✨Mikhael VII Doukas

Mikhael VII Doukas

Mikhael VII Doukas (Hy Lạp: Μιχαήλ Ζ΄ Δούκας, Mikhaēl VII Doukas; khoảng 1050 – 1090), biệt danh Parapinakēs (Παραπινάκης, nghĩa là "trừ một phần tư", liên quan đến sự mất giá của tiền tệ Đông La Mã dưới thời ông), là Hoàng đế Đông La Mã trị vì từ năm 1071 đến 1078.

Tiểu sử

Mikhael VII sinh vào khoảng năm 1050 tại kinh thành Constantinopolis, trưởng nam của hoàng đế Konstantinos X Doukas và hoàng hậu Eudokia Makrembolitissa. Ông được tiên đế phong làm đồng hoàng đế vào cuối năm 1059, cùng với hay một thời gian ngắn trước khi đứa em trai vừa mới chào đời Konstantios Doukas. Khi phụ hoàng Konstantinos X băng hà vào năm 1067, Mikhael VII lên ngôi lúc mới 17 tuổi đủ khả năng trị vì. Thế nhưng, vị hoàng đế trẻ tuổi lại chẳng thèm ngó ngàng gì đến chính sự và do đó thái hậu Eudokia và hoàng thúc Ioannes Doukas làm phụ chính nắm quyền chi phối cả đế chế.

Ngày 1 tháng 1 năm 1068, Eudokia làm lễ thành hôn với tướng Romanos Diogenes, kẻ giờ đây trở thành vị đồng hoàng đế bề trên cùng với Mikhael VII, Konstantios, và một người em khác, Andronikos. Tới khi Romanos IV bị quân của Alp Arslan, thủ lĩnh người Thổ Seljuk đánh bại và bắt làm tù binh trong trận chiến ở Manzikert vào tháng 8 năm 1071, vị thế trong triều của Mikhael VII vẫn còn mờ nhạt, trong lúc hoàng thúc Ioannes Doukas và thầy dạy Mikhael Psellos tranh thủ nắm lấy ưu quyền trong tay. Họ mưu tính đề phòng trường hợp Romanos quay về giành lại quyền bính sau khi được thả ra khỏi tù, trong khi Mikhael cảm thấy không có nghĩa vụ tôn trọng thỏa thuận mà Romanos đã đề ra với Sultan. Mối quan tâm chính của hoàng đế dưới sự định hướng của Psellos chỉ cốt theo đuổi học vấn, và ông đã cho phép Nikephoritzes gia tăng thuế má và tiêu xài hoang phí mà không có sự tài trợ thích đáng dành cho quân đội. Bản thân là một hoàng đế kém cỏi bất tài, luôn được quần thần xu nịnh vây quanh và không nhận ra là cả đế chế đang suy sụp dưới chân mình. Vấn đề ngày càng trở nên tồi tệ thêm bởi sự đào ngũ của nhóm lính đánh thuê phương Tây của Đông La Mã, giờ trở thành đối tượng của những cuộc viễn chinh quân sự tiếp theo trong khu vực thuộc quyền Caesar dưới sự chỉ huy của Ioannes Doukas.

Những tai ương này chỉ khiến sự bất mãn lan rộng trong dư luận, càng thêm trầm trọng hơn bởi đồng tiền bị mất giá, bởi vậy dân chúng mới gán cho hoàng đế cái biệt danh Parapinakēs, "trừ một phần tư". Sau ông thụ phong chức Giám mục giáo khu Ephesus và mất ở Constantinopolis khoảng năm 1090.

Thế lực thù địch

thumb|Chân dung Mikhael VII Doukas trên mặt sau của [[Vương miện Thánh xứ Hungary.]] Những kẻ tiếm vị khác thay nhau xuất hiện cố gắng phế truất Mikhael VII hoặc nắm quyền cai trị từng phần của đế chế. Bọn họ bao gồm:

  • Nestor – Cựu nô lệ của Konstantinos X, được thăng chức trở thành dux cai quản xứ Paradounavon, một khu vực giáp ranh sông Danube. Quá sức căm phẫn vì bị trọng thần Nikephoritzes tịch thu phần lớn gia sản, Nestor liền khởi binh dấy loạn vào năm 1076, Tuy bị Alexios Komnenos đánh bại vào năm 1078, Nestor vẫn còn ở lại chỗ người Patzinak, và cùng họ rút lui trở về miền Paradunavum gây dựng lại lực lượng.
  • Philaretos Brachamios
  • Caesar Ioannes Doukas
  • Nikephoros Bryennios
  • Nikephoros Botaneiates

Gia đình

Mikhael VII Doukas kết hôn với Maria xứ Alania, con gái của Vua Bagrat IV xứ Gruzia. Cả hai vợ chồng có với nhau một đứa con trai tên là Konstantinos Doukas, đồng hoàng đế từ khoảng năm 1075 đến 1078 và từ năm 1081 đến 1087/8. Ông qua đời vào khoảng năm 1095.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Mikhael VII Doukas** (Hy Lạp: Μιχαήλ Ζ΄ Δούκας, _Mikhaēl VII Doukas_; khoảng 1050 – 1090), biệt danh _Parapinakēs_ (Παραπινάκης, nghĩa là "trừ một phần tư", liên quan đến sự mất giá của tiền tệ Đông La
**Konstantinos X Doukas** (, _Kōnstantinos X Doukas_) (1006 – 1067) là vị Hoàng đế Đông La Mã trị vì từ năm 1059 đến 1067. ## Triều đại Konstantinos Doukas là con trai của Andronikos Doukas, một nhà
**Mikhael Psellos** (Hy Lạp: Μιχαήλ Ψελλός, _Mikhaēl Psellos_) là một tu sĩ, nhà văn, triết gia, chính trị gia và nhà sử học Đông La Mã gốc Hy Lạp. Ông sinh vào năm 1017 hoặc
thumb|469x469px|Búc tranh khắc bằng ngà voi gọi là "[[Ngà Romanos" mà một số học giả cho rằng có thể chính là Eudokia và Romanos IV được Chúa Kitô đội vương miện.]] **Eudokia Makrembolitissa** (, khoảng
**Alexios I Komnenos** (, 1048 hoặc 1056 – 15 tháng 8, 1118), là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 1081 đến năm 1118. Xuất thân là một tướng lĩnh và điền chủ, dù không phải
**Eirene Doukaina** hay **Ducaena** (, _Eirēnē Doukaina_; – 19 tháng 2, 1138) là vợ của Hoàng đế Đông La Mã Alexios I Komnenos, và là mẹ của hoàng đế Ioannes II Komnenos và nữ sử
**Trận Dyrrhachium** (ngày nay gần Durrës ở Albania) là một trận đánh diễn ra vào ngày 18 tháng 10 năm 1081, giữa quân đội Đông La Mã do Hoàng đế Alexios I Komnenos chỉ huy
**Nikephoros III Botaneiates** (, khoảng 1002 – 10 tháng 12, 1081), là Hoàng đế Đông La Mã trị vì từ năm 1078 đến 1081. Ông thuộc về một gia tộc tự xưng là hậu duệ
**Theodoros Alyates** () là một vị tướng người Đồng La Mã và là thân tín của hoàng đế Romanos IV Diogenes. Alyates xuất thân từ khu vực Cappadocia (thuộc miền đông Thổ Nhĩ Kỳ ngày
**Cassius Dio** hay **Dio Cassius** (; ) là chính khách và nhà sử học La Mã gốc Hy Lạp. Ông đã xuất bản 80 tập của bộ sử về thời La Mã cổ đại, bắt
**Anna Komnene** (, _Ánna Komnēnḗ_; 1 tháng 12, 1083 – 1153), thường được Latinh hóa thành **Anna Comnena**, là một công chúa, học giả, bác sĩ, quản lý bệnh viện và nhà sử học Đông
**Nikephoros Bryennios Trẻ** (Hy Lạp: Νικηφόρος Βρυέννιος, _Nikēphoros Bryennios; _1062–1137) là một tướng lĩnh, chính khách và sử gia Đông La Mã. Sinh trưởng tại Orestias (Orestiada, Adrianople) ở thema vùng Makedonia. ## Thân thế
**Andronikos II Palaiologos** () (25 tháng 3, 1259 – 13 tháng 2, 1332), viết theo tiếng Latinh là **Andronicus II Palaeologus**, là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 1282 đến 1328. Ông là con
**Leon VI**, danh xưng **Hiền nhân** hay **Triết gia** (, _Leōn VI ho Sophos_, 19 tháng 9, 866 – 11 tháng 5, 912), là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 886 đến 912. Là
**Phục bích** (chữ Hán: 復辟), còn được phiên âm là **phục tích** hay **phục tịch**, nghĩa đen là "khôi phục ngôi vua" là trường hợp một quân chủ đã từ nhiệm hoặc đã bị phế