Giáo hoàng Biển Đức XIV (Tiếng La Tinh: Benedictus XIV), còn gọi là Bênêđíctô XIV (31 tháng 3 năm 1675 – 3 tháng 5 năm 1758, tên khai sinh: Prospero Lorenzo Lambertini) là một giáo hoàng, cai quản Giáo hội Công giáo Rôma từ ngày 17 tháng 8 năm 1740 đến ngày 3 tháng 5 năm 1758.
Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông đắc cử Giáo hoàng năm 1740 và ở ngôi Giáo hoàng trong 17 năm 8 tháng 6 ngày. Niên giám tòa thánh năm 2003 xác định ông đắc cử Giáo hoàng ngày 17 tháng 8 năm 1740, ngày khai mạc chức vụ mục tử đoàn chiên chúa là ngày 21 tháng 8 và ngày kết thúc triều đại của ông là ngày 3 tháng 5 năm 1758.
Giáo hoàng Biển Đức XIV sinh tại Bologna vào ngày 21 tháng 3 năm 1675. Ông có tên gọi là Prospero Lorenzo Lambertini.
Cuộc bầu cử
Từ 1701, Prospero Lorenzo Lambertini làm việc trong giáo triều Rôma. Năm 1726 ông được phong chức Hồng y. Năm 1740, cuộc bầu cử người lên kế vị Giáo hoàng Clêmentê XII kéo dài quá lâu (hơn 6 tháng), giữa lúc Hồng y đoàn tỏ ra do dự không biết bầu ai, Hồng y Lambertini đứng lên nói:
Và Lambertini đã đắc cử. Ngày 17 tháng 8 năm 1740, ông được bầu lên Giáo hoàng, tông hiệu là Biển Đức XIV. Tuy không phải là một Giáo hoàng vĩ đại nhưng ông đã tỏ ra là một Giáo hoàng tốt về phần đời, là một học giả có trình độ cao và là một chuyên gia trong lĩnh vực nghi lễ và quy tắc tôn giáo.
Cai quản giáo hội
Ông canh tân giáo triều, soạn lại luật bí tích và các luật dòng tu. Cùng với Thánh Leonard, ông truyền bá lòng sùng mộ "Đường Thánh Giá", vận dụng tối đa nghệ thuật nguyện ngắm.
Là một người quân bình và yêu chuộng nghệ thuật, ông đã tiếp nhận công trình chân dung các Giáo hoàng trong Đền thờ Thánh Phaolô ở kinh thành La Mã và tu bổ lại Đại hý trường. Ông có công trùng tu và làm đẹp thêm cho Nhà thờ Đức Bà Cả.
Giáo hoàng Biển Đức XIV đương đầu với vấn đề của trào lưu Khai sáng và thuyết tuyệt đối. Thiết lập những học viện nghiên cứu nền văn minh La Mã và Ki-tô giáo, lịch sử Giáo hội và Phụng vụ. Ông cũng lên án Bè Nhiệm trong Tông chiếu Providas Romanorum và nhà triết học Pháp Voltaire.
Ông viết nhiều sách, trong số đó có cuốn "Luật lệ tuyên bố Chân phước và Hiển thánh" (De servorum Dei beatificatione et canonisatione). Đây là kết quả của một thời kinh nghiệm trong chức vụ điều tra các án Tuyên thánh, mà ông đã đảm nhiệm trước khi lên ngôi Giáo hoàng.
Ông minh định giáo lý về phép Rửa tội cho trẻ em, và tuyên bố là không hợp pháp việc rửa tội cho các trẻ em Do Thái hoặc ngoại giáo khi không có sự ưng thuận của cha mẹ chúng, trừ trường hợp có nguy cơ tử vong.
Vào ngày 3 tháng 12 năm 1740, không lâu sau khi lên ngai tòa Phêrô, Giáo hoàng Biển Đức XIV đã công bố thông điệp "Ubi Primum", về sứ vụ mục tử của các Giám mục. Từ đó, các Giáo hoàng đã dùng cùng hình thức này để đưa ra các giáo huấn về các đề tài liên quan đến thần học, giáo hội và xã hội.
Đối với các thừa sai ở Ấn Độ cũng chia thành giai cấp xã hội, năm 1744 ông nhắc lại lý tưởng Kitô giáo về sự bình đẳng giữa mọi người.
Trong thông điệp "Vix pervenit" (1745) của ông, ông lập lại sự lên án việc cho vay nặng lãi, vì ông lo đừng thấy tiền bạc giữ vai trò trỗi vượt trong kinh tế.
Năm Thánh 1750 được Giáo hoàng Biển Đức XIV nhấn mạnh đến ý nghĩa ăn năn thống hối và đền tội, và giá trị hành hương nằm ở chỗ chiến thắng tội lỗi. Thánh Lêônađô da Porto Maurizio đã cho dựng lên ở giữa hí trường ở kinh thành La Mã một cây thánh giá thật lớn ở giữa với 14 nhà nguyện để làm 14 Chặng đường Thánh giá.
Vấn đề lễ nghi Trung Hoa
Cuộc tranh luận về lễ nghi Trung Hoa đã kéo dài trên một thế kỷ. Nên khi vừa lên ngôi, Giáo hoàng Biển Đức XIV đã tỏ ra cương quyết phải chấm dứt tận gốc vấn đề. Sau một thời gian tra xét lại tất cả mọi tài liệu, mọi tường trình bênh vực cũng như phản đối.
Ngày 11 tháng 7 năm 1742, ông ban hành tông Chiếu "Ex Quo" loại bỏ tám điểm nới rộng của Thượng phụ Antiokia năm 1721 như chưa bao giờ có, lên án và bác bỏ lễ nghi Trung Hoa vì "không phù hợp với giáo lý Công giáo", phạt vạ tuyệt thông tất cả những ai bất tuân, vạ này chỉ có Giáo hoàng mới tha được, trừ trường hợp nguy tử.
Từ đấy, mọi người đều tuân theo tông chiếu, không ai dám khiếu nại. Các nghi lễ dân tộc nay đã được phép tại Nhật Bản (1936), Trung Hoa (1939) và Việt Nam (1964).
Giáo phái Jansenius
Bằng một đường lối ôn hòa, Giáo hoàng Biển Đức XIV đã khéo léo dẹp được giáo phái Jansenius. Ông đã tuyên bố việc tuân theo Tông chiếu "Unigenitus" (1713) của cố Giáo hoàng Clêmentê XI là cần thiết, nhưng chỉ chấp nhận việc từ chối ban các bí tích cho kẻ chống đối công khai, tức những người được coi là tội nhân cố chấp và mọi người đều biết.
Các quốc gia
phải|nhỏ|Mộ Giáo hoàng Biển Đức XIV tại [[Vương cung Thánh đường Thánh Phêrô.]]
Ông hết sức tế nhị với các vua Bồ Đào Nha, Sardenia và Tây Ban Nha về quyền bảo trợ và bổ nhiệm tại các xứ truyền giáo. Khi đó, vua nước Phổ là Friedrich II Đại Đế thân minh đốc suất đại binh chinh phạt tỉnh Silesia của nước Áo Công giáo (1740). Giáo hoàng kêu gọi binh Thánh giá đánh nhau với "tên Bá tước vùng Brandenburg nghịch đạo" này. Nhà vua nước Phổ thẳng thắn hồi đáp, rằng sẽ bảo vệ quyền lợi của mọi tôn giáo Silesia một khi vua chiếm lĩnh được tỉnh này. Do đó nhiều nước ủng hộ cuộc chinh phạt của người Phổ, thành ra lời hô hào của Giáo hoàng thất baị.
Vua Friedrich II Đại Đế toàn thắng, nhưng ban bố tự do tôn giáo cho giáo dân Công giáo tỉnh Silesia. Chiếu chỉ cao thượng này của vua đã khiến cho Giáo hoàng rất hài lòng. Dòng Tên được thành lập năm 1540 và luôn hăng hái phục vụ Giáo hội. Thái độ cũng như hành động của Dòng Tên đã gây nên nhiều mối hận thù đối với những người chủ trương Pháp giáo (Gallicanisme), giáo phái Jansenius hay các chính trị gia.
Năm 1757, Sebastião José de Carvalho e Melo, Hầu tước Pombal – Thủ tướng của Vương quốc Bồ Đào Nha tố cáo Dòng Tên đủ tội. Họ yêu cầu Giáo hoàng Biển Đức XIV bãi dòng này nhưng không được chấp nhận.
Ông qua đời ngày 3 tháng 5 năm 1758.
👁️
1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Giáo hoàng Biển Đức XIV** (Tiếng La Tinh: _Benedictus XIV_), còn gọi là **Bênêđíctô XIV** (31 tháng 3 năm 1675 – 3 tháng 5 năm 1758, tên khai sinh: **Prospero Lorenzo Lambertini**) là một giáo
**Biển Đức XVI** (cách phiên âm tiếng Việt khác là _Bênêđictô XVI_ hay _Bênêđitô_, xuất phát từ Latinh: _Benedictus_; tên khai sinh là **Joseph Aloisius Ratzinger**; 16 tháng 4 năm 1927 – 31 tháng 12
**Giáo hoàng Biển Đức XIV** là tên được sử dụng bởi hai giáo hoàng đối lập trong thời kỳ ly giáo thế kỷ 15. Người đầu tiên, **Bernard Garnier** trở thành Giáo hoàng đối lập
**Biển Đức XIII** (Latinh: **Benedictus XIII**) là vị giáo hoàng thứ 245 của giáo hội công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông đắc cử Giáo hoàng năm 1724 và ở ngôi
**Giáo hoàng Lêôn I** hay **Lêôn Cả** (Latinh: _Leo I_) là giáo hoàng thứ 45 của Giáo hội Công giáo Rôma, kế vị giáo hoàng Xíttô III. Ông là một trong những vị Giáo hoàng
**Giáo hoàng** (, ) là vị giám mục của Giáo phận Rôma, lãnh đạo tinh thần của Giáo hội Công giáo toàn thế giới. Theo quan điểm của Giáo hội Công giáo, giáo hoàng là
nhỏ|Hình ảnh vị Phản Giáo hoàng bên ngoài một bức tường ở Vương cung thánh đường Thánh Pablo, Rome. **Giáo hoàng đối lập Boniface VII **(Franco Ferrucci, qua đời ngày 20 tháng 7, 985) là
**Gioan XIV** (Latinh: _Joannes XIV_) là người kế nhiệm Giáo hoàng Biển Đức VII và là vị giáo hoàng thứ 136 của Giáo hội Công giáo. Theo niên giám Tòa Thánh năm 1806 thì ông
**Giáo hoàng Piô XII** (Tiếng Latinh: _Pius PP. XII_, Tiếng Ý: _Pio XII_, tên khai sinh là **Eugenio Maria Giuseppe Giovanni Pacelli**, 2 tháng 6 năm 1876 – 9 tháng 10 năm 1958) là vị
nhỏ|235x235px|Quốc huy của [[Tòa Thánh]] Dưới đây là **danh sách các giáo hoàng** theo quốc gia nơi sinh ở thời cổ đại – Trung Cổ và theo quốc tịch ở thời hiện đại, được liệt
phải|Bảng danh sách cổ về các [[Giáo hoàng, bảng này đã từng bị chôn vùi và quên lãng ngay trong Vương cung thánh đường Thánh Phêrô.]] **Danh sách các Giáo hoàng** tại đây dựa vào
**Biên niên sử Giáo hội Công giáo Rôma** này ghi lại nhiều sự kiện xảy ra trong lịch sử Giáo hội Công giáo Rôma trải dài gần hai nghìn năm, song song cùng lịch sử
**Grêgôriô XIII** (, ) là vị giáo hoàng thứ 226 của Giáo hội Công giáo Rôma. Theo niên giám Tòa Thánh năm 1806 thì ông đắc cử Giáo hoàng năm 1572 và ở ngôi Giáo
**Giáo hoàng Innôcentê XI** (Tiếng Latinh: _Innocentius XI_, tiếng Ý: _Innocenzo XI_) tên khai sinh là **Benedetto Odescalchi**, là vị giáo hoàng thứ 239 của giáo hội Công giáo và là người cai trị Lãnh
**Giáo hoàng Lêô XIV** (tên khai sinh: **Robert Francis Prevost**; sinh ngày 14 tháng 9 năm 1955) là giáo hoàng của Giáo hội Công giáo và nguyên thủ Thành Vatican. Ông được bầu làm giáo
Giáo hoàng Gioana đội [[Triều thiên Ba tầng, đang trong cuộc diễu hành thì sinh đứa bé. Minh họa thế kỉ 15.]] **Giáo hoàng Gioana** (tiếng Anh: _Pope Joan_), cũng gọi **La Papessa Giovanna** hay
**Wilhelm I** (tên đầy đủ: _Wilhelm Friedrich Ludwig_; 22 tháng 3 năm 1797 – 9 tháng 3 năm 1888), là quốc vương Phổ từ ngày 2 tháng 1 năm 1861, chủ tịch Liên bang Bắc
**Đức Mẹ Lộ Đức** là một trong số nhiều tước hiệu mà người Công giáo dành cho Đức Mẹ Maria. Tước hiệu này xuất phát từ việc Đức Mẹ được cho là đã hiện ra
nhỏ|Giáo hoàng đối lập Biển Đức XIII **Biển Đức XIII** tên thật là **Pedro Martínez de Luna y Pérez de Gotor** (1328 - 23 tháng 5 năm 1423), được biết đến như là "giáo hoàng
**Cosma Hoàng Văn Đạt** (sinh 1947) là một Giám mục Công giáo người Việt Nam. Khẩu hiệu Giám mục của ông là _"Tình thương và sự sống"_. Ông từng đảm trách vai trò Giám mục
**Clêmentê IX** (Latinh: **Clemens IX**) là vị giáo hoàng thứ 238 của giáo hội công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông đắc cử Giáo hoàng năm 1667 và ở ngôi Giáo
**Năm của ba giáo hoàng** là cách gọi một năm mà trong đó Giáo hội Công giáo phải bầu hai giáo hoàng mới – tức là có ba người khác nhau làm giáo hoàng trong
**Clêmentê XIII** (Latinh: **Clemens XIII**) là vị giáo hoàng thứ 248 của giáo hội công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông đắc cử Giáo hoàng năm 1758 và ở ngôi Giáo
**Innôcentê XII** (Latinh: _Innocentius XII_) là vị giáo hoàng thứ 242 của giáo hội công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông đắc cử Giáo hoàng năm 1691 và ở ngôi Giáo
**Giáo hội Công giáo**, gọi đầy đủ là **Giáo hội Công giáo Rôma**, là giáo hội Kitô giáo được hiệp thông hoàn toàn với vị giám mục giáo phận Rôma, hiện tại là Giáo hoàng
Giáo hội Công giáo dành một sự tôn kính đặc biệt cho **Maria** (mẹ của Chúa Giêsu). Điều này được dựa trên những quy điển của Kinh Thánh về màu nhiệm nhập thể của Con
:link= _Bài này viết về thành phố Roma. "Rome" được chuyển hướng đến đây. Với những mục đích tìm kiếm khác, vui lòng xem La Mã (định hướng)._ **Roma** (tiếng Latinh và tiếng Ý: _Roma_
**Galileo di Vincenzo Bonaiuti de' Galilei** (; phiên âm tiếng Việt: **Ga-li-lê**; sinh ngày 15 tháng 2 năm 1564 – mất ngày 8 tháng 1 năm 1642), cũng thường được gọi ngắn gọn là **Galileo**, là
**Giuse Nguyễn Chí Linh** (sinh ngày 22 tháng 11 năm 1949) là một giám mục Công giáo Rôma người Việt Nam, ông từng đảm trách vai trò Tổng giám mục Tổng giáo phận Huế và
**Giuse Nguyễn Năng** (sinh ngày 24 tháng 11 năm 1953) là một giám mục Công giáo Rôma người Việt Nam. Ông hiện đảm nhận vai trò Tổng giám mục Tổng giáo phận Sài Gòn, Chủ
[[Nhà nguyện Sistina|Nhà nguyện Sistine, địa điểm tổ chức Mật nghị Hồng y kể từ năm 1492.]] **Mật nghị hồng y** (hay còn gọi **Cơ mật viện bầu Giáo hoàng**) là một cuộc họp kín
**Dòng Chúa Cứu Thế** (tiếng Latinh: _Congregatio Sanctissimi Redemptoris_, viết tắt: _C.Ss.R_ hay _CSSR_) là một hội truyền giáo của Giáo hội Công giáo Rôma do Thánh Alphonsus Liguori (Thánh An Phong) thành lập năm
**Mật nghị Hồng y 2025** (hay **_Cơ mật viện bầu giáo hoàng 2025_**) được triệu tập để bầu ra một giáo hoàng mới điều hành Giáo hội Công giáo, kế nhiệm Giáo hoàng Phanxicô sau
**Louis XIV của Pháp** (; 5 tháng 9 năm 16381 tháng 9 năm 1715), còn được gọi là **Louis Đại đế** (, ) hay **Vua Mặt Trời** (, ), là một quân chủ thuộc Nhà
**Chiến tranh Tôn giáo Pháp** là một chuỗi gồm tám cuộc tranh chấp giữa phe Công giáo và phe Huguenot (Kháng Cách Pháp) từ giữa thế kỷ 16 kéo dài đến năm 1598. Ngoài những
Từ thời kỳ cổ đại, **Đức** (lúc đó được người La Mã gọi là vùng đất Germania) đã có các bộ lạc người German (tổ tiên trực tiếp của người Đức) chính thức cư ngụ
Habemus Papam Giáo hoàng Phanxicô (2013) **Habemus Papam **("Chúng ta đã có Giáo hoàng!") là lời công bố bằng tiếng Latinh do hồng y thị thần đưa ra khi một Mật nghị Hồng y đã
**Cải cách tôn giáo** (chữ Đức: _Reformation_, chữ La-tinh: _Reformatio_), hoặc gọi **Cải chính Giáo hội**, **Tin Lành Cải chính**, là phong trào cải cách và phân liệt tôn giáo của Công giáo La Mã
**Phêrô Nguyễn Văn Khảm** (sinh ngày 2 tháng 10 năm 1952) là một Giám mục Công giáo người Việt. Ông hiện đảm nhận vai trò Giám mục Chính tòa Giáo phận Mỹ Tho, Chủ tịch
**Bờ Biển Ngà**, cũng được gọi là **Côte d'Ivoire**, quốc hiệu là **Cộng hòa Bờ Biển Ngà**, là một quốc gia ở Tây Phi. Bờ Biển Ngà giáp với Liberia về phía tây, Guinea và
**Trung tâm lịch sử thành Roma** (tiếng Ý: _Centro storico di Roma_) nằm bên trong tường thành Aurelianus hay **thành La Mã cổ đại** là khoảng không gian đô thị đặc biệt, đại diện cho
**Giuse Nguyễn Đức Cường** (sinh ngày 14 tháng 10 năm 1953) là một giám mục người Việt, hiện đảm trách vai trò giám mục chính tòa Giáo phận Thanh Hóa Trước đó, ông cũng đảm
nhỏ|300x300px| Tu viện Thánh Wigbert là một [[tu viện theo dòng Thánh Benedict của tông Luther.]] **Dòng tu tôn giáo** (chữ Anh: _religious order_), hoặc gọi là **tu đạo hội**, **tu hội**, là một nhóm
thumb|Copernicus cầm [[compa và hỗn thiên nghi]] **Đài tưởng niệm Nicolaus Copernicus tại Warszawa** là một trong những địa điểm đáng chú ý tọa lại thủ đô đất nước Ba Lan. Đài tưởng niệm được
**Bầu cử Quốc hội Việt Nam khóa XIV** diễn ra vào ngày 22 tháng 5 năm 2016 thông qua biểu quyết trước đó của Quốc hội vào ngày 24 tháng 11 năm 2015. Qua đó,
**Quốc hội Việt Nam khóa XIV** (nhiệm kỳ 2016-2021) là nhiệm kỳ thứ 14 của Quốc hội Việt Nam, được bầu vào ngày 22 tháng 5 năm 2016 với 496 đại biểu. ## Kết quả
**Hoàng thành Thăng Long** (chữ Hán: 昇龍皇城; Hán-Việt: Thăng Long Hoàng thành) là quần thể di tích gắn với lịch sử kinh thành Thăng Long - Đông Kinh và tỉnh thành Hà Nội bắt đầu
**Không quân Hoàng gia Nam Tư** (_Vazduhoplovstvo Vojske Kraljevine Jugoslavije_, VVKJ), được thành lập vào năm 1918 tại Vương quốc của người Serbia, Croatia và Slovenia (đổi tên thành Vương quốc Nam Tư vào năm
là vị Thiên hoàng thứ 122 của Nhật Bản theo Danh sách Thiên hoàng truyền thống, trị vì từ ngày 13 tháng 2 năm 1867 tới khi qua đời. Ông được đánh giá là một
**Hải quân Hoàng gia Nam Tư** (Serbi-Croatia: Кpaљeвcкa Југословенска Pатна Морнарица; _Kraljevska Jugoslovenska Ratna Mornarica_), là hải quân của Vương quốc Nam Tư. Quân chủng này đã tồn tại kể từ khi thành lập Vương