✨Alp Arslan

Alp Arslan

Alp Arslan (; tên đầy đủ: Diya ad-Dunya wa ad-Din Adud ad-Dawlah Abu Shuja Muhammad Alp Arslan ibn Dawud ; 1029 – 15 tháng 12, 1072) là vị sultan thứ hai của nhà Seljuk và là chắt của Seljuk, thủy tổ của triều đại. Ông lấy tên là Muhammad bin Da'ud Chaghri khi ông trở thành tín đồ Hồi giáo, và vì tài quân sự và lòng dũng cảm, ông có tên họ là Alp Arslan, có nghĩa là "con sư tử dũng mãnh" trong tiếng Thổ Nhĩ Kỳ.

Thời kỳ đầu

Alp Arslan đi theo chú Tughril Bey đánh nhà Fatima theo phái Shia trong khi cha ông Çağrı Bey vẫn ở lại Khorasan. Khi Alp Arslan quay trở về Khorasan, ông bắt đầu công việc quản lý theo hướng dẫn của cha mình. Trong khi đó, cha của ông giới thiệu cho ông một trong những chính khách nổi tiếng nhất trong lịch sử sơ kỳ Hồi giáo Nizam al-Mulk, người về sau trở thành vizia tương lai của Alp Arslan.

Ông nối nghiệp cha Chaghril Begh làm tỉnh trưởng Khorasan năm 1059. Sau khi người chú của Alp Arslan là sultan Toghrul Bey qua đời, ông được anh Alp Arslan là Suleyman lên kế vị. (xem bài: Trận Damghan (1063)) Tuy nhiên, Alp Arslan và chú họ là Kutalmish gây chiến với nhau để tranh giành quyền thừa kế. Alp Arslan đánh bại Kutalmish và ngày 27 tháng 4 năm 1064 ông lên ngôi hoàng đế Đại Seljuk, đồng thời cũng trở thành vua Ba Tư trị vì trên một vùng đất trải dài từ sông Oxus tới sông Tigris.

Trong việc củng cố lại đế chế và triệt hạ các phe đối lập, Arslan đã nhận được sự hỗ trợ tài đắc lực từ quân sư Nizam al-Mulk. Cả hai người đều được ghi nhận trong việc giữ ổn định cho đế chế sau cái chết của Tughril. Sau khi thiết lập được hòa bình và an ninh trên lãnh thổ của mình, Arslan cho kêu gọi hội nghị toàn quốc vào năm 1066. Tại đây, ông phong con trai Malik Shah I làm thái tử. Với mong muốn chiếm Caesarea Mazaca, thủ phủ của Cappadocia, ông đích thân dẫn đầu đội kỵ binh người Thổ vượt sông Euphrates rồi tấn công và chiếm đóng thành phố. Cùng với Nizam al-Mulk, ông đem binh đánh Armenia và Gruzia và chiếm được hai nước trong năm 1064. Sau một cuộc vây hãm kéo dài 25 ngày, quân đội Seljuk chiếm được thành Ani, kinh đô của Armenia và chém giết dân chúng trong thành. Những miêu tả về vụ thảm sát tại thành Ani được sử gia Ả Rập Sibt ibn al-Jawzi dẫn lời một nhân chứng:

Chống lại Đông La Mã

trái|thumb|Trận Manzikert Trên đường đi đánh nhà Fatima, Alp Arslan xua quân xâm lược Đế quốc Đông La Mã. Hoàng đế Romanos IV Diogenes đích thân cầm đại binh gặp đội quân xâm lược ở Cilicia. Trong cả ba chiến dịch đầy khó khăn, cả ba lần người Thổ đều thất bại. Hai chiến dịch đầu tiên, quân La Mã do đích thân Hoàng đế cầm đầu, trong khi lần thứ ba được chỉ huy bởi Manuel Comnenos, ông chú của hoàng đế nổi danh Manuel Comnenos sau này. Trong thời gian này, tiểu vương Aleppo Rashid al-Dawla Mahmud thuộc gia tộc Mirdas đã quy thuận Arslan.

Năm 1071, đích thân Romanos tiến vào Armenia với 3 vạn quân, trong đó bao gồm đội quân người Thổ Cuman Turk cũng như quân người Frank và Norman, dưới sự chỉ huy của Ursel de Baieul. Alp Arslan đang đem quân về phía nam đánh nhà Fatima phải nhanh chóng quay trở lại để gặp quân La Mã. Tại Manzikert, bên bờ sông Murat, phía bắc hồ Van, hai đội quân giao chiến. Những lính đánh thuê người Cuman của quân La Mã lập tức đào thoát sang phía người Thổ. Thấy vậy, "những lính đánh thuê Tây cưỡi ngựa đi đường tắt và rời khỏi trận chiến." Romanos đã bị phản bội bởi tướng Andronikos Doukas, con trai của Caesar (con trai riêng của vợ Romanos), người đã tuyên bố rằng ông đã chết và dẫn phần lớn quân rời khỏi trận địa thay vì yểm trợ cho hoàng đế rút quân. Quân Đông La Mã gần như tan rã.

thumb|Alp Arslan làm nhục hoàng đế Romanos IV của [[Đế quốc Đông La Mã, sau khi ông đánh bại Romanus IV tại trận Manzikert.]] Hoàng đế Romanos IV bị bắt làm tù binh và được áp giải đến trước mặt Alp Arslan. Sau màn lăng nhục sỉ vả theo nghi lễ, Arslan cư xử với ông rất mực tử tế. Sau khi đàm phán hòa bình được chấp thuận, Arslan cho thả Hoàng đế, và tặng thêm quà cáp và cho người hộ tống. Cuộc trò chuyện sau đây được cho là đã diễn ra sau khi Romanos được đưa đến trước mặt Sultan:

:Alp Arslan: "Ngài sẽ làm gì nếu ta bị bắt làm tù bình và bị áp giải tới trước mặt ngài?" :Romanos: "Có lẽ ta sẽ giết ngài, hoặc đem bêu trên đường phố Constantinopolis." :Alp Arslan: "Hình phạt của ta còn nặng hơn nhiều. Ta sẽ quên ngài, và thả ngài tự do."

Chiến thắng của Alp Arslan làm thay đổi thế cân bằng ở Tiểu Á, và chuyển nó về hướng có lợi cho người Seljuk cũng như người Hồi giáo Sunni. Trong khi Đế quốc Đông La Mã có thể tồn tại thêm 400 năm nữa và những cuộc Thập tự chinh có thể thay đổi thế thượng phong của người Hồi giáo trong một thời gian ngắn nhưng chiến thắng tại Manzikert đánh dấu sự khởi đầu cho sự hiện diện của người Thổ tại Anatolia. Hầu hết các nhà sử học, trong đó có Edward Gibbon, đều coi thất bại tại Manzikert là khởi đầu cho sự suy vong của Đế quốc Đông La Mã.

Trị quốc

Alp Arslan chỉ chú trọng vào lĩnh vực quân sự. Việc điều hành quốc sự đã có vị tể tướng tài ba Nizam al-Mulk lo liệu. Vị tể tướng này thiết lập nên một cơ cấu hành chính và đã giúp củng cố Hồi quốc trong suốt triều đại của Alp Arslan và con trai ông Malik Shah. Các Thái ấp quân sự được điều hành bởi các hoàng tử Seljuk đã được thiết lập để cung cấp cho quân đội và thích ứng với người Thổ du mục để thiết lập nền nông nghiệp ở Anatolia. Loại thái ấp này giúp người Thổ du mục có thể thu thập tài nguyên từ những người định cư Ba Tư hay Thổ cũng như các nền văn hóa khác, và thu về dưới trướng Seljuq. Điều này cho phép Alp Arslan có thể điều động một đội quân thường trực lớn mà không phải phụ thuộc vào chiến lợi phẩm từ cuộc chinh chiến để trả cho binh lính. Ông không những có đủ lương thực từ thần dân của ông để có thể duy trì quân đội, việc đánh thuế các lái buôn và thương nhân cũng bổ sung không ít của cải vào kho bạc để đủ có thể tài trợ cho những cuộc chiến tranh liên miên.

Suleiman ibn Kutalmish là con trai của đối thủ của Alp Arslan; nhưng Alp Arslan đã bổ nhiệm con trai của người đã từng là kẻ thù của mình làm tổng trấn các tỉnh phía tây bắc và giao cho trọng trách hoàn thành công cuộc chinh phục xứ Anatolia. Lời giải đáp thích hợp cho sự lựa chọn này chỉ có thể được phỏng đoán dựa trên mô tả về trận chiến giữa Alp Arslan và Kutalmish của Ibn al-Athir, khi mà ông ta viết rằng Alp Arslan đã khóc vì cái chết của người đó và đã rất đau buồn vì phải mất đi một người thân.

Những yếu tố dưới đây được xem là đã dẫn đến thành công của Alp Arslan: Một lượng lớn người Turkoman, một bộ tộc đã di cư đến Ba Tư trong những cuộc chinh phạt của nhà Seljuk, đã được sử dụng trong các chuyến thám hiểm ở ngoài vùng đất thuộc người Hồi giáo kiểm soát (Dār al-Islām) cũng như ở những vùng đất không thuộc lãnh thổ của nhà Fatima Đội quân của Sultan được xem là bất khả chiến bại. Đội quân sở hữu sự cơ động cực cao. Ngoài ra, họ cũng được biết đến với lòng nhân từ, được thể hiên qua sự đối xử với quân thảo khấu. Những người cai quản các vùng đất bị chiếm, cho dù theo phái Sunni hay Shia, đều được giữ chức và làm chư hầu. Ngoài ra, các thành viên trong hoàng tộc Seljuk đều được bổ nhiệm làm tổng trấn ở các tỉnh. Alp Arslan ngăn chặn cảnh các con huynh đệ tương tàn tranh ngai vàng bằng cách phong thứ tử Malik Shah I (Malikšah) làm thái tử và bố cáo rộng rãi. *Ông có mối quan hệ tốt với Giáo chủ (Khalip) Al-Qā’im nhà Abbas.

Cái chết

Sau đại thắng tại Manzikert và đánh chiếm được một vùng lãnh thổ rộng lớn ở phía Tây, Alp Arslan chuyển đổi mục tiêu của mình, và nhắm vào Khách Lạt hãn quốc ở Turkestan, cội nguồn của gia đình ông. Ông đưa đại quân đến bờ sông Oxus. Để có thể vượt sông một cách an toàn, ông cần phải đánh chiếm một vài pháo đài bên bờ sông. Một trong những pháo đài được tướng người Khwarezm là Yussuf al-Kharezmi giữ. Phải mất nhiều ngày liền, Yussuf mới đầu hàng và bị áp giải đến trước mặt Sultan và bị Sultan hạ lệnh tử hình. Trong lúc tuyệt vọng, Yussuf vội rút con dao găm trong người và xông vào Sultan. Tự tin mình là một xạ thủ bách phát bách trúng vang danh thiên hạ, Alp Arslan hạ lệnh cho cận vệ không được động thủ. Ông dương cung nhắm vào Yussuf nhưng vô tình bị trượt chân còn mũi tên bị bắn chệch sang một bên và bị con dao găm của tên thích khách đâm vào ngực. Alp Arslan bị thương nặng và qua đời 4 ngày sau đó, vào ngày 25 tháng 11 năm 1072 khi mới 43 tuổi. Trước khi lâm chung, ông nói với con trai Malik Shah rằng ông chết là do chính sự kiêu ngạo của ông. Thi hài của ông được đưa tới Merv và được chôn cất bên cạnh mộ của phụ thân ông, Chaghri Beg.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Alp Arslan** (; tên đầy đủ: _Diya ad-Dunya wa ad-Din Adud ad-Dawlah Abu Shuja Muhammad Alp Arslan ibn Dawud_ ; 1029 – 15 tháng 12, 1072) là vị sultan thứ hai của nhà Seljuk và
**Trận Manzikert** là một trận đánh diễn ra vào ngày 26 tháng 8 năm 1071 ở gần Manzikert (Malazgirt, tỉnh Muş, Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay) giữa đế quốc Byzantium (Đông La Mã) và đế
**Malik-Shah I** (; 8 tháng 8 năm 1055 – 19 tháng 11 năm 1092, tên đầy đủ: _Jalāl al-Dawla Mu'izz al-Dunyā Wa'l-Din Abu'l-Fatḥ ibn Alp Arslān_, ), là hoàng đế (Sultan) của Đế quốc Đại
**Hồ Van** (, , ) là hồ lớn nhất tại Thổ Nhĩ Kỳ, nằm xa về phía đông của quốc gia này. Nó là một hồ nước mặn, nhận nước từ một loạt các con
**Lịch sử của Azerbaijan** là lịch sử của người Azerbaijan và các khu vực liên quan đến lịch sử, dân tộc và địa lý của người Azerbaijan. Dưới sự cai trị của Media và Ba
**Romanos IV Diogenes** (, _Rōmanós IV Diogénēs_; khoảng 1030 – 1072), là một thành viên thuộc tầng lớp vũ huân quý tộc kết hôn với vị hoàng hậu góa bụa Eudokia Makrembolitissa, đã đăng quang
**Nasir ad-Din Mahmud I** là hoàng đế (sultan) của Đế quốc Seljuk từ năm 1092 đến 1094. Ông kế nhiệm vua cha Malik Shah I làm Sultan, nhưng ông không thể kiểm soát được đế
**Đế quốc Seljuk** hay **Đế quốc Đại Seljuk** (còn được đọc là **Seljuq**) () là một đế quốc Đột Quyết-Ba Tư theo phái Sunni của đạo Islam, khởi nguồn từ nhánh Qynyq của người Thổ
Ngày **26 tháng 8** là ngày thứ 238 (239 trong năm nhuận) trong lịch Gregory. Còn 127 ngày trong năm. ## Sự kiện *1071 – Quân Thổ Seljuk dưới quyền lãnh đạo của Alp Arslan
Ngày **15 tháng 12** là ngày thứ 349 (350 trong năm nhuận) trong lịch Gregory. Còn 16 ngày nữa là cuối năm. ## Sự kiện *533 – Tướng Belisarius đánh bại Vandals, dưới sự chỉ
**Nhà Abbas** ( / ALA-LC: _al-Khilāfah al-‘Abbāsīyyah_) trong tiếng Việt còn được gọi là nước **Đại Thực** theo cách gọi của người Trung Quốc (大食) là triều đại Hồi giáo (khalifah) thứ ba của người
thumb|Ashgabat nhìn từ trên không **Ashgabat** (, ; ) — từng có tên **Poltoratsk** () từ năm 1919 đến 1927, là thủ đô và thành phố lớn nhất của Turkmenistan, nằm giữa hoang mạc Karakum
**Đế quốc Byzantine**, còn được gọi là **Đế quốc Đông La Mã**, là sự tiếp nối của Đế quốc La Mã ở các tỉnh phía đông trong thời kỳ Hậu Cổ đại và Trung cổ
Đế quốc Đông La Mã trước cuộc [[thập tự chinh lần thứ nhất.]] Đế quốc Đông La Mã dưới thời [[Manuel I Komnenos, những năm 1170. Lúc này, một phần lớn Tiểu Á và bán
**Rustavi** (tiếng Gruzia: რუსთავი) là một thành phố ở đông nam Gruzia. Thành phố này thuộc vùng Kvemo Kartli, dân số năm 2009 là 117.400 người. Thành phố có cự ly 25 km về phía đông
nhỏ|Chiến thuật Parthia **Chiến thuật Parthia**, hay **chiến thuật người Parthia bắn cung** (tiếng Anh: _Parthian shot_) là chiến thuật kỵ binh hạng nhẹ được sáng tạo và sử dụng bởi quân đội của Đế
nhỏ|Chữ graffiti chống Kitô giáo tại [[Viên, Áo với nội dung ()]] **Tâm lý chống Kitô giáo** là nguyên nhân gây ra sự căm ghét, phân biệt đối xử, thành kiến và nỗi sợ đối
**Mikhael VII Doukas** (Hy Lạp: Μιχαήλ Ζ΄ Δούκας, _Mikhaēl VII Doukas_; khoảng 1050 – 1090), biệt danh _Parapinakēs_ (Παραπινάκης, nghĩa là "trừ một phần tư", liên quan đến sự mất giá của tiền tệ Đông La
thumb|right|upright=1.35|[[Trận Little Bighorn được biết đến với cái tên Cuộc tử thủ của Custer]] Thảm họa quân sự là một bên thất bại trong trận chiến hoặc chiến tranh dẫn đến việc bên thua cuộc