✨Trận Manzikert

Trận Manzikert

Trận Manzikert là một trận đánh diễn ra vào ngày 26 tháng 8 năm 1071 ở gần Manzikert (Malazgirt, tỉnh Muş, Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay) giữa đế quốc Byzantium (Đông La Mã) và đế quốc Seljuk. Chiến bại mang tính quyết định của quân đội Đông La Mã và việc hoàng đế Romanos IV Diogenes Nhiều người Thổ, những người đã di cư về phía tây trong thế kỷ 11, đã xem thắng lợi tại Manzikert như là một cánh cửa mở vào Tiểu Á.

Trận chiến đã xảy ra với những người lính chuyên nghiệp đến phương đông và các tagmata đến từ phương tây, trong khi số lượng lớn lính đánh thuê và số lính tòng quân đến từ Anatolia đã bỏ trốn sớm và đã có thể sống sót sau khi trận đánh kết thúc. Điều này đã dẫn tới việc người Thổ tràn vào khu vực miền trung Anatolia - vào năm 1080, người Thổ Seljuk đã thu được một khu vực có diện tích 78.000 kilômét vuông (30.000 sqm). Phải mất ba thập kỷ đấu đá nội bộ trước khi hoàng đế Alexios I nhà Komnenos (1081 đến 1118) có thể khôi phục lại sự ổn định cho Byzantium. Nhà sử học Thomas Asbridge nói: "Năm 1071, người Seljuk đã triệt hạ một quân đội hoàng gia tại trận Manzikert (ở miền đông Tiểu Á) và mặc dù các sử gia không còn coi đây là một sự đảo ngược hoàn toàn cho người Hy Lạp, nó vẫn là một ngòi châm cho thất bại". Đây là lần đầu tiên trong lịch sử, một hoàng đế (Đông) La Mã trở thành tù nhân của một người chỉ huy Hồi giáo.

Bối cảnh

Mặc dù đế quốc Đông La Mã vẫn hùng cường trong thời Trung Cổ, nó bắt đầu suy tàn dưới triều hoàng đế Konstantinos IX vốn không tài điều binh khiển tướng và một lần nữa dưới thời Konstantinos X - một thời kỳ cải cách hai năm dưới thời Isaakios I chỉ trì hoãn sự phân rã của quân đội Đông La Mã. Dưới đời vua Konstantinos IX, người Đông La Mã lần đầu tiên đã chạm trán với người Thổ Seljuk khi họ cố gắng để thốn thính Ani, thủ đô của người Armenia. Konstantinos thực hiện một thỏa thuận ngừng chiến với người Seljuk kéo dài cho đến năm 1064, nhưng sau đó người Thổ đã chiếm Ani và phần còn lại của Armenia vào năm 1067, rồi tiếp đó là Caesarea.

Năm 1068 hoàng đế Romanos IV lên nắm quyền và sau một số cuộc cải cách quân sự nhanh chóng, ông đã ủy thác Manuel Komnenos (cháu của Isaakios I Comnenus) nhận trọng trách viễn chinh thảo phạt người Seljuk. Manuel chiếm được Hierapolis Bambyce ở Syria, ngăn chặn một cuộc tấn công công của người Thổ vào thành Iconium bằng một đòn phản công, Số lượng quân đội từ các tỉnh đã bị giảm trong những năm trước khi Romanos lên ngôi, khi triều đình chuyển sang sử dụng lính đánh thuê được đánh giá là ít có khả năng can thiệp vào chính trị hơn và có thể giải tán bất cứ khi nào sau khi sử dụng để tiết kiệm tiền bạc.

thumb|left|Alp Arslan dẫn dắt người Turk Seljuq dành thằng lợi trước người Đông La Mã năm 1071.

Cuộc hành quân xuyên Tiểu Á diễn ra lâu và khó khăn. Romanos còn khiến binh lính bức xúc khi cho áp tải hành lí sang trọng đi cùng; người dân địa phương cũng bị những người lính đánh thuê người Frank quấy nhiễu, cướp bóc, khiến ông phải sa thải họ. Quân viễn chinh nghỉ ngơi tại Sebasteia trên sông Halys và đến Theodosiopolis vào tháng 6 năm 1071. Tại đây, một số tướng của ông đưa ra sách lược đánh vào lãnh thổ Seljuk và đánh phủ đầu Alp Arslan trước khi ông ta sẵn sàng. Trong khi các tướng khác, bao gồm Nikephoros Bryennios, lại khuyên họ nên chờ đợi và củng cố vị trí. Cuối cùng, Romanos đã quyết định tiến binh.

Nghĩ rằng Alp Arslan đang còn ở xa, Romanos tiến về phía hồ Van, dự kiến sẽ nhanh chóng chiếm lại Manzikert, cũng như pháo đài Khliat gần đó nếu có thể. Tuy nhiên, Alp Arslan đã ở trong khu vực cùng với đồng minh và 30.000 kỵ binh từ Aleppo và Mosul. Trinh thám của Alp Arslan đã biết chính xác vị trí của Romanos, trong khi Romanos lại hoàn toàn không ý thức được những chuyển động của đối phương.

Romanos ra lệnh cho tướng Ioseph Tarchaniotes đem một số quân chính quy và cận vệ Varangoi đi cùng với người Pecheneg và Frank tới Khliat, trong khi Romanos và phần còn lại của quân đội tiến thẳng tới Manzikert. Điều này đã khiến quân đội Đông La Mã bị phân chia một nửa, mỗi bên khoảng 20.000 lính. Không rõ chuyện gì đã xảy ra với đội quân đi theo Tarchaniotes - theo các tài liệu Hồi giáo, Alp Arslan đã đánh tan quân đội này, nhưng tài liệu La Mã không đề cập đến bất kỳ cuộc chạm trán nào như vậy. Trong khi đó, sử gia Attaliates đã cho rằng Tarchaniotes đã đầu hàng Sultan người Thổ - một điều khó xảy ra nếu xem xét thanh danh của tướng sĩ La Mã. Dù bằng cách nào đi chăng nữa, quân đội của Romanos đã giảm xuống còn chưa tới một nửa số lượng 40.000 đến 70.000 người theo kế hoạch.

Trận chiến

Vào buổi sáng của trận chiến, Alp Arslan đã triệu hồi và phát biểu trước ba quân khi đang khoác trên mình một chiếc áo choàng trắng, như trong đám tang của người Hồi giáo. Đây là một thông điệp đáng khích lệ rằng ông đã sẵn sàng để chết trong trận này. Romanos không biết được sự thất bại của Tarchaneiotes nên đã tiếp tục tiến quân đến Manzikert và đã dễ dàng chiếm được thành phố vào ngày 23 tháng 8. Người Seljuk đã đáp lại bằng những cuộc tập kích của các xạ thủ. Ngày hôm sau, một vài nhóm binh lính dưới trướng của Bryennios khi đang đi phá phách đã phát hiện ra quân đội Seljuk và buộc phải rút về Manzikert. Nhận được tin cấp báo, Romanos hạ lệnh sai viên tướng người Armenia Basilakes dẫn một số kỵ binh đi do thám, nhưng Romanos vẫn chưa tin số quân Seljuk này là đại quân của Alp Arslan. Quân do thám bị chặn đánh và Basilakes bị bắt. Romanos hạ lệnh bài binh bố trận và hạ lệnh Bryennios dẫn cánh trái công tiến. Tuy nhiên, do gần như bị người Thổ tiếp cận nhanh chóng bao vây, Bryennios bị buộc phải rút lui một lần nữa. Quân Seljuk nấp trên những ngọn đồi gần đó vào ban đêm, khiến Romanos không thể tổ chức nổi một cuộc phản công.

thumb|[[Đế quốc Đông La Mã|Cương thổ Đông La Mã (màu tím), hướng tiến quân của người Đông La Mã (màu đỏ) và hướng tiến quân của người Seljuk (màu lục)]]

Vào ngày 25 tháng 8, một số lính đánh thuê người Turk của Romanos đã đào ngũ sau khi tiếp xúc với họ hàng Seljuk của họ. Sultan Seljuk đã cho sứ sang cầu hòa, nhưng Romanos đã khước từ. Ông muốn giải quyết câu hỏi về phía đông và những cuộc xâm lược và định cư liên tục của người Turk bằng một đòn chí mạng. Ông hiểu rằng, việc phải nuôi thêm một đội quân khác để bảo vệ biên giới phía đông sẽ khó khăn và tốn kém. Ông cố gắng để triệu hồi Tarchaneiotes, người vốn không còn ở trong khu vực. Ngày hôm đó, ngày 26 tháng 8, quân đội Đông La Mã sau khi đã được sắp xếp thành đội hình phù hợp, đã bắt đầu tiến đến trại của người Thổ. Tả quân do Bryennios chỉ huy, hữu quân do Theodoros Alyates chỉ huy trong khi hoàng đế đích thân thống lĩnh trung quân. Tương truyền, vào thời điểm đó, một người lính Thổ đã nói với Alp Arslan rằng, "thưa bệ hạ, quân địch đang tiến tới gần". Alp Arslan đã trả lời, "Vậy thì quân ta cũng đang đến gần họ". Andronikos Doukas được nhận lệnh thống lĩnh lực lượng dự bị ở phía sau. Tuy nhiên đây là một sai lầm ngu ngốc của Romanos khi đặt lòng tin vào dòng họ Doukas tham quyền. Ở cách đó bốn cây số, quân đội Seljuk đã được sắp xếp thành một hình lưỡi liềm. Cung thủ Seljuk đã tấn công quân đội Đông La Mã khi họ tiến đến gần. Tuyến giữa của hình lưỡi liềm liên tục di chuyển về phía sau trong khi hai cánh bao vây quân đội Đông La Mã.

Quân Đông La Mã đã chống cự được sự tấn công của xạ thủ Seljuk và đã chiếm được trại vua Thổ vào cuối buổi chiều. Tuy nhiên, ở hai bên cánh, vốn bị cung tên của Seljuk làm tổn thương nghiêm trọng, đã nhanh chóng vỡ trận khi các đơn vị riêng biệt cố gắng ép người Thổ phải giáp chiến lá cà. Kỵ binh người Thổ cứ rút chạy mỗi khi bị đe dọa - chiến thuật vừa đánh vừa chạy của các chiến binh trên thảo nguyên. Do quân Seljuk đã tháo chạy, Romanos hạ lệnh rút quân trước khi đêm xuống. Tuy nhiên, hữu quân Đông La Mã đã hiểu sai lệnh. Trong khi đó, Doukas, như một đối thủ của Romanos, đã cố tình bỏ phớt lờ hoàng đế và đem cánh quân của mình quay về trại bên ngoài Manzikert, chứ không yểm trợ hoàng đế. Nhân khi quân đội Đông La Mã trở nên lộn xộn, người Seljuk chớp lấy thời cơ và tấn công. Hữu quân Đông La Mã gần như đã tháo chạy ngay lập tức khi cho rằng, họ đã bị người Armenia hoặc các phụ tá người Thổ trong quân đội phản bội. Một số sử gia giả định rằng người Armenia là những người đầu tiên đã cố gắng bỏ trốn. Tất cả những người này đều đã trốn thoát thành công, trong khi đó các phụ tá người Thổ trong quân đội Đông La Mã vẫn trung thành đến cùng. Một vài tài liệu khác lại cho thấy rằng bộ binh Armenia đã chống cự mạnh mẽ, đã không quay đuôi và không từ bỏ hoàng đế như nhiều người nghĩ. Khi Romanos chứng kiến sự dũng cảm của những người lính Armenia, ông tỏ ra rất quý họ và tự hứa rằng sẽ thưởng cho họ. Vào cuối trận chiến, trung quân dưới quyền chỉ huy của hoàng đế và đội quân người Armenia là những người phải chịu đựng số thương vong lớn nhất trong quân ngũ Đông La Mã. Tả quân của Bryennios tuy cũng đã cầm cự lâu hơn một chút nhưng cũng sớm tháo lui. Những tàn dư của trung quân Đông La Mã, bao gồm cả hoàng đế và vệ binh Varangoi, đã bị người Seljuk bao vây hoàn toàn. Romanos bị thương và bị bắt người Seljuk bắt làm tù binh. Những người sống sót là những người đã phải vượt đồng ruộng tháo chạy và họ đã bị người Thổ truy đuổi suốt đêm, nhưng không đuổi đến tận cùng. Vào lúc bình minh, lực lương nòng cốt của quân đội Đông La Mã đã bị tiêu diệt hoàn toàn trong khi nhiều binh lính nông dân và dân quân dưới sự chỉ huy của Andronikus đã tẩu thoát.

:Alp Arslan: "Ngài sẽ làm gì nếu ta bị bắt làm tù bình và bị áp giải tới trước mặt ngài?" :Romanos: "Có lẽ ta sẽ giết ngài, hoặc đem bêu trên đường phố Constantinopolis." :Alp Arslan: "Hình phạt của ta còn nặng hơn nhiều. Ta sẽ quên ngài, và thả ngài tự do."

Sau màn lăng nhục sỉ vả xong xuôi, Arslan nâng Romanos đứng dậy và ra lệnh phải đối đãi với ông ấy như một vị vua. Kể từ đó vị Hồi vương này cư xử với Romanos rất mực tử tế, chẳng bao giờ nặng lời với ông trong suốt tám ngày trời Hoàng đế ở trong trại của mình. Rồi sau đó ông ta cho người thả Hoàng đế về nhằm đổi lấy hòa ước và lời hứa về một khoản tiền chuộc khổng lồ. Lần đầu Alp Arslan đòi Romanos IV một khoản tiền chuộc 10.000.000 nomismata, nhưng về sau ông giảm bớt xuống còn 1.500.000 nomismata, kèm theo hơn 360.000 nomismata hàng năm.

Hậu quả

left|thumb|Quân Thổ đã không di chuyển vào [[Anatolia cho đến khi Alp Arslan qua đời năm 1072.]] Mặc dù là về mặt chiến lược dài hạn đây là một thảm họa đối với Đông La Mã, nhưng trận Manzikert lại không phải là một cuộc thảm sát mà các sử gia trước đây cho là như vậy. Các học giả hiện đại ước tính rằng thiệt hại của người Đông La Mã tương đối thấp, nhiều đơn vị còn nguyên vẹn sau trận chiến và lại tham chiến ở nơi khác trong vòng vài tháng sau và hầu hết các tù binh bị bắt đều được thả. Trận chiến không trực tiếp thay đổi cán cân quyền lực giữa Đông La Mã và Seljuk, song những cuộc đấu đá trong nội bộ Đông La Mã đã làm suy tổn nguyên khí, giúp Seljuk giành được thế thượng phong. Đó là một phần quá trình biến "đồng bằng trung tâm của Anatolia thành vùng trắng và biến các trang trại chăn cừu của người Byzantine thành tài sản của họ-người Thổ" (theo Runciman). Cuối cùng, sau khi âm mưu và việc truất ngôi Hoàng đế đã xảy ra, số phận của Romanos trở nên đặc biệt bi đát và những bất ổn được gây ra bởi sự kiện này cũng lan truyền qua nhiều thế kỷ.

Các khu định cư và khu vực ở Tiểu Á bị ảnh hưởng trong đợt đầu tiên của cuộc xâm lăng của người Thổ (tính đến năm 1204).

Những gì xảy ra sau trận chiến là một chuỗi các sự kiện, trong đó trận chiến là sự kiện mở màn màn là suy yếu Đế chế trong những năm tới. Bao gồm cả âm mưu soán ngôi cùng với số phận khủng khiếp của Romanos và Roussel de Bailleul đã cố gắng tạo cho mình một vương quốc độc lập ở Galatia với lính đánh thuê người Frank, Norman và Đức. Ông đã đánh bại người chú của Hoàng đế Ioannes Doukas người đến để ngăn chặn ông ta, rồi tiến về hướng phía thủ đô để tiêu diệt vương quốc Chrysopolis (Üsküdar) trên bờ biển châu Á của vịnh Bosporus. Cuối cùng Đế quốc đã phải quay sang cầu viện người Seljuk để tiêu diệt kẻ nổi loạn này (và họ đã làm). Tuy nhiên người Thổ Nhĩ Kỳ đã cho ông được trả tiền chuộc để trở về với vợ mình, và phải đến khi viên tướng trẻ Alexios Komnenos truy đuổi thì ông này mới bị bắt. Sự kiện này và tất cả các chuỗi sự việc tiếp theo đã tạo ra một khoảng trống mà người Thổ Nhĩ Kỳ đã lấp đầy. Lựa chọn của họ trong việc xây dựng thủ đô ở Nikaea (İznik) trong năm 1077 có thể được giải thích bởi một mong muốn để xem các cuộc tranh giành nội bộ của đế quốc có thể mang lại cơ hội mới.

Trong nhận thức sau này, cả các sử gia Đông La Mã và sử gia đương đại đều nhất trí rằng trận chiến ngày hôm đó đã làm suy giảm cơ đồ của họ. Như Paul K. Davis viết, "Người Byzantine bị đánh bại trong việc sức mạnh của họ bị hạn chế và họ phải từ bỏ quyền kiểm soát đối với vùng Anatolia, một vùng đất có thể tuyển dụng được một số lượng lớn binh sĩ cho Đế quốc. Từ lúc này, người Hồi giáo kiểm soát vùng Anatolia. Đế chế Byzantine chỉ còn được giới hạn ở những khu vực sát ngay xung quanh Constantinopolis và Đế quốc Byzantine không bao giờ còn có lại một lực lượng quân sự hùng hậu nữa." Trận chiến này cũng còn được hiểu như là một trong những nguyên nhân gốc rễ cho các cuộc Thập tự chinh sau này, đặc biệt là cuộc Thập tự chinh đầu tiên trong năm 1095 đã được coi như là một phản ứng của thế giới phương Tây trước lời kêu gọi hỗ trợ về quân sự của hoàng đế La Mã sau khi họ bị mất Anatolia. Từ góc độ khác, thế giới phương Tây đã thấy Manzikert là một tín hiệu rằng Đông La Mã không còn có đủ khả năng để bảo vệ người Kitô giáo phương Đông và người Kitô giáo hành hương tới Đất Thánh tại Trung Đông.

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Trận Manzikert** là một trận đánh diễn ra vào ngày 26 tháng 8 năm 1071 ở gần Manzikert (Malazgirt, tỉnh Muş, Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay) giữa đế quốc Byzantium (Đông La Mã) và đế
**Danh sách các trận chiến** này được liệt kê mang **tính địa lý, theo từng quốc gia với lãnh thổ hiện tại**. ## Áo * Trận đồng Marchfeld (**Trận Dürnkrut và Jedenspeigen**) - 1278 *
**Trận Kalavrye** (hay còn gọi là **Kalavryai** hoặc **Kalavryta**), diễn ra vào năm 1078, giữa quân đội Đông La Mã được chỉ huy bởi tướng (hoàng đế tương lai) Alexios Komnenos và lực lượng nổi
**Trận chiến Levounion** là chiến thắng quyết định đầu tiên của Đông La Mã trong cuộc phục hưng Komnenus. Ngày 29 tháng 4 năm 1091, một lực lượng xâm lược khổng lồ người Pechenegs đã
thumb|right|upright=1.35|[[Trận Little Bighorn được biết đến với cái tên Cuộc tử thủ của Custer]] Thảm họa quân sự là một bên thất bại trong trận chiến hoặc chiến tranh dẫn đến việc bên thua cuộc
**Alp Arslan** (; tên đầy đủ: _Diya ad-Dunya wa ad-Din Adud ad-Dawlah Abu Shuja Muhammad Alp Arslan ibn Dawud_ ; 1029 – 15 tháng 12, 1072) là vị sultan thứ hai của nhà Seljuk và
**Đế quốc Byzantine**, còn được gọi là **Đế quốc Đông La Mã**, là sự tiếp nối của Đế quốc La Mã ở các tỉnh phía đông trong thời kỳ Hậu Cổ đại và Trung cổ
**Thập tự chinh Thứ nhất** (1095 - 1099) là cuộc Thập tự chinh đầu tiên, được phát động vào năm 1095 bởi Giáo hoàng Urban II với mục đích chiếm lại những vùng đất đã
Các chiến binh Công giáo chiếm đóng Jerusalem trong cuộc Thập tự chinh thứ nhất. **Giai đoạn giữa Trung Cổ** là một thời kỳ lịch sử ở châu Âu kéo dài trong ba thế kỷ
Đế quốc Đông La Mã trước cuộc [[thập tự chinh lần thứ nhất.]] Đế quốc Đông La Mã dưới thời [[Manuel I Komnenos, những năm 1170. Lúc này, một phần lớn Tiểu Á và bán
**Konstantinos IX Monomachos**, Latinh hóa thành **Constantinus IX Monomachus** (; 1000 – 1055), là Hoàng đế Đông La Mã trị vì từ ngày 11 tháng 6 năm 1042 đến ngày 11 tháng 1, 1055. Ông được Hoàng
**Muş** là một tỉnh ở phía đông Thổ Nhĩ Kỳ. Diện tích là 8.196 km² và dân số là 488.997 (ước tính năm 2006). Dân số là 453.654 năm 2000. Người Kurd chiếm đa số. Tỉnh
**Đế quốc Ottoman** còn được gọi là **Đế quốc Osman** (; **', ; or **'; ) hay **Đế quốc Thổ Nhĩ Kỳ**, là một Đế quốc trải rộng xuyên suốt Nam Âu, Trung Đông và
thumb|Tấn công gọng kìm, 2 cánh quân đỏ tấn công quân xanh **Đánh gọng kìm** là một chiến thuật quân sự, trong đó một lực lượng quân sự sẽ tấn công cả hai bên sườn
**Ioannes II Komnenos** (, _Iōannēs II Komnēnos_; 13 tháng 9, 1087 – 8 tháng 4, 1143) là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 1118 đến năm 1143. Còn gọi là "Ioannes Hiền minh" hay "Ioannes Nhân
**Armenia**, quốc hiệu là **Cộng hoà Armenia**, là một quốc gia nội lục ở phía nam Kavkaz thuộc khu vực Tây Nam Á, giáp Thổ Nhĩ Kỳ ở phía tây, Gruzia ở phía bắc, Azerbaijan
**Đế quốc La Mã** hay **Đế quốc Rôma** ( ; ) là giai đoạn tiếp nối Cộng hòa La Mã cổ đại. Chính thể Đế chế La Mã, được cai trị bởi các quân chủ
**_Age of Empires II: The Conquerors_**, đôi khi được viết tắt là _AoC_ hay _AOK: TC_ (chữ "C" chỉ phiên bản 1.0c - phiên bản chuẩn hiện nay hoặc "Conquerors" - chinh phục) là bản
Ngày **26 tháng 8** là ngày thứ 238 (239 trong năm nhuận) trong lịch Gregory. Còn 127 ngày trong năm. ## Sự kiện *1071 – Quân Thổ Seljuk dưới quyền lãnh đạo của Alp Arslan
**Rhodes** (, _Ródos_, ) là một hòn đảo của Hy Lạp, nằm ở đông nam biển Aegea. Đây là đảo lớn nhất của quần đảo Dodecanese cả trên tiêu chí diện tích và dân số,
**Thổ Nhĩ Kỳ** ( ), tên chính thức là nước **Cộng hòa Thổ Nhĩ Kỳ** ( ), thường được gọi ngắn là **Thổ**, là một quốc gia xuyên lục địa, phần lớn nằm tại Tây
**Vương quốc Gruzia** (tiếng Gruzia: _ საქართველოს სამეფო_), hay còn được biết đến với cái tên **Đế quốc Gruzia**, là một chế độ quân chủ thời kỳ Trung cổ nổi lên vào khoảng 1008. Thời
**Hồ Van** (, , ) là hồ lớn nhất tại Thổ Nhĩ Kỳ, nằm xa về phía đông của quốc gia này. Nó là một hồ nước mặn, nhận nước từ một loạt các con
**Đánh và chạy**, **đánh rồi rút**, hay **tấn công và chạy** là chiến thuật quân sự thuộc loại hình tấn công bất thường, với mục đích không phải giành quyền kiểm soát lãnh thổ mà
nhỏ|Chiến thuật Parthia **Chiến thuật Parthia**, hay **chiến thuật người Parthia bắn cung** (tiếng Anh: _Parthian shot_) là chiến thuật kỵ binh hạng nhẹ được sáng tạo và sử dụng bởi quân đội của Đế
Bài này là một tổng quan về **lịch sử Trung Đông**. Để có thông tin chi tiết hơn, xem các bài viết riêng về lịch sử các quốc gia và các vùng. Để thảo luận
[[Jerusalem năm 1099]] **Thập Tự Chinh** (Tiếng Anh: _crusade_) là một loạt các cuộc chiến tranh tôn giáo, được kêu gọi bởi Giáo Hoàng và tiến hành bởi các vị vua và quý tộc là
nhỏ|296x296px| Tranh khảm Byzantine là một trong những tác phẩm lừng danh còn sót lại của [[Hagia Sophia ở Constantinople - chân dung của Christ Pantocrator trên các bức tường của phòng trưng bày phương
**Nikephoros Bryennios Già** (), là một vị tướng Đông La Mã đã cố gắng tự lập làm hoàng đế vào cuối thế kỷ 11. Người đương thời đều xem ông là nhà chiến thuật giỏi
**Theodoros Alyates** () là một vị tướng người Đồng La Mã và là thân tín của hoàng đế Romanos IV Diogenes. Alyates xuất thân từ khu vực Cappadocia (thuộc miền đông Thổ Nhĩ Kỳ ngày
**Malik-Shah I** (; 8 tháng 8 năm 1055 – 19 tháng 11 năm 1092, tên đầy đủ: _Jalāl al-Dawla Mu'izz al-Dunyā Wa'l-Din Abu'l-Fatḥ ibn Alp Arslān_, ), là hoàng đế (Sultan) của Đế quốc Đại
**Tiếng Cappadocia** còn được gọi là **tiếng Hy Lạp Cappadocia** hoặc **tiếng Hy Lạp Tiểu Á**, là một ngôn ngữ trộn lẫn được nói ở Cappadocia (miền Trung Thổ Nhĩ Kỳ). Ngôn ngữ ban đầu
**Romanos IV Diogenes** (, _Rōmanós IV Diogénēs_; khoảng 1030 – 1072), là một thành viên thuộc tầng lớp vũ huân quý tộc kết hôn với vị hoàng hậu góa bụa Eudokia Makrembolitissa, đã đăng quang
thumb|300x300px|Các tiểu vùng của Châu Âu - CIA World Factbook **Châu Âu** hay **Âu Châu** (, ) về mặt địa chất và địa lý là một bán đảo hay tiểu lục địa, hình thành nên
­ **Mauricius** (; ) (539 – 27 tháng 11, 602) là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 582 đến 602. ## Gốc gác và thiếu thời Mauricius sinh ra tại Arabissus ở Cappadocia vào
**Venezia** (, , , ), thường gọi "thành phố của các kênh đào" và _La Serenissima_, là thủ phủ của vùng Veneto và của tỉnh Venezia ở Ý. Trong tiếng Việt, thành phố này được
Tập tin:Fuzuli Divan.jpg **Văn học Thổ Nhĩ Kỳ** ( hoặc ) bao gồm văn học truyền miệng và văn học viết bằng tiếng Thổ Nhĩ Kỳ, có thể là bằng tiếng Thổ Nhĩ Kỳ thời
thumb|469x469px|Búc tranh khắc bằng ngà voi gọi là "[[Ngà Romanos" mà một số học giả cho rằng có thể chính là Eudokia và Romanos IV được Chúa Kitô đội vương miện.]] **Eudokia Makrembolitissa** (, khoảng
**Mikhael VII Doukas** (Hy Lạp: Μιχαήλ Ζ΄ Δούκας, _Mikhaēl VII Doukas_; khoảng 1050 – 1090), biệt danh _Parapinakēs_ (Παραπινάκης, nghĩa là "trừ một phần tư", liên quan đến sự mất giá của tiền tệ Đông La