✨Tâm lý chống Kitô giáo

Tâm lý chống Kitô giáo

nhỏ|Chữ graffiti chống Kitô giáo tại [[Viên, Áo với nội dung ()]] Tâm lý chống Kitô giáo là nguyên nhân gây ra sự căm ghét, phân biệt đối xử, thành kiến và nỗi sợ đối với tín hữu Kitô giáo, đạo Kitô giáo và các thực hành của tôn giáo này. Tâm lý này cũng là một kiểu bất khoan dung tôn giáo và kỳ thị tôn giáo. Những người chống Kitô giáo có thể là tín hữu của các tôn giáo ngoài Kitô giáo hoặc là những người theo chủ nghĩa thế tục. Hậu quả mà tâm lý chống Kitô giáo gây ra có thể là phát ngôn thù hận, sự khuyến khích thực hiện tội ác do thù hận, sự thành lập các nhóm thù hận hoặc là các hành vi kỳ thị khác. Tâm lý chống Kitô giáo lan rộng có thể gán sự kỳ thị của xã hội lên các Kitô hữu hoặc tín ngưỡng Kitô giáo, gây ra sự bất bình đẳng xã hội đối với Kitô hữu.

Tâm lý này thi thoảng được gọi trong tiếng Anh là , mặc dù thuật từ này bao hàm "tất cả các dạng kỳ thị và bất khoan dung đối với các Kitô hữu", theo Liên Hội đồng Giám mục châu Âu.

Thời Hy-La cổ điển

Tâm lý chống Kitô giáo hình thành vào thế kỷ 1 sau công nguyên tại Đế quốc La Mã. Người dân thành Roma và các nhà chức trách đương thời có cái nhìn ngờ vực đối với sự phát triển đều đặn của phong trào Kitô giáo, tạo điều kiện khởi phát cuộc bách hại Kitô hữu đầu tiên tại Đế quốc La Mã. Trong thế kỷ 2, Kitô giáo bị coi là một phong trào tiêu cực theo hai giai đoạn: giai đoạn thứ nhất đặc trưng bởi sự buộc tội của người La Mã đối với tín hữu Kitô giáo dựa vào các nguyên tắc đạo đức của nước mình, kéo dài nhiều thập kỷ; giai đoạn thứ hai diễn ra vào cuối thế kỷ 2, khi nhiều tranh cãi về Kitô giáo bắt đầu nảy sinh trong giới tri thức.

Người ta có thể nhận biết được tâm lý chống Kitô giáo khi đọc Kinh Thánh Tân Ước, và dường như tâm lý này đã được Đức Jesu Nazareth biết trước, vì các tiên đoán của ông đã được các tác giả của các sách Tin Mừng minh chứng bằng tư liệu. Tâm lý chống Kitô giáo sơ khởi không chỉ được biểu lộ bởi người La Mã, mà còn bởi người Do Thái. Bởi vì Kitô giáo là một giáo phái phát sinh phần lớn từ Do Thái giáo vào thời điểm đó, nên tâm lý này nói lên sự tức giận của một tôn giáo có tiếng đối với một tôn giáo mới và mang tính cách mạng. Paulus xứ Tarsus, người đã nhiều lần bách hại các Kitô hữu trước khi trở thành Kitô hữu, đã nêu bật lên rằng sự kiện đóng đinh Đức Jesu vào thập giá là một "chướng ngại vật" đối với người Do Thái, và rằng một đấng Messias phải chết trên thập giá là một sự xúc phạm đối với một số người Do Thái vì họ đã chờ đợi một đấng Messias có những đặc điểm khác Đức Jesu.

Thời Trung cổ

Muḥammad (570 – 632) từng nói rằng: "Tôi sẽ trục xuất tất cả người Do Thái và Kitô hữu khỏi bán đảo Ả Rập, không giữ lại một người nào ngoài các tín hữu Islam". Sir William Muir cho rằng Muḥammad "ghê tởm thánh giá đến nỗi bất cứ vật nào trong nhà mang trên mình hình thập giá đều bị ông đập cho vỡ nát". Theo một ḥadīth của truyền thống Islam giáo, vợ của Muḥammad là bà 'Ā'ishah từng nói rằng: "Tôi chưa bao giờ có ý định mang vào tư gia của Tiên tri một thứ gì có hình ảnh hoặc có hình thập giá nhưng ông ấy đã phá sạch tất cả những thứ ấy". Muḥammad cũng nói tiên tri rằng vào thời Jesu giáng sinh lần thứ hai, ông sẽ bẻ gẫy cây thập giá (tức là xóa sổ Kitô giáo), bãi bỏ thuế jizya áp trên đầu người Kitô hữu, buộc họ phải chọn hoặc là cải sang đạo Islam hoặc là chịu chết, và rằng thánh Allāh sẽ xóa sổ tất cả các tôn giáo khác ngoài đạo Islam.

Khalip Abū Bakr từng bảo với các tín hữu Islam sơ khởi rằng:

Các anh em cũng sẽ gặp những người của quỷ Satan bái thờ Thánh giá [Kitô hữu]. Họ cạo trọc tóc trên đỉnh đầu và để lộ ra hộp sọ [giới tu sĩ]. Anh em hãy chém đầu một số người trong số họ cho tới khi họ hoặc là chấp nhận theo đạo Islam hoặc là chịu nộp thuế jizya trong ô nhục. Giờ đây ta đặt anh em trong tay thánh Allāh, nguyện xin Người bảo vệ anh em.
Về chủ đề tâm lý chống Kitô giáo lịch sử của các tín hữu Islam sơ khởi, giáo sư Sidney H. Griffith từng giải thích rằng "Thánh giá và các ảnh tượng tuyên bố công khai một số điểm trong tín ngưỡng Kitô giáo, mà theo quan điểm của các tín hữu Islam, đã bị Kinh Qur'ān phủ nhận: rằng Đức Kitô là Con Thiên Chúa và đã chết trên cây thập giá". Vì lí do đó, "việc người Kitô hữu tôn kính Thánh giá, ảnh tượng Chúa Kitô và các thánh luôn khơi dậy trong lòng tín hữu Islam một thái độ khinh thường", và cũng vì thế mà thời đó từng tồn tại một "chiến dịch nhằm xóa bỏ các biểu tượng Kitô giáo phổ cập [tại các vùng đất Kitô giáo xưa, chẳng hạn như Ai Cập và Syria], cách đặc biệt nhắm đến biểu tượng Thánh giá hiện diện tại khắp mọi nơi. Đã có nhiều bằng chứng khảo cổ cho thấy nhiều tranh ảnh [và Thánh giá] Kitô giáo bị phá hoại trong thời kỳ Islam giáo sơ khai, xảy ra trong các cuộc xung đột với người Islam giáo – những người mà truyền thống tôn kính Kitô giáo khơi gợi".

Một luật gia lỗi lạc người Al-Andalus tên là Ibn Rushd từng ra lệnh rằng: "các thánh giá mạ vàng [mà ta tước đoạt được] phải được phân thành nhiều mảnh trước khi mang đi phân phát". "Còn đối với các sách thánh của họ [Kinh Thánh], ta buộc phải tìm cách triệt tiêu chúng", ông nói thêm (về sau ông đã đính chính lại rằng nếu như không thể xóa hết được chữ viết trong một cuốn sách thánh của Kitô giáo để đem bán dưới dạng một quyển sách trống rỗng thì phải đem thiêu hủy nó đi). Trong thời kỳ này, có một bài luận thuyết chống Kitô giáo với tựa đề "Búa [để đập bỏ] thánh giá" được xuất bản tại Al-Andalus.

Nhà thơ người Ba Tư Mu'izzī đã thúc giục cháu của mình là Sultan Alp Arslan phải tiệt trừ và tiêu diệt tất cả người Kitô giáo trên thế giới thông qua một cuộc diệt chủng:

Vì lợi ích của tôn giáo Ả Rập, hỡi đức vua hay chống quân dị giáo, bổn phận của ngài chính là giải phóng nước Syria do các thượng phụ và giám mục làm thủ lãnh, và quét sạch các linh mục và tu sĩ ra khỏi xứ Rûm [Tiểu Á]. Ngài hãy giết chết những con chó đáng ghê tởm và những sinh vật thảm hại ấy... Ngài hãy... cắt cổ chúng... Hãy biến đầu của lũ người Frank thành những trái mã cầu trên sa mạc và biến tay chân của chúng thành những cây vồ cán dài.
Marco Polo từng đi khắp phương Đông trong suốt thế kỷ 12 và đưa ra một nhận xét về dân xứ Ả Rập: "Những người định cư ở đây toàn là người Saracen [tín hữu Islam] và họ cực kỳ căm ghét những người theo đạo Kitô". Ông Polo cũng cho rằng: "quả thật, tất cả người dân Saracen đều có một điểm chung, đó là họ hiệp ý chúc dữ cho tất cả Kitô hữu trên khắp địa cầu".

Thời Cận đại

Trong thời kỳ Cải cách Kháng nghị, tâm lý chống Kitô giáo phát triển mạnh mẽ với sự trỗi dậy của chủ nghĩa vô thần. Trong Triều đại Khủng bố (một giai đoạn của cuộc Cách mạng Pháp), các nhà cách mạng cực đoan và bè phái của họ mong ước thực hiện một cuộc cách mạng văn hóa nhằm triệt tiêu mọi ảnh hưởng của Kitô giáo khỏi nhà nước Pháp. Vào năm 1789, đất đai của nhà thờ bị cưỡng đoạt và các linh mục hoặc phải chịu chết hoặc bị trục xuất khỏi nước Pháp. Đến năm 1792, các giáo sĩ không tuyên thệ với nhà nước (, ) bị nhắm đến và dần bị thay thế bởi các linh mục triều thuộc phái Jacobin. Năm 1793 chứng kiến sự gia tăng trong tâm lý chống Kitô giáo khi nhà nước Cách mạng Pháp tiến hành chiến dịch xóa bỏ Kitô giáo, thành lập nhiều tín ngưỡng luân lý mới, trong đó có tín ngưỡng sùng bái Đấng Tối cao thuộc tự nhiên thần luận và tín ngưỡng sùng bái Lý tính thuộc vô thần luận. Nhiều linh mục và nữ tu Công giáo người Pháp đã bị bức tử trong những vụ đuối nước ở Nantes do Jean-Baptiste Carrier chỉ đạo. Vụ đuối nước đầu tiên được thực hiện vào đêm ngày 16 tháng 11 năm 1793. Các nạn nhân bao gồm 160 linh mục bị giam giữ và bị Hội nghị Quốc ước coi là các "giáo sĩ bướng bỉnh".

Thời Hậu cận đại

phải|nhỏ|Các tín hữu Kitô giáo tại [[Đế quốc Osman chạy trốn khỏi nhà mình, . Nhiều Kitô hữu phải chịu bách hại hoặc là chịu chết trong các cuộc diệt chủng người Armenia, người Hy Lạp và người Assyria.]] Khi nhà văn người Anh Charles Montagu Doughty chu du bán đảo Ả Rập, ông được người Ả Rập du cư ở địa phương cho biết rằng: "Ông đã được an toàn ở nước của ông, và rất có thể ông sẽ tiếp tục được an toàn ở đó; nhưng vì ông đang ở xứ sở của người Moslemin [người theo đạo Islam], Thiên Chúa đã đưa ngài vào tay của chúng tôi để chịu chết—và ngài truyền cho chúng tôi tiêu diệt tất cả người Naṣārā [Kitô hữu]! Các người sẽ bị thiêu đốt dưới hỏa ngục cùng với Shayṭān [Satan], cha các người". Ông Doughty cũng ghi lại việc người Hồi giáo ở Ả Rập nài xin thánh Allāh "nguyền rủa và tiêu diệt" người Do Thái và người theo Kitô giáo khi đi bộ xung quanh Kaʿbah.

Nhiều Kitô hữu phải chịu bách hại hoặc là chịu chết trong các cuộc diệt chủng người Armenia, người Hy Lạp và người Assyria.

Vụ danh phiếu () là một sự kiện chính trị gây phẫn nộ trong công chúng nổ ra vào năm 1904 tại Pháp, trong thời kỳ Đệ Tam Cộng hòa. Từ năm 1900 đến năm 1904, các chính quyền tỉnh, các hội quán Tam Điểm () thuộc Đại hội quán tại Pháp cùng một số mạng lưới tình báo khác đã tạo ra các trang tính dữ liệu và thiết lập một hệ thống giám sát bí mật bao gồm thông tin của toàn bộ sĩ quan trong quân đội nhằm đảm bảo rằng những sĩ quan theo Kitô giáo sẽ không được thăng quan tiến chức, trong khi những sĩ quan có "tư tưởng tự do" thì ngược lại.

Cuộc khởi nghĩa Cristero (1926–1929) là một phong trào đấu tranh rộng khắp tại Tại miền Trung và miền Tây nước México để phản đối việc thi hành các điều khoản thế tục và chống giáo quyền tại Hiến pháp của nước này. Cuộc khởi nghĩa được dấy lên nhằm đáp trả lại một sắc lệnh hành pháp của Tổng thống México đương thời là ông Plutarco Elías Calles, một động thái mà sau này được gọi là đạo luật Calles; theo đó ông yêu cầu điều 130 của Hiến pháp được thi hành cách nghiêm ngặt hơn. Âm mưu của Tổng thống Calles là loại bỏ quyền lực của Giáo hội Công giáo tại México, của các tổ chức có liên kết với Giáo hội Công giáo México và đàn áp lòng mộ đạo của quần chúng nhân dân. Trong nỗ lực thi hành đạo luật này, Calles đã tịch thu tài sản của Giáo hội, trục xuất các linh mục người nước ngoài, đóng cửa tu viện nam, tu viện nữ và trường học có tôn giáo. Một số người coi Calles là lãnh đạo của một nhà nước vô thần và xem chương trình của ông như một phương cách tiệt trừ tôn giáo tại México. Thống đốc bang Tabasco là ông Tomás Garrido Canabal đã thực hiện nhiều cuộc bách hại nhằm vào Giáo hội Công giáo tại bang của mình, khiến nhiều linh mục và giáo dân tử vong và hầu hết các công trình tôn giáo bị phá hủy.

Nạn Khủng bố Đỏ tại Tây Ban Nha đã gây ra nhiều hành vi bạo lực, bao gồm việc trưng dụng và đốt phá các tu viện nam, tu viện nữ và nhà thờ. Cuộc đảo chính bất thành tháng 7 năm 1936 đã mở màn cho một cuộc tấn công ác liệt nhằm vào những người bị giới cách mạng trong địa phận của quân Cộng hòa coi là kẻ thù: "trong nhiều tháng sau đó, ở những nơi nào mà khởi nghĩa bất thành, một người chỉ cần là linh mục, tu sĩ, một người lính theo đạo Công giáo hay là một thành viên của một tổ chức mang tính mộ đạo hoặc tông đồ là đã đủ để bị hành quyết không qua xét xử".

Mặc dù chính quyền Đức Quốc Xã chưa từng tuyên bố một Kirchenkampf () chống lại các giáo hội Kitô giáo, các quan chức hàng đầu của chính quyền Quốc xã từng thoải mái bày tỏ sự khinh thường của họ đối với các giáo huấn của Kitô giáo trong các cuộc trò chuyện riêng tư. Tư tưởng Quốc Xã mâu thuẫn với đức tin Kitô giáo truyền thống về nhiều chiều kích – các đảng viên Quốc Xã chỉ trích quan niệm của Kitô giáo về "sự ôn nhu và tội lỗi" và cho rằng những quan niệm này "đè nén bản năng thô bạo cần thiết đối với chủng tộc Aryan nhằm phòng ngừa việc bị các chủng tộc thấp kém hơn thống trị". Những phần tử cực đoan có quan điểm chống giáo hội cách xông xáo như Alfred Rosenberg và Martin Bormann coi sự đối đầu với các giáo hội là mối quan tâm được ưu tiên, và tâm lý chống giáo hội cũng như chống giáo quyền rất thịnh hành trong giới hoạt động đảng ở cơ sở. Bản thân Hitler là một người coi thường Kitô giáo, theo như lời văn của Alan Bullock:

Trong mắt của Hitler, Kitô giáo là một tôn giáo chỉ dành cho những kẻ làm tôi tớ; cách riêng, ông ấy căm ghét các giá trị luân lý của Kitô giáo. Hitler cho rằng những lời dạy của Kitô giáo là một cuộc đấu tranh chống lại quy luật chọn lọc tự nhiên thông qua đấu tranh và sự sống sót của cá thể thích nghi tốt nhất.

Thời Hiện đại

nhỏ|Ngôi nhà thờ bị đốt phá trong vụ bạo lực Kandhamal năm 2008 tại bang [[Odisha, Ấn Độ.]] Bách hại Kitô hữu hậu Chiến tranh Lạnh bao hàm sự bách hại đối với tín hữu Kitô giáo tại châu Phi, châu Mỹ, châu Âu, châu Á và vùng Trung Đông trong giai đoạn từ năm 1989 đến nay.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
nhỏ|Chữ graffiti chống Kitô giáo tại [[Viên, Áo với nội dung ()]] **Tâm lý chống Kitô giáo** là nguyên nhân gây ra sự căm ghét, phân biệt đối xử, thành kiến và nỗi sợ đối
**Kitô giáo** hay **Cơ Đốc giáo**, ở Việt Nam đôi khi gọi là **đạo Thiên Chúa** hay **Thiên Chúa giáo**, là một tôn giáo truyền thống Abraham độc thần, đặt nền tảng vào cuộc đời,
nhỏ|Các tín đồ Triết học Kitô giáo|255x255px **Triết học Kitô giáo** là một sự phát triển của một hệ thống triết học đặc trưng của truyền thống Kitô giáo. ## Triết học Hy Lạp và
nhỏ|250x250px|Các cử tri của đảng [[Liên minh Dân chủ Kitô giáo Đức mít tinh vào năm 1990 tại thành phố Dessau, CHDC Đức]] **Dân chủ Kitô giáo** là một hệ tư tưởng chính trị xuất
**Nhà nước Hồi giáo Iraq và Levant** (, chuyển tự: **', viết tắt: **Da'ish** hoặc **Daesh**, viết tắt theo tiếng Anh: **ISIL**); còn được biết đến với tên gọi **Nhà nước Hồi giáo Iraq và
**Vai trò của Kitô giáo với nền văn minh nhân loại** rất lớn và phức tạp. Nó đan xen với lịch sử và sự hình thành của xã hội phương Tây, và nó đã đóng
**Chủ nghĩa vô thần Kitô giáo** là một trường phái thần học trong đó phủ nhận sự hiện hữu của một Thiên Chúa tồn tại độc lập với con người và chỉ tin vào sự
**Văn hóa Kitô giáo** là tập tục văn hóa phổ biến trong Kitô giáo. Với sự mở rộng nhanh chóng của Kitô giáo sang châu Âu, Syria, Lưỡng Hà, Tiểu Á, Ai Cập, Ethiopia và
nhỏ|phải|Con _quỷ dữ_ được nhắc đến lần đầu trong [[Kinh thánh là _con rắn độc_ xảo quyệt ở Vườn Địa Đàng đã cám dỗ Eva ăn trái cấm]] **Quỷ dữ** trong quan niệm của Cơ
**Âm nhạc Kitô giáo** là các thể loại nhạc diễn tả niềm tin cá nhân hoặc cộng đoàn trong cuộc sống và đức tin Kitô giáo (Cơ Đốc giáo), được hình thành để phục vụ
**Trái Tim Cực Thánh Chúa Giêsu** (tiếng Latinh: ; thường gọi là: **Thánh Tâm Chúa Giêsu**) là một truyền thống sùng kính phổ biến trong Giáo hội Công giáo Rôma, qua việc liên tưởng trái
thumb|[[Al-Masjid an-Nabawi ở Medina, một trong những nhà thờ Hồi giáo linh thiêng nhất]] **Thánh đường Hồi giáo**, **giáo đường Hồi giáo** hay **nhà thờ Hồi giáo** ( — , số nhiều: _masājid_, — ;
**Giáo hội Công giáo**, gọi đầy đủ là **Giáo hội Công giáo Rôma**, là giáo hội Kitô giáo được hiệp thông hoàn toàn với vị giám mục giáo phận Rôma, hiện tại là Giáo hoàng
**Lịch sử của chế độ Giáo hoàng** là một lịch sử lâu dài kéo dài trong suốt 2000 năm với rất nhiều sự kiện và biến động. Giáo hội Công giáo nhìn nhận Giáo hoàng
**Biên niên sử Giáo hội Công giáo Rôma** này ghi lại nhiều sự kiện xảy ra trong lịch sử Giáo hội Công giáo Rôma trải dài gần hai nghìn năm, song song cùng lịch sử
nhỏ|phải|_Chúa Kitô Toàn năng_, tranh vẽ [[thế kỷ 6|thế kỷ thứ 6, bức linh ảnh cổ xưa tại Tu viện Thánh Catarina (Sinai).]] **Giáo hội Chính thống giáo Đông phương**, tên chính thức là **Giáo
**Giáo hoàng Piô XII** (Tiếng Latinh: _Pius PP. XII_, Tiếng Ý: _Pio XII_, tên khai sinh là **Eugenio Maria Giuseppe Giovanni Pacelli**, 2 tháng 6 năm 1876 – 9 tháng 10 năm 1958) là vị
**Công giáo tại Việt Nam** là một bộ phận của Giáo hội Công giáo, dưới sự lãnh đạo tinh thần của các giám mục tại Việt Nam, hiệp thông với giáo hoàng. Với số tỉ
**Đại Ly giáo** hay **Ly giáo Đông–Tây** là sự kiện chia rẽ Kitô giáo xảy ra vào thời Trung Cổ mà kết quả là hai hệ phái Kitô giáo được hình thành: phương Đông (theo
**Lịch sử của Giáo hội Công giáo Việt Nam từ năm 1975 đến năm 1990** có nhiều điểm đặc thù riêng. Đây là giai đoạn 15 năm thứ hai kể từ khi thiết lập hàng
nhỏ|phải|Đền thờ của Giáo hội Các Thánh hữu Ngày sau của [[Giê-su|Chúa Giêsu Kitô tại Quảng trường Đền thờ, thành phố Salt Lake, tiểu bang Utah, Hoa Kỳ]] nhỏ|[[Quảng trường Đền thờ, ảnh khoảng năm
**Giáo hội Cây Ô liu** (_Olive Tree_) một phong trào tôn giáo mới theo hệ phái Cơ đốc giáo được Park Tae Son (박태선/_Park T'aesŏn_/朴泰善) thành lập tại Hàn Quốc. Phong trào này ban đầu
**Cơ Đốc giáo tại Hàn Quốc** đã phát triển ngoạn mục trong vài thập kỷ qua. Theo thống kê năm 2007 của chính phủ Hoa Kỳ, gần một phần ba (26,3%) dân số Hàn Quốc
liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:Galileo_before_the_Holy_Office_-_Joseph-Nicolas_Robert-Fleury,_1847.png|nhỏ|Galileo trước Thánh bộ, tranh thế kỷ 19 của [[Joseph-Nicolas Robert-Fleury]] **Tòa thẩm giáo** (Latinh: _Inquisitio_) là hệ thống các tòa án mà các thẩm phán của Giáo hội Công giáo có thể khởi tố,
**Cuồng giáo** hay **tà giáo** là thuật ngữ đề cập đến một nhóm xã hội được xác định bởi niềm tin tới mức mù quáng vào một tư tưởng tôn giáo, tinh thần, triết học
**Giáo hội Cơ Đốc Phục Lâm** là một giáo phái Cơ Đốc giáo, được xếp vào nhánh Cải Chánh Giáo. Tuy nhận mình là thuộc Cơ Đốc giáo nhưng giáo hội này được phân biệt
**Giáo hội Phương Đông Assyria** tên chính thức là **Giáo hội Phương Đông Thánh thiện Tông truyền Công giáo Assyria** (tiếng Syriac: ܥܕܬܐ ܩܕܝܫܬܐ ܘܫܠܝܚܝܬܐ ܩܬܘܠܝܩܝ ܕܡܕܢܚܐ ܕܐܬܘܪܝܐ ʻIttā Qaddishtā w-Shlikhāitā Qattoliqi d-Madnĕkhā d-Āturāyē) là
**Giáo hoàng Grêgôriô I** (Latinh: _Gregorius I_), thường được biết đến là **Thánh Grêgôriô Cả**, là vị giáo hoàng thứ 64 của Giáo hội Công giáo. Cùng với Giáo hoàng Lêôn I, ông được suy
**Phong trào Giám lý** là một nhóm các giáo hội có mối quan hệ lịch sử với nhau thuộc cộng đồng Kháng Cách. Bắt nguồn từ cuộc chấn hưng tôn giáo khởi phát bởi John
Các sử gia và những người chỉ trích xem các tín hữu Cơ Đốc theo khuynh hướng **Thanh giáo** ở Anh vào thế kỷ 16 và 17 là những người tìm kiếm "sự tinh tuyền"
**Grêgôriô VII** (Latinh: **Gregorius VII**) là một giáo hoàng có vai trò rất lớn đối với lịch sử giáo hội Công giáo và được suy tôn là thánh sau khi qua đời. Ông là nhân
**Ủy ban Đoàn kết Công giáo Việt Nam** là một tổ chức xã hội tại Việt Nam, là một tổ chức thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Tuy thành viên của Ủy
[[Nhà thờ chính tòa Canterbury, Tổng Giám mục Canterbury là nhà lãnh đạo danh dự của Cộng đồng Anh giáo.]] **Anh giáo** là một truyền thống Kitô giáo Tây phương bao gồm những giáo hội
**Công giáo**(Công giáo La Mã) (chữ Anh: _Catholicity of the Church_, chữ Hi Lạp cổ: καθολικός _katholikós_, dịch nghĩa: Tính đại công của Hội Thánh), hoặc gọi **Giáo hội phổ quát**, **Hội Thánh đại công**,
**Damasus I** (Tiếng Việt: **Đamasô I**) là Giáo hoàng kế nhiệm Giáo hoàng Liberius và là Giáo hoàng thứ 37 của Giáo hội Công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1861 thì ông lên
nhỏ|phải|Biểu tượng của Giáo phái Dòng Đền thờ Mặt trời (Order of the Solar Temple) **Giáo phái Đền Mặt trời** (_Order of the Solar Temple_) hay **Dòng Đền thờ Thái dương** (_Ordre du Temple solaire_,
Các **Giáo hội Công giáo Cổ** có gốc gác từ các nhóm đã phân ly khỏi Giáo hội Công giáo Rôma vào những thời điểm khác nhau, do bất đồng về một số giáo lý
nhỏ|phải|Một bức thư tình của giáo chủ Jung Myung-seok **Giáo phái JMS** (_Jesus Morning Star_) hay còn gọi là **Providence** tên đầy đủ là **Christian Gospel Mission** (_Giáo đoàn Phúc âm Cơ Đốc_/tiếng Hàn: 기독교복음선교회)
**Giáo hội Tin mừng Quốc tế** (_The Good News International Ministries_/**GNIM**) hay **Nhà thờ Quốc tế Tin lành** (_Good News International Church_) hay **Giáo hội quốc tế** và còn được gọi là **Giáo phái Shakahola**
**Giáo điều**, hay còn gọi là **tín điều**, theo nghĩa rộng là bất cứ niềm xác tín nào không thể nghi vấn. Giáo điều là những nguyên lý mà người ta tiếp thu một cách
**Giáo hoàng Biển Đức XIV** (Tiếng La Tinh: _Benedictus XIV_), còn gọi là **Bênêđíctô XIV** (31 tháng 3 năm 1675 – 3 tháng 5 năm 1758, tên khai sinh: **Prospero Lorenzo Lambertini**) là một giáo
right|thumb|[[Phân tầng xã hội truyền thống của những nước phương tây trong thế kỷ XV]] right|thumb **Giáo hội và nhà nước ở châu Âu thời trung cổ** nêu rõ sự tách biệt nguyên tắc phân
**Thánh Giáo hoàng Phaolô VI** (tiếng Latinh: _Paulus VI_; tiếng Ý: _Paolo VI_, tên khai sinh: **Giovanni Battista Enrico Antonio Maria Montini**; 26 tháng 9 năm 1897 – 6 tháng 8 năm 1978) là giáo
thumb|[[Phúc Âm|Phúc âm nói về Kẻ dị giáo và con Rắn. Nhà thờ Gustaf Vasa, Stockholm, tác phẩm điêu khắc của Burchard Precht]] thumb|Một bức tượng ở [[Vienna miêu tả Thánh Inhaxiô nhà Loyola chà
**Gioan Phaolô II** (hay **Gioan Phaolô Đệ Nhị;** tiếng Latinh: _Ioannes Paulus II_; tên khai sinh: **Karol Józef Wojtyła,** ; 18 tháng 5 năm 1920 – 2 tháng 4 năm 2005) là vị giáo hoàng
**Giáo hoàng Piô XI** (tiếng Latinh: **Pius XI**, tiếng Ý: **Pio XI**) là vị Giáo hoàng thứ 259 của Giáo hội Công giáo Rôma. Theo niên giám tòa thánh năm 2003 xác định ngày đắc
Biểu trưng thường gặp của các tôn giáo Abraham: [[Ngôi sao David (ở trên cùng) của Do Thái giáo, Thánh giá (ở dưới bên trái) của Cơ Đốc giáo, và từ Allah được viết theo
liên_kết=https://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BA%ADp tin:Rosarium_philosphorum_Soul.jpg#/media/File:Rosarium_philosphorum_Soul.jpg|nhỏ|Hình ảnh của linh hồn trong triết học Rosarium. **Tâm hồn** trong nhiều truyền thống tôn giáo, triết học và thần thoại, là bản chất hợp nhất của một sinh vật. Tâm hồn trong
**Tôn giáo tại Hoa Kỳ** đặc trưng bởi sự đa dạng các niềm tin và thực hành tôn giáo. Theo các cuộc thăm dò ý kiến gần đây, 76% tổng số dân Hoa Kỳ nhận
**Biển Đức XVI** (cách phiên âm tiếng Việt khác là _Bênêđictô XVI_ hay _Bênêđitô_, xuất phát từ Latinh: _Benedictus_; tên khai sinh là **Joseph Aloisius Ratzinger**; 16 tháng 4 năm 1927 – 31 tháng 12