✨Manuel I Komnenos

Manuel I Komnenos

Manuel I Komnenos "Đại đế" (hay Comnenus) (tiếng Hy Lạp: Μανουήλ Α 'Κομνηνός, Manouēl I Komnenos; ngày 28 tháng 11 năm 1118 - 24 tháng 9 năm 1180) là một Hoàng đế Byzantine vào thế kỷ 12, người trị vì trong một bước ngoặt quan trọng trong lịch sử của Đế quốc Đông La Mã và Địa Trung Hải.

Mong muốn khôi phục lại đế chế của ông như thời kỳ vinh quang trong quá khứ của nó như từng là một siêu cường của thế giới Địa Trung Hải, Manuel theo đuổi một chính sách ngoại giao năng động và đầy tham vọng. Trong quá trình này, ông đã liên minh với Đức Giáo hoàng và phía tây đang hồi sinh, xâm lược Italia, thành công trong việc cho phép quân đội Thập tự chinh thứ hai nguy hiểm hành quân qua lãnh thổ của mình, và đặt quyền bảo hộ của Byzantine lên tiểu quốc Thập tự quân Outremer. Đối mặt với bước tiến vượt mặt của người Hồi giáo tại Đất Thánh, ông đã liên kết với Vương quốc Jerusalem và tham gia vào một cuộc xâm lược kết hợp vào Nhà Fatima ở Ai Cập. Manuel định hình lại bản đồ chính trị các nước vùng Balkan và Địa Trung Hải phía đông, đặt các vương quốc Hungary và Outremer dưới quyền bá chủ Byzantine và triển khai các chiến dịch tấn công hung hăng đối với các nước láng giềng của mình ở phía tây và ở phía đông. Tuy nhiên, vào cuối thời kỳ trị vì của ông, những thành tựu ở phía đông của Manuel đã bị tổn hại bởi một thất bại nghiêm trọng tại Myriokephalon, trong đó phần lớn nguyên nhân là do tính kiêu ngạo của ông khi tấn công một vị trí Seljuk được phòng vệ kỹ. Mặc dù đế chế Byzantine phục hồi và Manuel đã ký kết một hiệp ước hòa bình rất có lợi với Sultan Kilij Arslan II của Hồi quốc Rûm, nhưng Myriokephalon đã chứng minh rằng đây là trận đánh cuối cùng, và người Byzantine không bao giờ có thể tái chiếm vùng Anatolia từ tay người Thổ Nhĩ Kỳ.

Được người Hy Lạp xưng tụng là ho Megas (, dịch nghĩa là "Đại đế"), Manuel được biết là người đã truyền cảm hứng cho sự trung thành của những người phục vụ ông. Ông cũng xuất hiện như là một vị anh hùng cứu nhân độ thế trong lịch sử bởi những gì được viết ra trợ lý của ông, Ioannes Kinnamos, khi mà ông đều chứa đủ mọi đức hạnh. Manuel, người đã bị ảnh hưởng do sự tiếp xúc của ông với quân đội Thập tự chinh phương Tây, được hưởng danh tiếng là "vị hoàng đế có phúc nhất của Constantinopolis" trong phần thế giới Latin. Tuy vậy các sử gia hiện đại không thể hiện sự ủng hộ với ông. Một số người trong số họ khẳng định rằng sức mạnh vô địch mà ông có không phải do chính ông làm nên, nhưng nó cũng đại diện cho Triều đại của ông, họ cũng cho rằng, dù đế quốc Byzantine suy kiệt sau cái chết của Manuel, nó chỉ là điều tự nhiên vì nguyên nhân sự suy yếu này xuất phát từ chính Triều đại của ông.

Lên ngôi hoàng đế

Cái chết của Ioannes II Komnenos, và lễ đăng quang Manuel I Komnenos (từ bản viết tay HistoriaOld French Continuation của [[William xứ Tyros, vẽ tại Acre, Israel, thế kỷ 13, Thư viện Quốc gia Pháp).]]

Manuel Komnenos là con trai thứ tư của Ioannes II Komnenos và Piroska của Hungary và vì thế mà dường như chuyện ông kế vị cha là điều khó có thể xảy ra. Tuy vậy, không có gì có thể đảm bảo cho sự kế vị này: Ngồi bên giường hấp hối của cha tại Cilicia cách xa Constantinopolis, ông nhận ra rằng mình cần phải quay trở lại kinh đô càng sớm càng tốt. Tuy vậy, ông phải ở lại coi tang cho cha và phong tục tập quán đòi hỏi ông phải mở một tu viện ngay tại chỗ đất mà cha ông qua đời. Ông nhanh chóng hạ lệnh cho viên megas domestikos Ioannes Axouch tức tốc đi trước, với lệnh bắt khẩn kẻ thù nguy hiểm tiềm tàng nhất là anh trai Isaac của ông, người đang sống trong Đại Cung điện và có thể lập tức tiếp cận kho báu và biểu chương hoàng gia. Axouch quay về kinh đô trước khi tin tức về cái chết của hoàng đế lan truyền đến đó. Ông ta nhanh chóng thu phục nhân tâm, và khi Manuel hồi kinh trong tháng 8 năm 1143, ông đã được tân thượng phụ Mikhael Kourkouas tôn lên làm vua. Ít ngày sau, khi không còn điều gì đáng ngại vì ngôi vị hoàng đế của mình đã được bảo đảm, Manuel đã hạ lệnh thả Isaac. Sau đó, ông hạ lệnh phân phát cho mỗi hộ ở Constantinoplis hai miếng vàng và hiến dânh 200 cân vàng (bao gồm 200 miếng bạc hàng năm) cho Giáo hội Đông La Mã.

Đế quốc mà Manuel được thừa kế từ cha ông đã trải qua nhiều thay đổi lớn kể từ khi nó được sáng lập bởi Constantinus Đại đế tám thế kỷ trước. Dưới triều đại của tiên đế Justinianus I (527–565), một phần của đế quốc Tây La Mã bao gồm Ý, Bắc Phi và miền nam Tây Ban Nha đã được phục hồi. Tuy nhiên, đế quốc bắt đầu thu nhỏ kể từ đó. Sự thay đổi rõ ràng nhất đã xảy ra trong thế kỷ thứ 7 khi quân Hồi giáo chiếm Ai Cập, Palestine và phần lớn Syria. Người Hồi giáo tiến hành tây tiến vào Bắc Phi và Tây Ban Nha — tiến vào vùng đất mà vào thời Constantinus là những tỉnh phía tây của Đế quốc La Mã. Những thế kỷ tiếp đó, các vị hoàng đế La Mã cai quản một vùng đất bao gồm phần lớn là Tiểu Á ở phía đông và vùng Balkan ở phía Tây. Đến những năm cuối thế kỷ thứ 10, Đế quốc Đông La Mã bước vào một giai đoạn đánh dấu sự suy tàn quân sự và chính trị. Phần lớn những điều này đã được khắc phục dưới triều đại của ông nội và cha của Manuel. Tuy nhiên, đế quốc mà Manuel thừa kế là một chính thể phải đối mặt với những thách thức kinh khủng. Vào cuối thế kỷ 11, người Norman ở Sicilia đã đưa Italia ra khỏi tầm kiểm soát của các hoàng đế Đông La Mã. Những người Thổ Seljuk cũng đã làm tương tự với khu vực miền trung Anatolia. Và tại Levant, một lực lượng mới đã xuất hiện - các tiểu quốc Thập tự chinh - những người mang đến cho Đế quốc Đông La Mã nhiều thách thức mới. Vào lúc này, nhiệm vụ mà hoàng đế phải đối mặt trở nên thực sự khó khăn hơn bất cứ lúc nào trong những thế kỷ trước.

Thập tự chinh thứ hai và Renaud de Châtillon

Thân vương xứ Antiochia

Năm 1144, Manuel phải đối mặt với thử thách đầu tiên kể từ khi lên ngôi khi Thân vương Raymond xứ Antiochia yêu cầu Đông La Mã nhượng lại khu vực Cilicia. Tuy vậy, chỉ một năm sau xứ Edessa ở phía đông lãnh địa của Raymond đã bị nhấn chìm bởi làn sóng jihad (thánh chiến) Hồi giáo vừa mới nổi lên do Imad ad-Din Atabeg Zengi cầm đầu. Raymond lúc này mới nhận ra rằng sự giúp đỡ trực tiếp từ phương tây (chỉ Đế quốc Đông La Mã) không còn là vấn đề nữa. Với việc sườn phía đông của mình giờ đây đang phải đối mặt với mối nguy hiểm mới này, ông ta dường như không có lựa chọn nào khác ngoài việc ông chuẩn bị cho một chuyến viếng thăm nhục nhã tới Constantinopolis. Ngậm cay nuốt đắng, Raymond phải kìm nén tính tự cao của mình mà đến phương bắc yêu cầu Manuel bảo vệ. Sau khi giao nộp mình cho Manuel, Raymond nhận được lời hứa giúp đỡ từ hoàng đế và qua đó mà lòng trung thành của Raymond đối với Đông La Mã được đảm bảo.

Chinh phạt Konya

Năm 1146, Manuel tập hợp quân đội của mình tại căn cứ quân sự Lopadion và tiến hành một cuộc viễn chinh trừng phạt Sultan Masud của Rûm, người đã nhiều lần lấn chiếm biên giới của Đế quốc Đông La Mã ở miến tây Anatolia và Cilicia. Không có toan tính xâm chiếm lãnh thổ một cách có hệ thống, nhưng quân đội của Manuel đã đánh bại quân Thổ tại Acroënus trước khi chiếm đóng và phá huỷ thị trấn Philomelion kiên cố, rồi di dời quần thể Kitô hữu còn lại của nó. Cũng trong chiến dịch này, Manuel nhận được một lá thư từ Louis VII của Pháp tỏ ý sẽ đưa một đội quân đến cứu các quốc gia thập tự chinh.

Phả hệ

**Ancestors of Manuel I Komnenos of Byzantium**

Trích dẫn

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Manuel I Komnenos "Đại đế"** (hay **Comnenus**) (tiếng Hy Lạp: Μανουήλ Α 'Κομνηνός, _Manouēl I Komnenos_; ngày 28 tháng 11 năm 1118 - 24 tháng 9 năm 1180) là một Hoàng đế Byzantine vào thế
**Alexios I Komnenos** (, 1048 hoặc 1056 – 15 tháng 8, 1118), là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 1081 đến năm 1118. Xuất thân là một tướng lĩnh và điền chủ, dù không phải
**Isaakios I Komnenos** (, _Isaakios I Komnēnos_; k. 1007– 1060/61) là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 1057 đến năm 1059, thành viên tại vị đầu tiên của nhà Komnenos. Dưới thời kỳ trị
**Alexios II Komnenos** () (10 tháng 9, 1169 – Tháng 10, 1183) là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 1180 đến năm 1183. Là con trai của Hoàng đế Manouel I Komnenos và Maria,
Đế quốc Đông La Mã trước cuộc [[thập tự chinh lần thứ nhất.]] Đế quốc Đông La Mã dưới thời [[Manuel I Komnenos, những năm 1170. Lúc này, một phần lớn Tiểu Á và bán
Phục bích (), còn được phiên âm là phục tích hay phục tịch, nghĩa đen là "khôi phục ngôi vua" là trường hợp một quân chủ đã từ nhiệm hoặc đã bị phế truất hay
**Eirene Doukaina** hay **Ducaena** (, _Eirēnē Doukaina_; – 19 tháng 2, 1138) là vợ của Hoàng đế Đông La Mã Alexios I Komnenos, và là mẹ của hoàng đế Ioannes II Komnenos và nữ sử
**Cuộc Thập tự chinh thứ hai** (1145-1149) là chiến dịch lớn thứ hai xuất phát từ châu Âu. Cuộc Thập tự chinh thứ hai được bắt đầu để đáp ứng với sự sụp đổ của
Các chiến binh Công giáo chiếm đóng Jerusalem trong cuộc Thập tự chinh thứ nhất. **Giai đoạn giữa Trung Cổ** là một thời kỳ lịch sử ở châu Âu kéo dài trong ba thế kỷ
**Split** (, như trong từ tiếng Anh _split_; ; xem tên khác) là thành phố lớn thứ hai của Croatia, đồng thời là thành phố lớn nhất vùng Dalmatia. Nó nằm bên bờ phía đông
**Lịch sử của Bulgaria** có thể được bắt nguồn từ các khu định cư đầu tiên trên vùng đất của Bulgaria hiện đại cho đến khi hình thành quốc gia và bao gồm lịch sử
thumb|333x333px|Tạo hình cataphract thời kỳ [[Sassanid, hoàn toàn phủ giáp kín thân ngựa chiến và kị sĩ. Chú ý là kị sĩ mặc giáp lưới.|alt=]] **Cataphract** hay **thiết kỵ** là một loại kỵ binh nặng
**Cuộc bao vây Nicaea** diễn ra từ ngày 14 tháng 5 đến ngày 19 tháng 6 năm 1097, là một trận chiến trong cuộc Thập tự chinh thứ nhất. ## Bối cảnh Thành Nicaea (Iznik),
Ngày **28 tháng 11** là ngày thứ 332 (333 trong năm nhuận) trong lịch Gregorius. Còn 33 ngày trong năm. ## Sự kiện *936 – Với sự giúp đỡ của hoàng đế Khiết Đan Da
**Hẻm núi Sićevo** (tiếng Serbia: _Сићевачка клисура_) của Serbia nằm ở thung lũng sông Nišava do dòng chảy cắt qua núi đá kiến tạo nên, giữa các nhánh phía bắc của núi Suva và các
**István III** (, ; ; mùa hè năm 11474 tháng 3 năm 1172) là Vua của Hungary và Croatia trong khoảng thời gian từ năm 1162 đến 1172. Ông lên ngôi vua vào đầu tháng
**Đế quốc Byzantine**, còn được gọi là **Đế quốc Đông La Mã**, là sự tiếp nối của Đế quốc La Mã ở các tỉnh phía đông trong thời kỳ Hậu Cổ đại và Trung cổ
**Nữ hoàng** (chữ Hán: 女皇, tiếng Anh: _Empress Regnant_), cũng được gọi là **Nữ đế** (女帝) hay **Nữ hoàng đế** (女皇帝), **bà hoàng**, **bà chúa** là một danh từ dùng để chỉ người phụ nữ
**Thập tự chinh Thứ nhất** (1095 - 1099) là cuộc Thập tự chinh đầu tiên, được phát động vào năm 1095 bởi Giáo hoàng Urban II với mục đích chiếm lại những vùng đất đã
**_Alexiad_** () là một tác phẩm lịch sử trung cổ được viết vào khoảng năm 1148, bởi nhà sử học và công chúa Đông La Mã Anna Komnene, con gái của Hoàng đế Alexios I
**Vương quốc Gruzia** (tiếng Gruzia: _ საქართველოს სამეფო_), hay còn được biết đến với cái tên **Đế quốc Gruzia**, là một chế độ quân chủ thời kỳ Trung cổ nổi lên vào khoảng 1008. Thời
**Hoàng hậu** (chữ Hán: 皇后; Kana: こうごうKōgō; Hangul: 황후Hwang Hu; tiếng Anh: Empress consort) là danh hiệu dành cho chính thê của Hoàng đế, bởi Hoàng đế sách lập. Danh hiệu này tồn tại trong
**Mikhael IX Palaiologos** hoặc **Palaeologus** (, _Mikhaēl IX Palaiologos_), (17 tháng 4, 1277 – 12 tháng 10, 1320), trị vì như là đồng Hoàng đế Đông La Mã với đế hiệu chính thức vào năm
Phục bích (), còn được phiên âm là phục tích hay phục tịch, nghĩa đen là "khôi phục ngôi vua" là trường hợp một quân chủ đã từ nhiệm hoặc đã bị phế truất hay
**Trận Manzikert** là một trận đánh diễn ra vào ngày 26 tháng 8 năm 1071 ở gần Manzikert (Malazgirt, tỉnh Muş, Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay) giữa đế quốc Byzantium (Đông La Mã) và đế
**Mikhael VIII Palaiologos** hoặc **Palaeologus** (; 1223 – 1282) là Hoàng đế Đông La Mã trị vì từ năm 1259 đến 1282. Mikhael VIII là người sáng lập vương triều Palaiologos cai trị Đế quốc
**Romanos IV Diogenes** (, _Rōmanós IV Diogénēs_; khoảng 1030 – 1072), là một thành viên thuộc tầng lớp vũ huân quý tộc kết hôn với vị hoàng hậu góa bụa Eudokia Makrembolitissa, đã đăng quang
**Nikephoros III Botaneiates** (, khoảng 1002 – 10 tháng 12, 1081), là Hoàng đế Đông La Mã trị vì từ năm 1078 đến 1081. Ông thuộc về một gia tộc tự xưng là hậu duệ