Dài 68, Ngực 104, Vai 50, dài cánh tay 55cm (40kg~52kg)L: Dài 70, Ngực 108, Vai 51,