✨Nước Đức thời Trung cổ

Nước Đức thời Trung cổ

Bài viết này cung cấp một cái nhìn sơ lược về lịch sử nước Đức vào thời Trung cổ, tức trong khoảng thời gian từ thế kỷ IX đến thế kỷ XV. Giai đoạn này có thể được chia làm 3 phần:

  • Tiền kỳ Trung cổ
  • Trung kỳ Trung cổ
  • Hậu kỳ Trung cổ

=Từ vương quốc Frank đến đế quốc La Mã thần thánh=

Triều đại Karoling

Con trai của Karl đại đế, Ludwig ngoan đạo, vẫn có thể giữ được sự thống nhất của đế quốc Frank. Ông chỉ định con trai đầu của ông, Lothar I, làm người nối ngôi. Các em của Lothar, Ludwig Người Đức và Charles Hói, chỉ được một phần vương quốc ở phía Tây và phía Đông dưới quyền tối cao người anh cả. Họ liên minh với nhau để chống lại Lothar và đánh bại ông trong trận Fontenoy. Liên minh này được xác nhận vào năm 842 trong lời thề Straßburg.

Năm 843, đế quốc Frank bị chia thành các vương quốc Đông Frank, Tây Frank và Trung Frank theo hiệp ước Verdun. Lothar lãnh vương quốc Frank Trung với Italy và tước vị hoàng đế. Tuy nhiên tước vị này không còn có quyền lực đối với các vương quốc khác nữa. Karl Hói lãnh phần phía tây và Ludwig Đức lãnh phần phía đông. Theo hiệp ước Mersen năm 870 và hiệp ước Ribemont năm 880, vương quốc Frank Trung lại bị chia ra bởi Karl Hói và Ludwig Đức.

Vua Karl Béo của Frank Đông lấy được tước vị hoàng đế vào năm 881 và có thể hợp nhất lại đế quốc Frank trong một thời gian ngắn đến năm 887. Ludwig Trẻ Con mất năm 911 là hoàng đế cuối cùng của dòng dõi Karolinger.

Triều đại Otto (Liudolfing)

Sự phân chia các vương quốc dẫn đến việc chế độ quân chủ bị xuống dốc ở vương quốc Frank Đông. Một vài gia đình quý tộc đã trở thành công tước trong các bộ tộc cũ. Sau cái chết của Ludwig Trẻ con, hoàng đế cuối cùng thuộc dòng họ Karoling, các công tước này đã chọn công tước người Frank Konrad I thay vì chọn người dòng dõi Karoling ở Frank Tây làm vua. Việc làm này đã đặt vương quốc lên một nền tảng mới và quyền bầu cử xuất hiện, nhưng chỉ dành cho giới công tước.

Tiếp theo Konrad I là công tước Heinrich I thuộc dòng họ Liudolfing (hay Otto). Heinrich I đã thành công trong việc củng cố sức mạnh vương quốc Frank Đông và chống lại việc xâm lấm của các bộ tộc người Hung và người Slav. Tính đồng nhất của các tộc người ở đây cũng được cũng cố thông qua một thứ tiếng Đức chung, thứ tiếng đã bị nói theo nhiều phương ngữ khác nhau.

Đại đế Otto I

Heinrich I chỉ định con trai mình là Otto I làm người thừa kế. Do đó các công tước đã chống lại Otto. Ông đã dựa vào nhà thờ để đảm bảo quyền lực của mình. Cái gọi là hệ thống nhà thờ vương quốc (das Reichskirchensystem) có ưu điểm là các tu sĩ không thể truyền cho con cháu được vì họ phải sống độc thân. Về phía bên ngoài, Otto I cũng đã bảo vệ được vương quốc của mình. Năm 995, ông đánh thắng Hungary ở trận quyết định ở Lechfeld.

Để bảo vệ vương quốc khỏi người Slav, ông đã thiết lập các vùng biên giới. Các vùng này không chỉ để giữ an ninh mà còn để truyền giáo cho người Slav. Trên khu vực mà ngày nay gọi là các bang mới, nhiều giáo khu được lập ra.

Năm 950, Böhmen bị chinh phục. Đến năm 963, Ba Lan phải thừa nhận quyền tối cao của đế quốc Đức. Trong ba chiến dịch tại Ý, Otto đã mở rộng lãnh thổ của mình đến miền Bắc và miền Trung nước Ý. Ông đã chiến thắng vua xứ Langobard Berengar II và kết hôn với Adelheid von Burgund, người đang bị giam bởi Berengar II. Sau đó, Otto tự xưng là vua xứ Langobard.

Vào chiến dịch Ý lần thứ hai, ông đã được lên ngôi hoàng đế vào năm 962. Đổi lại hoàng đế phải bảo vệ nhà nước của giáo hoàng. Sau khi tuyên bố lãnh thổ ở Nam Ý, Otto Đại đế lao vào cuộc chiến với hoàng đế Đông La Mã. Con của ông, Otto II, cuối cùng kết hôn với Theophanu, cháu gái hoàng đế Đông La Mã. Nhưng Nam Ý vẫn thuộc về Đế quốc Đông La Mã.

nhỏ|Otto III

Kết thúc Triều đại Otto

Năm 982, Otto II bị thất trận nặng nề trước người Ả Rập. Sau đó nhiều phần đất phía đông sông Elbe bị mất bởi cuộc nổi dậy của người Slav. Sau khi ông chết, vợ và mẹ ông đã nhiếp chính thay cho người con chưa đủ tuổi của ông, Otto III.

Cố gắng di chuyển quyền lực về Rom, phục hồi Đế chế La Mã của Otto III cuối cùng không thành công vì nhiều vấn đề ở Ý và với người La Mã. Nhưng ông đã thiết lập được chính sách phía Đông của dòng họ Otto.

Vị vua cuối cùng của dòng họ Otto, Heinrich II, không thể chống cự được với Ba Lan và Hungary. Dưới thời ông, hệ thống nhà thờ đế quốc tiếp tục được mở rộng. Để chống lại sự hoàn tục hóa nhà thờ, tu viện Cluny đã khởi đầu cho phong trào cải cách tu viện.

=Trung kỳ trung cổ= nhỏ|Heinrich III

Các hoàng đế Sali

Konrad II và Heinrich III

Năm 1024, các hầu người Đức đã chọn Konrad II thuộc dòng họ Sali làm vua. Năm 1032, ông tiếp quản vương quốc Burgund. Đế chế trung cổ lúc này đã đạt đến đỉnh cao quyền lực. Konrad II cũng như con ông, Heinrich III, ủng hộ việc cải cách nhà thờ.

Heinrich III can thiệp vào đặc quyền của Giáo hoàng ở Rom. Tại hội nghị tôn giáo Sutri năm 1046, ông đã phế truất Giáo hoàng và sau đó ông cũng cấm việc buôn bán thần thánh. Lễ phong chức cho Giám mục và cha trưởng tu viện được ông thực hiện để thể hiện quyền lực của mình. Ông đã đạt được quyền lực phong kiến đối với Böhmen, Ba Lan và Hungary.

Tranh chấp quyền phong chức

nhỏ|Heinrich IV

Dưới thời của Heinrich IV, việc tranh chấp quyền phong chức (der Investiturstreit) càng ngày càng leo thang. Năm 1073, Gregor VII, một nhà cải cách cực đoan, đã trở thành Giáo hoàng mà không có sự đồng ý của các hồng y. Heinrich IV đã lờ đi việc cấm phong chức cho người trần. Do đó Giáo hoàng đã phạt ông bằng cách rút phép thông công, nghĩa là ông đã đuổi vua khỏi cộng đồng tín đồ.

Các hầu tước Đức đã liên minh với nhau chống lại vua và đe dọa sẽ phế truất ông. Để tránh điều này, Heinrich IV đã thực hiện cuộc đi bộ đến Canossa năm 1077 để giải vạ thông công.

Sau đó liên minh giữa Giáo hoàng và các hầu tước Đức đã chọn Rudolf vùng Schwab làm người chống lại hoàng đế. Bằng cách chiến thắng Rudolf, Heinrich đã có thể kéo các hầu tước đứng về phía mình. Ông đã được lên ngôi hoàng đế năm 1084 và phế truất Giáo hoàng Gregor VII.

Con ông Heinrich V cuối cùng đã liên minh với các hầu tước chống lại cha mình và đã phế truất được hoàng đế vào năm 1105. Dưới thời Heinrich V, ông đã thỏa hiệp với nhà thờ với giáo ước Worms năm 1122. Kết quả của cuộc tranh chấp quyền phong tước này là vị trí của nhà thờ và hầu tước đã được nâng lên hơn so với vua.

Kết thúc Triều đại Sali

Khi Heinrich V, vị vua cuối cùng của dòng họ Sali, chết năm 1125, các hầu tước đã chọn công tước yếu đuối người Sachsen Lothar III ở Supplinburg làm vua. Do đó các hầu tước lại được thực hiện quyền chọn lựa truyền thống của mình. Việc dòng họ Welf đầy quyền lực đã ủng hộ Lothar III chống lại công tước xứ Schwab, Friedrich dòng họ Stauf, đã dẫn đến một cuộc tranh chấp giữa dòng họ Welf và Stauf trong suốt thế kỷ XII.

nhỏ|Konrad III

Triều đại Stauf

Konrad III

Một số hầu tước không đồng ý với sự chọn lựa của Lothar III đã quyết định ủng hộ Konrad III nhà Stauf, người đến năm 1135 trở thành người chống nhà vua. Sau khi Lothar chết năm 1138, Konrad III cuối cùng đã trở thành vua.

Konrad III không thừa nhận tước vị công tước xứ Bayern và Sachsen của Heinrich Kiêu hãnh dòng họ Welf, nhưng người thuộc dòng họ Askanie được thay làm công tước Sachsen không giữ được nơi này, do đó con của Heinrich Kiêu hãnh, Heinrich Sư tử, đã giành lại được chức công tước xứ Sachsen. Ở Bayern cũng có đấu tranh. Sau cuộc Thập tự chinh lần hai, Konrad đã đi sâu hơn vào chính sách đối ngoại châu Âu.Cháu ông, Friedrich I dòng họ Stauf, đã kế vị ông.

Friedrich I Barbarossa

nhỏ|Friedrich I

Friedrich I đã đấu tranh cho sự thỏa hiệp để em họ ông, Heinrich Sư tử dòng họ Welf, có được tước vị công tước một phần xứ Bayern ở Áo.Trong hiệp ước Konstanz năm 1153, một thỏa hiệp với Giáo hoàng được đưa ra. Friedrich được phong làm hoàng đế. Ông ta đã thắng các thành phố đòi tự chủ xứ Lombardei. Sau một cuộc nổi loạn, ông đã phá hủy hoàn toàn thành phố Mailand năm 1162.

Khi Alexander III trở thành Giáo hoàng chứ không phải là Viktor IV, người được Friedrich yêu thích, khởi đầu một cuộc chiến giành quyền bá chủ giữa hoàng đế và Giáo hoàng. Alexander đã rút phép thông công Friedrich. Sau đó ở hội nghị tôn giáo Pavia của một ủy ban ủng hộ hoàng đế, Viktor đã được công nhận làm Giáo hoàng hợp pháp.

Friedich I tiếp tục thực hiện chiến dịch Ý lần thứ tư năm 1166 để chọn Viktor bằng biện pháp quân sự. Năm 1167, quân đội hoàng đế đã chiếm được Rom, nhưng sau đó phải rời thành phố vì dịch sốt rét. Các thành phố phía bắc nước Ý do đó phải liên kết với nhau thành liên minh Lombard và cùng liên minh với Alexander III.

Trước chiến dịch Ý lần thứ năm của Friedrich, nhiều hầu tước đã từ chối cung cấp vũ khí cho ông. Năm 1176, Friedrich I bị thất bại trước Legnano xứ Mailand. Do đó ông phải thừa nhận Giáo hoàng Alexander III trong hiệp ước hòa bình Venedig. Đổi lại ông sẽ được giải vạ thông công.

nhỏ|Heinrich VI ([[Codex Manesse, năm 1300)]]

Năm 1180, Friedrich I đã khai trừ Heinrich Sư tử, một người có quyền lực đang lên và không còn ủng hộ chính sách Ý của hoàng đế nữa. Hoàng đế còn rút tước vị công tước của Heinrich cũng như quyền của ông ở Mecklenburg và Pommern. Công tước xứ Bayern được ban cho nhà Wittelsbach (chia Sachsen).

Năm 1183, Friedrich ký kết hòa ước với liên minh Lombard. Sau khi mạnh hơn, ông đã có thể trao ngôi vua cho con trai của ông, Heinrich, với vương miện xứ Lombardei năm 1186. Từ năm 1187 Friedrich I đã lãnh đạo phong trào thập tự chinh. Ông mất năm 1190 trong khi đang chiến đấu trong cuộc thập tự chinh lần ba tại Kleinarmenien.

Heinrich VI. và cuộc chiến giành ngai vàng

Con của Friedrich, Heinrich VI, đã trở thành vua xứ Sizilien năm 1194 nhờ vào cuộc kết hôn với công chúa người Norman xứ Konstanz. Do đó đế quốc đã đạt được sự bành trướng lớn nhất. Heinrich cũng thực hiện chính sách Địa Trung Hải đầy hoài bão. Cố gắng của ông nhằm xây dựng đế chế thành một nền quân chủ cha truyền con nối đã thất bại. Sau khi Heinrich VI chết năm 1197 do dịch bệnh, hai người Staufer Philipp xứ Schwab và Otto IV nhà Welf đều được chọn.

Giáo hoàng Innozenz III ủng hộ Otto, do đó Philipp tiếp tục cách ly dần dần. Sau khi Philipp bị ám sát năm 1208, Otto IV cuối cùng được làm vua. Sau khi công bố chủ quyền đảo Sizilien, ông bị rút phép thông công năm 1210. Giáo hoàng quay sang ủng hộ Friedrich II nhà Stauf. Cuộc cạnh tranh sau đó giữa nhà Welf và nhà Stauf năm 1214 được quyết định bởi trận đánh tại Bouvine với ưu thế dành cho Friedrich II.

Friedrich II. và kết thúc Triều đại Stauf

nhỏ|Friedrich II

Friedrich II quản lý vương quốc của ông, quê hương Sizilien, và phớt lờ tình hình ở đế quốc. Ông chọn con ông Heinrich làm vua năm 1220. Ông để quyền quản lý đế quốc cho bạn thân của ông, người giám hộ cho Heinrich. Friedrich đến Đức chỉ một lần, khi ông phế truất con trai Heinrich năm 1235 và chọn người em Konrad IV lên thay.

Năm 1213, Giáo hoàng tước bỏ quyền chọn Giám mục và cha nhà thờ của nhà vua mới 18 tuổi trong Goldbulle von Eger. Friedrich lên ngôi hoàng đế năm 1220 và hưởng thụ sự bình yên của vương quốc Sizilien.

Khi Friedrich II cố gắng bành trướng quyền lực của mình sang các thành phố xứ Lombardei, cuộc tranh giành quyền lực với Giáo hoàng Gregor IX đã diễn ra. Do lời hứa không tiếp tục cuộc thập tự chinh ngay lập tức, Giáo hoàng đã rút phép thông công hoàng đế năm 1227. Tuy nhiên Friedrich tiếp tục tiến vào vùng đất thần thánh và có được sự đầu hàng không đổ máu của Jerusalem.

=Hậu kỳ trung cổ=

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
Bài viết này cung cấp một cái nhìn sơ lược về lịch sử nước Đức vào thời Trung cổ, tức trong khoảng thời gian từ thế kỷ IX đến thế kỷ XV. Giai đoạn này
right|thumb|[[Phân tầng xã hội truyền thống của những nước phương tây trong thế kỷ XV]] right|thumb **Giáo hội và nhà nước ở châu Âu thời trung cổ** nêu rõ sự tách biệt nguyên tắc phân
nhỏ|Trận Poitiers qua bức họa "Bataille de Poitiers en Octobre 732" của [[Charles de Steuben]] **Sơ kỳ Trung cổ** là một thời kỳ lịch sử của châu Âu kéo dài từ năm 600 tới khoảng
nhỏ|Lăng mộ năm 1342 của [[Katarina Vilioni, thành viên của một gia đình thương gia người Ý ở Dương Châu]] Dựa trên bằng chứng văn bản và khảo cổ học, người ta tin rằng hàng
thumb|upright=1.5|_Thánh Giá Mathilde_, cây thánh giá nạm ngọc của Mathilde, Tu viện trưởng Essen (973-1011), bộc lộ nhiều đặc trưng trong nghệ thuật tạo hình Trung Cổ. **Thời kỳ Trung Cổ** (; hay còn gọi
Các chiến binh Công giáo chiếm đóng Jerusalem trong cuộc Thập tự chinh thứ nhất. **Giai đoạn giữa Trung Cổ** là một thời kỳ lịch sử ở châu Âu kéo dài trong ba thế kỷ
phải|Sự sụp đổ của Constantinopolis, Trong hình là [[Mehmed II đang dẫn quân tiến vào thành. Tranh của Fausto Zonaro.]] **Hậu kỳ Trung Cổ** hay **Giai đoạn cuối Trung Cổ** (tiếng Anh: _Late Middle Ages_)
**Âm nhạc thời Trung cổ** là những tác phẩm âm nhạc phương Tây được viết vào thời kỳ Trung cổ (khoảng 500–1400). Thời kỳ này bắt đầu với sự sụp đổ của Đế chế La
Thời kỳ này của lịch sử Ba Lan kéo dài khoảng một thiên niên kỷ, từ thế kỷ thứ 5 đến thế kỷ thứ 16. Thường được ghi nhận từ ngày đế quốc Tây La
**Wilhelm I** (tên đầy đủ: _Wilhelm Friedrich Ludwig_; 22 tháng 3 năm 1797 – 9 tháng 3 năm 1888), là quốc vương Phổ từ ngày 2 tháng 1 năm 1861, chủ tịch Liên bang Bắc
**Mối thù Pháp – Đức** (; ) có mầm mống từ thời trung cổ khi hoàng đế Charlemagne của Đế quốc Frank (cũng là người khai quốc của cả Đức lẫn Pháp) phân chia quốc
nhỏ **Lịch sử giáo dục ở Trung Quốc** bắt đầu từ khi nền văn minh Trung Hoa ra đời. Giới quý tộc thường lập ra các cơ sở giáo dục dành riêng cho con cháu
Trong hệ thống giáo dục Trung Quốc, giáo dục chủ yếu được quản lý bởi hệ thống giáo dục công lập do nhà nước điều hành, nằm dưới sự quản lý của Bộ Giáo dục.
nhỏ|phải|alt=Political map of central Europe showing the 26 areas that became part of the united German Empire in 1891. Germany based in the northeast, dominates in size, occupying about 40% of the new empire.|Bản đồ
Đa phần mọi người thường mắc phải nhầm lẫn khi dùng từ “Deutsch” để chỉ về nước Đức. Nhưng Deutsch có nghĩa là tiếng Đức hay một sự vật, sự kiện liên quan đến nước
## Triều đại Mérovingiens (500-751) Ở xứ Gaul, sự đồng hóa giữa xã hội La Mã và Đức xảy ra nhanh chóng. Năm 486, Clovis, một người Salian thuộc tộc Frank được cho là có
**Cuộc xâm lược châu Âu của người Mông Cổ** vào thế kỷ 13 là một loạt các cuộc chiến nhằm chinh phục mảnh đất này của người Mông Cổ, bằng con đường tiêu diệt các
**Công quốc Bayern** (tiếng Đức: _Herzogtum Bayern_; tiếng Latinh: _Ducatus Bavariae_) là một công quốc Đức trong Đế chế La Mã thần thánh. Hình thành từ vùng lãnh thổ định cư của các bộ tộc
**Tiếng Thụy Điển cổ** (tiếng Thụy Điển hiện đại: _fornsvenska_) là tên chung của 2 phiên bản tiếng Thụy Điển được nói vào khoảng thời Trung Cổ: tiến Thụy Điển sớm (_klassisk fornsvenska_), được nói
thumb|Huy hiệu của [[Joseph II của Thánh chế La Mã|Joseph II, vị _Quốc vương của người La Mã_ cuối cùng được biết đến.]] **Vua của người La Mã** (), hay **Vua La Mã Đức** (),
Trong các ván cờ vua có tính thời gian, **áp lực thời gian** (hoặc _time trouble_ trong tiếng Anh, _zeitnot_ trong tiếng Đức) là tình huống mà một kỳ thủ có quá ít thời gian
phải|Bản đồ vương quốc dưới thời [[Otto Đại đế năm 972 (màu xanh đậm), và phần lãnh thổ mở rộng đến thời Conrad the Salian.]] **Vương quốc Đức** (tiếng Latin: _Regnum Teutonicum_) là một cựu
Câu hỏi thành phố nào là **thành phố cổ nhất nước Đức**, cho tới bây giờ vẫn chưa được trả lời dứt khoát. Một phần là người ở mỗi địa phương thường có quan điểm
**Chính phủ lâm thời Trung Hoa Dân quốc** là chính phủ lâm thời của Trung Quốc được bảo hộ bởi Nhật Bản đã tồn tại giữa 1937 đến 1940 trong Chiến tranh Trung-Nhật lần thứ
**_Conqueror A.D. 1086_** là một trò chơi máy tính thuộc thể loại chiến lược lấy bối cảnh thời Trung Cổ do hãng Software Sorcery phát triển và Sierra On-Line phát hành vào năm 1995. ##
Từ thời kỳ cổ đại, **Đức** (lúc đó được người La Mã gọi là vùng đất Germania) đã có các bộ lạc người German (tổ tiên trực tiếp của người Đức) chính thức cư ngụ
**Giáo dục Việt Nam** dưới chính thể Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (từ 1976 đến nay) là một sự tiếp nối của giáo dục thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Khi
**Cộng hòa Dân chủ Đức** (**CHDC Đức** hay **CHDCĐ**; - **DDR**), thường được gọi là **Đông Đức** dựa trên việc nước này quản lý phần lãnh thổ phía Đông của Đức (để phân biệt với
Trang cuối văn bản Hiệp ước không xâm phạm Đức – Xô ngày 26 tháng 8 năm 1939 (chụp bản xuất bản công khai năm 1946) **Hiệp ước Xô – Đức**, còn được gọi là
**Đức hóa** () là quá trình truyền bá ngôn ngữ, con người và văn hóa Đức, hay các chính sách khởi đầu cho những thay đổi này. Vấn đề này từng là nguyên tắc chủ
thumb|Nguyên bản của [[Quốc kì Đức: Cổ vũ cho cuộc cách mạng ở Berlin, ngày 19 tháng 3, 1848]] **Cách mạng 1848 – 1849** tại các bang nói tiếng Đức, giai đoạn mở đầu còn
**Nam Bắc triều** (, 420-589) là một giai đoạn trong lịch sử Trung Quốc, bắt đầu từ năm 420 khi Lưu Dụ soán Đông Tấn mà lập nên Lưu Tống, kéo dài đến năm 589
**Quốc kỳ Đức** () gồm ba dải ngang bằng hiển thị các màu quốc gia của Đức: đen, đỏ, vàng. Thiết kế này được thông qua làm quốc kỳ của nước Đức hiện đại vào
nhỏ|Bức Tranh _Die Tafelrunde_ của họa sĩ [[Adolph von Menzel. Bữa ăn của Voltaire, cùng vua Phổ Friedrich II Đại Đế và các viện sĩ Viện Hàn lâm Khoa học Berlin.]] **Phong trào Khai sáng**,
**Cấu trúc Đảng Quốc xã Đức** (NSDAP) mang tính chất trung ương tập quyền và có hệ thống phân cấp chặt chẽ. Trong vai trò là đảng quần chúng và lãnh đạo, Đảng Công nhân
thumb|Bản đồ [[Đế chế La Mã Thần thánh năm 1789]] thumb|[[Bang liên Đức sau năm 1815, kết quả của hòa giải Đức trong Chiến tranh Napoléon]] **Hòa giải Đức** (; ) là quá trình tái
right|thumb|Trang thứ ba và trang cuối cùng của văn bản [[đầu hàng vô điều kiện được ký tại Berlin ngày 9 tháng 5 năm 1945]] **Văn kiện Đầu hàng của Đức Quốc xã** (; ;
thumb|Học sinh ngồi dưới bóng râm ở Bamozai, gần Gardez, tỉnh [[Paktya, Afghanistan.]] thumb|Việc giảng dạy trong lớp học, đưa nội dung chính trị vào tài liệu học tập hoặc giáo viên lạm dụng vai
**Lịch sử Trung Quốc** đề cập đến Trung Hoa, 1 trong 4 nền văn minh cổ nhất thế giới, bắt nguồn từ lưu vực phì nhiêu của hai con sông: Hoàng Hà (bình nguyên Hoa
**Sở** (chữ Hán: 楚國), (chữ Phạn: श्रीक्रुंग / **Srikrung**) đôi khi được gọi **Kinh Sở** (chữ Hán: 荆楚), là một chư hầu của nhà Chu tồn tại thời Xuân Thu Chiến Quốc kéo đến thời
**Tây Đức** () là tên thường dùng để gọi nhà nước **Cộng hòa Liên bang Đức** ( - **BRD**; ) trong thời kỳ tính từ khi nước này được thành lập ra vào ngày 23
upright|Một kỵ sĩ trên lưng ngựa nhỏ|phải|Một con ngựa kéo hạng nặng, có thể dùng để tải pháo **Ngựa** là động vật được sử dụng nhiều nhất trong cuộc chiến, nhất là chiến tranh thời
**Biển Đức XVI** (cách phiên âm tiếng Việt khác là _Bênêđictô XVI_ hay _Bênêđitô_, xuất phát từ Latinh: _Benedictus_; tên khai sinh là **Joseph Aloisius Ratzinger**; 16 tháng 4 năm 1927 – 31 tháng 12
**Thập tự chinh Thứ nhất** (1095 - 1099) là cuộc Thập tự chinh đầu tiên, được phát động vào năm 1095 bởi Giáo hoàng Urban II với mục đích chiếm lại những vùng đất đã
[[Jerusalem năm 1099]] **Thập Tự Chinh** (Tiếng Anh: _crusade_) là một loạt các cuộc chiến tranh tôn giáo, được kêu gọi bởi Giáo Hoàng và tiến hành bởi các vị vua và quý tộc là
**Đại dịch COVID-19 tại Đức** là một phần của đại dịch COVID-19 toàn cầu do chủng virus corona gây hội chứng hô hấp cấp tính nặng 2 (SARS-CoV-2) gây ra. Trường hợp lây nhiễm đầu
**Tần** (, Wade-Giles: _Qin_ hoặc _Ch'in_) (900 TCN-221 TCN) là một nước chư hầu thời Xuân Thu và Chiến Quốc ở Trung Quốc. Cuối cùng nó đã lớn mạnh giữ vị trí thống trị toàn
Đế kỳ [[Nhà Hohenzollern|Hohenzollern.]] **Đế quốc Đức** (tiếng Đức: _Deutsches Reich_), hay **Đế chế thứ hai** hay **Đệ nhị Đế chế** () được tuyên bố thiết lập vào ngày 18 tháng 1 năm 1871 sau
Họa phẩm của Jean-Léon Gérôme về nữ [[nô lệ da trắng thời La Mã cổ đại đang bị bày bán ở chợ nô lệ]] **Nô lệ tình dục** hay nói rộng ra là **chế độ
**Đạo đức với việc ăn thịt động vật** là chủ đề tranh cãi chưa có hồi kết về vấn đề đạo đức và việc ăn thịt động vật, và vấn đề có đạo đức hay