✨Roma

Roma

:link= Bài này viết về thành phố Roma. "Rome" được chuyển hướng đến đây. Với những mục đích tìm kiếm khác, vui lòng xem La Mã (định hướng).

Roma (tiếng Latinh và tiếng Ý: Roma ; còn phổ biến với tên gọi Rome trong tiếng Anh và tiếng Pháp hay La Mã theo phiên âm Hán Việt) là thủ đô của nước Ý và là một đô thị cấp huyện (comune) loại đặc biệt (có tên đầy đủ là Comune di Roma Capitale – nghĩa là "Thành phố Roma Thủ đô"), đồng thời đóng vai trò là thủ phủ vùng Lazio trung tâm của quốc gia này. Roma là thành phố lớn nhất và đông dân thứ hai ở Ý (chỉ sau thành phố Napoli) với hơn 2,75 triệu cư dân trong phạm vi 1.285,3 km2. là một đất nước độc lập nằm trong lòng Roma, đây là ví dụ duy nhất về một quốc gia nằm trọn vẹn bên trong lãnh thổ của một thành phố; cũng vì lý do này mà Roma thường được xem là thủ đô lưỡng quốc.

Lịch sử Roma trải dài 28 thế kỷ. Mặc dù thần thoại La Mã đặt mốc thời gian thành lập Roma vào khoảng năm 753 TCN, tuy nhiên thành phố đã có mặt cư dân sinh sống lâu hơn thế, khiến nó trở thành một trong những khu định cư lâu đời nhất có con người vẫn đang tiếp tục sinh sống tại châu Âu. Là cái nôi thứ hai của nền văn minh phương Tây sau Athens với cư dân ban đầu có nguồn gốc hỗn hợp từ người Latinh, Etrusca và Sabine, thành phố sau đó trở thành thủ đô của Vương quốc La Mã, Cộng hòa La Mã và Đế quốc La Mã. Trong thời kỳ này với câu thành ngữ nổi tiếng "Mọi con đường đều dẫn đến La Mã", quyền lực của Roma phủ khắp phần lớn châu Âu, Bắc Phi và vươn đến Trung Đông, thống trị cả về quân sự lẫn văn hóa, là đầu não của một trong những nền văn minh vĩ đại nhất lịch sử, có ảnh hưởng toàn diện và sâu rộng đến xã hội, ngôn ngữ, văn học, nghệ thuật, kiến trúc, quy hoạch đô thị, kỹ thuật dân dụng, triết học, tôn giáo, luật pháp và phong tục xuyên suốt trong nhiều thế kỷ tiếp theo. Thành phố lúc bấy giờ là nơi cư ngụ của từ một đến hai triệu dân của thế giới cổ đại, khiến nó trở thành đô thị triệu dân đầu tiên của thế giới cũng như được nhận định là đại đô thị kiểu mẫu trung tâm đầu tiên của nhân loại. Roma ban đầu được gọi là Thành phố vĩnh hằng (tiếng Latinh: Urbs Aeterna) bởi thi hào Tibullus người La Mã trong thế kỷ thứ nhất TCN và ý tưởng đó đã được Ovidius, Vergilius và Livius tiếp nối. Thành phố còn nổi tiếng với danh hiệu "Caput Mundi" trong tiếng Latinh có nghĩa là Kinh đô thế giới.

Được mở rộng đáng kể bởi các công trình vĩ đại dưới thời Julius Caesar và đặc biệt là ở thời Hoàng đế Augustus, thành phố đã bị phá hủy nặng nề một phần trong trận Đại hỏa hoạn thành Roma năm 62 và sau đó đạt đến đỉnh cao phát triển kiến trúc đô thị vào khoảng năm 320. Theo sau sự sụp đổ của Đế quốc Tây La Mã đánh dấu khởi đầu của Thời kỳ Trung Cổ, Roma dần rơi vào sự thống trị của chế độ giáo hoàng (đã xuất hiện tại thành phố kể từ thế kỷ 1) và chính thức thế kỷ 8 trở thành thủ đô của Vương quốc Giáo hoàng tồn tại cho đến năm 1870. Bắt đầu từ thời kỳ Phục Hưng, hầu như tất cả các giáo hoàng từ Nicôla V (1447–1455) trở đi đều chủ trương theo đuổi tiến trình mang tính kiến trúc và đô thị hóa liên tục suốt 400 năm nhằm mục đích biến thành phố trở thành trung tâm nghệ thuật và văn hóa của thế giới. Do vậy, Roma trở thành trung tâm lớn của nền Phục Hưng Ý, đưa phong trào nghệ thuật này đạt đến đỉnh cao hoàng kim của nó, còn gọi là giai đoạn Thượng Phục Hưng, và sau đó trở thành nơi khai sinh của trường phái Baroque và chủ nghĩa Tân cổ điển. Những vĩ nhân kiệt xuất như Michelangelo, Raffaello hay Bernini cùng các đại nghệ sĩ, họa sĩ, nhà điêu khắc và kiến trúc sư nổi tiếng đã biến Roma trở thành trung tâm hoạt động của họ, tạo ra những kiệt tác ngoạn mục khắp toàn thành phố, tiêu biểu nhất có thể kể đến như Đại vương cung thánh đường Thánh Phêrô, Nhà nguyện Sistina, Dãy phòng Raffaello, Quảng trường đồi Capitolinus hay Đài phun nước Trevi. Trong thế kỷ 19, Roma là biểu tượng của tinh thần thống nhất nước Ý và năm 1871 chính thức trở thành thủ đô của Vương quốc Ý mới sinh và sau đó là nền Cộng hòa Ý từ năm 1946 cho đến ngày nay.

Roma mang đẳng cấp của một thành phố toàn cầu, và thường xuyên được xướng danh trong top những thành phố đẹp nhất thế giới. Trong năm 2017, Roma xếp thứ 12 trong số những thành phố được viếng thăm nhiều nhất thế giới, đứng thứ 3 tại châu Âu và là điểm thu hút khách du lịch nổi tiếng nhất tại Ý. Ở vai trò là ngai trụ xứ của Giáo hoàng cũng như thánh đô của Giáo hội Công giáo hoàn vũ, công cuộc hành hương đến Roma đã khiến cho thành phố trở thành địa điểm quan trọng bậc nhất đối với những người theo đạo Kitô trên khắp thế giới trong nhiều thế kỷ. Khu trung tâm lịch sử của Roma được UNESCO công nhận là Di sản Thế giới. Bảo tàng Vatican nổi tiếng nằm trong số những bảo tàng được viếng thăm nhiều nhất thế giới và Đấu trường La Mã trở thành điểm thu hút khách du lịch phổ biến nhất thế giới với 7,4 triệu lượt khách trong năm 2018. Bên cạnh du lịch, nền kinh tế của thành phố cũng được định hướng theo hướng công nghệ mới, viễn thông và truyền thông đa phương tiện kể từ những năm 2000 trở lại đây. Roma được xem là một trong những danh thắng khảo cổ học lớn nhất và quan trọng nhất trên thế giới, thành phố cũng sở hữu nhiều cây cầu lịch sử và đài phun nước, hơn 900 nhà thờ, cũng như số lượng đồ sộ các viện bảo tàng đẳng cấp và nhiều trường đại học và trung tâm học thuật danh tiếng. Thủ đô của Ý là nơi đăng cai Thế vận hội Mùa hè 1960. Đây cũng là nơi thành lập nên Cộng đồng Kinh tế châu Âu (EEC) và Cộng đồng Năng lượng nguyên tử châu Âu (EAEC), bên cạnh đó còn là trụ sở của các cơ quan chuyên môn thuộc Liên Hợp Quốc như Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp (FAO), Chương trình Lương thực Thế giới (WFP) và Quỹ quốc tế về phát triển nông nghiệp (IFAD). Thành phố cũng là nơi đặt văn phòng Tổng thư ký Hội đồng Nghị viện Liên minh Địa Trung Hải (UfM) cũng như trụ sở của nhiều tập đoàn kinh doanh quốc tế như Eni, Enel, TIM, Leonardo S.p.A., và các ngân hàng nhà nước và quốc tế như UniCredit và BNL. Khu vực quận kinh tế và trung tâm thương mại của thành phố được gọi là EUR, là cơ sở của nhiều công ty quan trọng tham gia vào các ngành công nghiệp dầu mỏ, công nghiệp dược phẩm và dịch vụ tài chính. Roma cũng là một trung tâm thiết kế và thời trang quan trọng nhờ các thương hiệu quốc tế nổi tiếng có trụ sở tại thành phố, và đứng ở vị trí thứ 5 trong bảng xếp hạng các kinh đô thời trang của thế giới trong những năm gần đây.

Tên gọi

right|thumb|Dòng sông Tiber được người La Mã nhân cách hóa thành một vị thần, đồi Capitolinus tại Roma Theo huyền sử sáng lập của người La Mã cổ đại, cái tên Roma được tin là bắt nguồn từ tên của người sáng lập và vị vua đầu tiên của thành phố, Romulus.

Tuy nhiên, nhiều khả năng cái tên Romulus mới thực sự bắt nguồn từ Roma. Ngay từ đầu thế kỷ thứ 4 CN, người ta đã có nhiều giả thuyết khác nhau về nguồn gốc của địa danh Roma. Một số giả thuyết dựa vào ngôn ngữ học, tuy nhiên vẫn chưa thực sự chắc chắn:

  • Bắt nguồn từ Rumon hay Rumen, những tên thái cổ của con sông Tiber, động từ tiếng Hy Lạp ῥέω (rhèo) và động từ tiếng Latinh ruo, đều có nghĩa là "chảy";
  • Bắt nguồn từ 𐌓𐌖𐌌𐌀 (ruma) trong tiếng Etrusca, với căn nguyên tố *rum- nghĩa là "núm vú", có lẽ ám chỉ con sói mẹ đã nuôi dưỡng cặp song sinh Romulus và Remus, hoặc hình dạng của hai quả đồi Palatinus và Aventinus;
  • Bắt nguồn từ ῤώμη (rhōmē) trong tiếng Hy Lạp, nghĩa là sức mạnh.

Tên gọi "La Mã" là phiên âm Hán-Việt của hai chữ "羅馬/罗马", được người Trung Quốc dùng để ký âm cho tên "Roma" (bính âm: "Luómǎ"). Trong tiếng Việt, tên gọi này hiện chủ yếu được sử dụng trong các văn cảnh lịch sử có liên quan đến Đế quốc La Mã cũng như nền văn minh La Mã thời cổ đại.

Cái tên Roma có thể viết ngược lại thành Amor, nghĩa là tình yêu, do đó Roma cũng được xem là "Thành phố của tình yêu". Tên Roma cũng là nguồn gốc của từ romanceromantic trong tiếng Anh (cũng như từ vựng tương đương trong nhiều ngôn ngữ châu Âu), bắt nguồn từ chữ romanice trong tiếng Latinh thông tục và tiếng Latinh Trung Cổ, có nghĩa là "theo kiểu những người Roma". Hai chữ Hán "浪漫" (Hán Việt: lãng mạn) có nghĩa gốc là "sự buông thả, tùy thích", về sau được mượn dùng để phiên âm cho từ tiếng Anh hoặc tiếng Pháp này, tạo ra một nghĩa mới là "sự lãng mạn" theo cách hiểu như hiện nay, bắt nguồn từ lãng mạn hào hiệp thời Trung đại và chủ nghĩa lãng mạn thời Cận đại, từ nguyên dựa trên nhóm ngôn ngữ Rôman, nghĩa là các thứ tiếng bản xứ thay vì tiếng Latinh trang trọng.

Bên cạnh "Thành phố vĩnh hằng", Roma rất nổi tiếng với tên gọi "Kinh đô thế giới" trong lịch sử, đầy đủ là "Roma kinh đô thế giới" (tiếng Latinh: Roma Caput Mundi), bởi quyền lực của Đế quốc La Mã thời cổ đại, và về sau là trung tâm của Kitô giáo. Những biệt danh nổi tiếng khác của Roma bao gồm: "Thành phố Bảy ngọn đồi" (Urbs Septicollis) bắt nguồn từ vị trí địa lý nơi mà thành Roma cổ đại được hình thành, "Ngai của các vị Thánh" (Limina Apostolorum) bởi vai trò của Thánh Phêrô và Thánh Phaolô trong buổi đầu của Giáo hội và Roma cũng là nơi mà họ tử đạo và được chôn cất.

Lịch sử

thumb|right|Thành phố sơ khởi được hình thành từ [[Bảy ngọn đồi La Mã bao quanh bởi tường thành Servius (màu xanh) được xây dựng vào đầy thế kỷ 4 TCN. Tường thành Aurelianus (màu đỏ) được xây dựng vào thế kỷ thứ 3, đồ sộ và kiên cố hơn.]]

Lịch sử sơ khởi

Có những bằng chứng khảo cổ về việc loài người sống tại khu vực Roma từ khoảng 14.000 năm trước, song lớp đất dày đặc gồm các mảnh vụn có niên đại muộn hơn nhiều đã che lấp các di chỉ đồ đá cũ và đồ đá mới.

Truyền thuyết sự thành lập Roma

thumb|Tranh Romulus và Remus của Peter Paul Rubens tại Bảo tàng Capitonlinus. thumb|Tranh Aeneas trốn khỏi thành Troia của Federico Barocci, Phòng tranh Borghese. Các câu chuyện truyền thống do người La Mã cổ đại truyền đời cho nhau giải thích lịch sử sơ khởi của thành phố bằng truyền thuyết và thần thoại. Thần thoại quen thuộc nhất trong số đó và có lẽ cũng là nổi tiếng nhất trong tất cả thần thoại La Mã, đó là câu chuyện về Romulus và Remus, hai anh em sinh đôi được một con sói cho bú.

Truyền thuyết này hoà hợp với một truyền thuyết song hành được tạo ra từ trước đó, rằng có một người tị nạn thành Troia tên là Aeneas đào thoát sang Ý và lập ra dòng dõi La Mã thông qua con trai ông là Iulus, trùng tên với triều đại Julius-Claudius. Điều này đã được nhà thơ La Mã Vergilius viết lại vào thế kỷ thứ nhất TCN. Ngoài ra, Strabo đề cập rằng còn có một câu chuyện cũ hơn rằng thành phố là thuộc địa của Arcadia và được thành lập bởi Euandros. Strabo cũng ghi lại Lucius Coelius Antipater tin rằng Roma được thành lập bởi người Hy Lạp. Dionysius xứ Halicarnassus viết rằng những người đến vùng đất mà sau này là thành Roma là những người thổ dân đầu tiên đến từ Arcadia, họ đã đuổi những người Sicilia ra khỏi nơi đó, và tiếp đến là người Pelasgos đến từ Thessalía, thứ ba là những người đến Ý cùng Euandros từ thành Pallantium ở Arcadia, sau họ là những người Epeius từ Elis và người Pheneus, một phần của quân đội do Heracles chỉ huy đã quyết định ở lại đó trong khi đang trở về từ đoàn thám hiểm ở Erytheia, nơi quân thành Troia giao chiến và còn sót lại cuối cùng, những binh lính Troia sau đó đã trốn thoát cùng Aeneas từ Ilium, Dardanus và các thành phố thuộc Troia khác. Dionysius đề cập rằng quân Troia, cũng là người Hy Lạp có nguồn gốc từ Peloponnesos. Ông cũng nói thêm rằng ngay cả người La Mã cũng khẳng định thành cổ Pallantium của người La Mã được thành lập bởi người Hy Lạp đến từ Pallantium của Arcadia, khoảng sáu mươi năm trước cuộc chiến thành Troia và người dẫn đầu là Euandros. Sau đó vào thế hệ thứ mười sáu sau cuộc chiến thành Troia, người Alba đã hợp nhất tất cả những nơi này thành một khu định cư, bao quanh họ bằng một bức tường và một con mương. Người Alba là một quốc gia hỗn hợp gồm tất cả những người trên. Dionysius cũng cho biết thêm có thể là quân man rợ trong số những người hàng xóm hoặc tàn dư những cư dân cổ xưa của nơi này được trộn lẫn với người Hy Lạp. Nhưng tất cả những người này đã mất bản sắc dân tộc, được gọi bằng một tên chung, Latin, đặt tên theo Latinus, là vua của đất nước. Lãnh đạo vùng thuộc địa là hai anh em song sinh Romulus và Remus.

Thời quân chủ, cộng hoà và đế quốc

Sau khi được Romulus thành lập theo truyền thuyết, thành phố nằm dưới quyền cai trị của một hệ thống quân chủ trong 244 năm, ban đầu là với các quân chủ gốc Latinh và Sabine và sau đó là các quốc vương người Etrusca. Theo truyền thuyết, vương vị truyền qua bảy người: Romulus, Numa Pompilius, Tullus Hostilius, Ancus Marcius, Tarquinius Priscus, Servius Tullius và Tarquinius Superbus. Sau khi trở thành chủ nhân của khu vực Latium, La Mã dẫn đầu một số cuộc chiến tranh với kết quả là chinh phục bán đảo Ý từ khu vực miền trung đến Magna Graecia.

Trong thế kỷ 3 và 2 TCN, La Mã thiết lập quyền bá chủ trên Địa Trung Hải và bờ Đông, thông qua ba cuộc chiến tranh Punic (264–146 TCN) chống lại thành Carthago và ba cuộc chiến tranh chiến tranh Macedonia (212–168 TCN) chống lại Macedonia. Sau đó thành lập nên những tỉnh thuộc La Mã đầu tiên: Sicilia, Sardinia và Corsica, Hispania, Macedonia, Achaea và Châu Phi.

thumb|Cái chết của Caesar của Vincenzo Camuccini, Phòng tranh quốc gia về Nghệ thuật hiện đại và đương đại, Roma. Từ khi bắt đầu thế kỷ 2 TCN, quyền lực là mục tiêu tranh chấp giữa hai nhóm thống trị: phái quý tộc đại diện cho bộ phận bảo thủ trong Viện nguyên lão, và phái bình dân dựa vào sự ủng hộ của tầng lớp thường dân. Trong cùng giai đoạn, việc tiểu nông bị phá sản và sự thành lập các điền trang nô lệ lớn đã khuyến khích một lượng lớn dân chúng di cư đến thành phố. Chiến tranh liên miên tạo tính cần thiết cho một đội quân chuyên nghiệp, họ trung thành với tướng lĩnh của mình hơn là với nền cộng hoà. Do đó, vào nửa cuối của thế kỷ 2 và thế kỷ 1 TCN diễn ra xung đột cả ở bên ngoài lẫn bên trong. Sau nỗ lực thất bại nhằm cải cách xã hội của Tiberius và Gaius Gracchus thuộc phái bình dân, và chiến tranh chống lại Jugurtha, phát sinh cuộc nội chiến đầu tiên giữa Gaius Marius và Sulla. Theo sau là một cuộc khởi nghĩa nô lệ quy mô lớn dưới quyền Spartacus, và sau đó là thành lập Liên minh tam hùng thứ nhất với Caesar, Pompey và Crassus.

thumb|left|Đế quốc La Mã bành trướng cực đại dưới thời của Hoàng đế [[Traianus đã kiểm soát khoảng 6,5 triệu km² bề mặt đất liền.]] Cuộc chinh phục Gallia khiến Caesar trở nên vô cùng mạnh mẽ và được lòng dân, dẫn tới cuộc nội chiến thứ nhì chống lại Viện nguyên lão và Pompey. Sau khi giành thắng lợi, Caesar tự lập bản thân làm độc tài trọn đời. Việc ông bị ám sát dẫn đến Liên minh tam hùng thứ hai gồm Octavius (cháu họ và người thừa kế của Caesar), Marcus Antonius và Lepidus, và một cuộc nội chiến khác giữa Octavius và Antonius. Octavius đến năm 27 TCN trở thành princeps civitatis và lấy hiệu là Augustus, lập ra chính thể nguyên thủ, một nền chính trị lưỡng đầu giữa nguyên thủ và viện nguyên lão. La Mã trở thành một đế quốc trên thực tế, đạt đến mức độ bành trướng tối đa vào thế kỷ 2 dưới quyền hoàng đế Traianus. Thành Roma là 'Caput Mundi', tức kinh đô của thế giới, một khái niệm đã có từ thời cộng hòa. Trong hai thế kỷ đầu tiên, đế quốc có quân chủ thuộc nhà Julius-Claudius, nhà Flavius (triều đại cho xây dựng khán đài hình vòng khổng lồ, được biết với tên gọi Colosseum hay Đấu trường La Mã) và nhà Antoninus. Thời kỳ này còn có đặc điểm là sự truyền bá Kitô giáo, do Giêsu thuyết giảng tại Judea vào nửa đầu thế kỷ 1 (thời Tiberius) và được các tông đồ của ông truyền bá khắp đế quốc và bên ngoài. Thời kỳ triều đại nhà Antoninus được xem là thời cực thịnh của đế quốc, với lãnh thổ trải dài từ Đại Tây Dương đến Euphrates và từ Anh đến Ai Cập.

Sau khi kết thúc triều đại Severus vào năm 235, đế quốc La Mã bước vào một giai đoạn 50 năm mang tên Khủng hoảng thế kỷ thứ ba, khi đó diễn ra nhiều cuộc nổi dậy của các tướng lĩnh muốn chiếm giữ những khu vực mà họ đã được giao phó do sự yếu kém của chính quyền trung ương tại Roma. Tồn tại đế chế Gallia tự xưng từ 260-274 và các cuộc nổi dậy của Zenobia và cha của bà từ giữa những năm 260, người đang tìm cách chống đỡ các cuộc xâm lược của Ba Tư. Một số khu vực như Anh, Tây Ban Nha và Bắc Phi hầu như rất khó gây ảnh hưởng đến. Bất ổn gây ra suy thoái kinh tế, lạm phát tăng nhanh chóng do chính quyền hạ mức giá trị tiền tệ nhằm đáp ứng chi tiêu. Các bộ lạc German dọc sông Rhine và phía bắc Balkan tiến hành các cuộc xâm nhập từ thập niên 250-280. Đế quốc Ba Tư xâm chiếm vài lần trong thập niên 230 đến 260, song cuối cùng bị đánh bại. Vào năm 284, hoàng đế Diocletianus đảm nhận việc khôi phục đế quốc. Ông đặt dấu chấm hết cho cái gọi là princeps (nguyên thủ) và giới thiệu danh hiệu mới là dominate (chúa tể) để tạo ấn tượng về quyền uy tối thượng. Đặc điểm nổi bật nhất là sự can thiệp chưa từng có của quốc gia xuống cấp thành phố: trong khi quốc gia trước đây thường đệ trình yêu cầu thuế đối với một thành phố và cho phép nó phân bổ các khoản phí, thì kể từ triều đại của Diocletianus, quốc gia đã thực hiện điều này xuống tận cấp thôn làng.

Trong một nỗ lực vô ích nhằm kiểm soát lạm phát, ông đã áp đặt các biện pháp kiểm soát giá nhưng chúng không thể kéo dài được lâu. Ông hoặc Constantinus đã địa phương hóa hệ thống hành chính của đế quốc, điều này đã làm thay đổi căn bản cách điều hành quốc gia bằng cách tạo ra các giáo phận khu vực. Sự tồn tại của các đơn vị tài chính khu vực từ năm 286 đóng vai trò như một mô hình cho sự đổi mới chưa từng có này. Do đó, chính quyền dân sự và chỉ huy quân sự sẽ được tách biệt. Diocletianus giao cho các tổng đốc nhiều nhiệm vụ tài khóa hơn và đặt họ vào phụ trách hệ thống hỗ trợ hậu cần của quân đội với nỗ lực kiểm soát nó bằng cách loại bỏ hệ thống hỗ trợ khỏi sự kiểm soát của nó. Diocletianus đã tạo ra một hệ thống "Tứ đầu chế" (Tetrarchia) trong đó mỗi hoàng đế cai quản một góc phần tư lãnh thổ của đế quốc, ông là Augustus cai quản nửa phía đông và cư ngụ tại Nicomedia. Năm 286, ông đưa Maximianus lên thành Augustus phía tây cai quản phần lớn lãnh thổ Mediolanum (Milano ngày nay) mà ông đã cai trị trước đó. Tiếp theo, ông đặt ra hai hoàng đế 'cấp dưới' hay nhị Caesar, một cho mỗi Augustus, trong đó Constantius Chlorus dưới quyền Maximianus sẽ cai trị Britania (Anh), Gallia (Pháp) và Hispania (Tây Ban Nha) có đầu não quyền lực tại Augusta Treverorum (Trier ngày nay), và Caesar phía Đông Galerius cai quản vùng Balkan-Danube trụ xứ tại thành Srimium, những thành phố này được gọi là thủ đô tứ đầu chế. Mặc dù Roma đã bị lãng quên và không còn là thủ đô hoạt động, nhưng thành phố vẫn tiếp tục là thủ đô danh nghĩa của toàn bộ Đế quốc La Mã, không bị hạ cấp xuống thành Tỉnh (Provincia) mà vẫn giữ nguyên vị thế hành chính độc nhất của mình là "Thành phủ" (tiếng Latinh: Praefectus urbanus). Việc bổ nhiệm một Caesar không phải là không xác định: Diocletianus đã cố gắng chuyển thành một hệ thống kế vị phi triều đại. Sau khi thoái vị vào năm 305, các Caesar đã tiếp nối và họ lần lượt bổ nhiệm hai đồng nghiệp cho chính mình. Constantinus Đại đế đã tiến hành một cuộc cải cách lớn về bộ máy quan liêu, không phải bằng cách thay đổi cấu trúc mà bằng cách hợp lý hóa năng lực của một số cơ quan trong những năm 325-330, sau khi ông đánh bại Licinius, hoàng đế ở phía Đông, vào cuối năm 324. Sắc lệnh Milano năm 313 thực ra là một mảnh thư từ Licinius gửi cho các tổng đốc của các tỉnh phía đông, trao quyền tự do thờ phượng cho mọi người, kể cả cho các Kitô hữu, và ra lệnh khôi phục lại các tài sản của nhà thờ bị tịch thu theo đơn thỉnh cầu của các giáo phận mới được lập ra. Constantinus đã tài trợ cho việc xây dựng một số nhà thờ và cho phép các giáo sĩ đóng vai trò trọng tài trong vụ kiện dân sự (một biện pháp không tồn tại lâu hơn ông nhưng đã được khôi phục một phần sau đó). Ông đã biến trấn Byzantium thành nơi ở mới của mình, tuy nhiên nó không chính thức là nơi cư ngụ hoàng gia như Milan hay Trier hay Nicomedia cho đến khi nó được Constantius II trao tặng một cái tên mới vào tháng 5 năm 359: Constantinopolis – "Thành phủ" thứ hai và ngang vị thế hành chính với Roma. Việc tạo ra thành Constantinopolis có ảnh hưởng rất quan trọng đến châu Âu: đó là tuyến phòng thủ chiến lược chống lại sự xâm lăng và chinh phạt từ phương Đông trong khoảng một thiên niên kỷ.

Kitô giáo dưới dạng Tín điều Nicea trở thành tôn giáo chính thức của đế quốc vào năm 380, được gọi là Sắc lệnh Thessalonica thông qua nhân danh ba vị hoàng đế Gratianus, Valentinianus II, và Theodosius I, người thực sự thúc đẩy đằng sau sắc lệnh. Ông là hoàng đế cuối cùng của La Mã thống nhất: sau khi ông mất vào năm 395, hai con trai của ông là Arcadius và Honorius phân chia đến quốc thành hai phần phía tây và phía đông. Trụ sở của chính phủ Đế quốc Tây La Mã được chuyển đến Ravenna sau cuộc vây hãm Milano vào năm 402. Trong thế kỷ 5, các hoàng đế trong thập niên 430 hầu hết cư trú tại Roma. song chịu rất ít tổn thất về vật chất, và hầu hết đã được tu sửa. Các giáo hoàng tô điểm cho thành phố bằng các vương cung thánh đường cỡ lớn, như Vương cung thánh đường Đức Bà Cả (cộng tác với các hoàng đế). Dân số thành Roma giảm từ 800.000 xuống 450-500.000 khi thành phố bị người Vandal dưới quyền Genseric cướp phá vào năm 455. Các hoàng đế yếu đuối trong thế kỷ 5 không thể ngăn nổi sự suy tàn, và Đế quốc Tây La Mã chấm dứt vào ngày 22 tháng 8 năm 476 khi Romulus Augustus bị phế truất, đối với nhiều sử gia đây là mốc khởi đầu Trung cổ.

Sự suy giảm dân số của thành phố đến từ việc mất mát các lô hàng ngũ cốc từ Bắc Phi từ năm 440 trở đi, và sự không sẵn lòng của tầng lớp nguyên lão trong việc duy trì quyên góp để hỗ trợ cho một dân số quá cỡ so với các nguồn lực sẵn có. Mặc dù vậy, những nỗ lực cố gắng đã được thực hiện để duy trì các công trình trung tâm, mái vòm và phòng tắm lớn nhất tiếp tục hoạt động cho đến khi cuộc vây hãm Roma của người Gothic vào năm 537. Các nhà tắm lớn của Constantinus trên đồi Quirinalis thậm chí đã được sửa chữa vào năm 443 nhưng mức độ thiệt hại vẫn tiếp tục nhân rộng. Roma thể hiện tổng thể của sự tồi tệ và suy tàn vì các khu vực bị bỏ hoang lớn do sự suy giảm dân số. Dân số giảm xuống 500.000 vào năm 452 và 100.000 vào năm 500 (có lẽ lớn hơn, mặc dù không có con số nào cụ thể được biết). Sau cuộc vây hãm của người Gothic năm 537, dân số giảm xuống còn 30.000, nhưng đã tăng lên 90.000 vào thời Giáo hoàng Grêgôriô Cả. Sự suy giảm dân số xảy ra đồng thời với sự sụp đổ chung của văn minh đô thị ở phương Tây trong thế kỷ 5 và 6, với một vài ngoại lệ. Phân phối ngũ cốc từ trợ cấp quốc gia trợ cấp cho những người dân nghèo hơn trong xã hội vẫn tiếp tục trong suốt thế kỷ thứ 6 và có lẽ đã khiến dân số không thể giảm thêm nữa. Con số 450.000-500.000 được tính dựa trên số lượng 3.629.000 libra thịt lợn (đơn vị khối lượng La Mã xưa), phân phát cho người dân nghèo Roma trong năm tháng mùa đông với tỷ lệ 5 libra mỗi người mỗi tháng, đủ cho 145.000 người hoặc 1/4 hoặc 1/3 tổng dân số. Ngũ cốc phân phối cho cho 80.000 người có phiếu cùng lúc đã gợi ý 400.000 người (Augustus đặt con số là 200.000 hoặc một phần năm dân số).

Trung Cổ

thumb|Sự sụp đổ của một Đế chế, tranh của Cole Thomas tại Bảo tàng Lịch sử New York.

Giám mục Roma được gọi là giáo hoàng, và Roma là nơi quan trọng từ thời kỳ đầu của Kitô giáo do hai tông đồ Phêrô và Phaolô tử đạo tại đây. Các giám mục thành Roma cũng được nhìn nhận (và được nhìn nhận bởi tín đồ Công giáo La Mã) là những người kế thừa của Phêrô, người được xem là giáo hoàng đầu tiên. Thành phố do đó nâng tầm quan trọng với vị thế là trung tâm của Kitô giáo. Sau khi Đế quốc Tây La Mã sụp đổ vào năm 476, Roma ban đầu nằm dưới quyền kiểm soát của Odoacer và sau đó là bộ phận của Vương quốc Ostrogoth trước khi qua tay Đông La Mã sau Chiến tranh Gothic song cuộc chiến này đã tàn phá thành phố. Dân số Roma suy giảm từ hơn một triệu vào năm 210 xuống 500.000 vào năm 273 và còn 35.000 sau Chiến tranh Gothic, làm giảm quy mô thành phố còn một nhóm các toà nhà có người ở nằm rải rác trên một khu vực lớn các tàn tích, thảm thực vật, trang viên nho và vườn chợ. Dân số của thành phố được tin rằng đến năm 300 là 1 triệu (ước tính dao động từ 2 triệu đến 750.000) giảm xuống 750-800.000 vào năm 400, 450-500.000 vào năm 450 và giảm xuống còn 80-100.000 vào năm 500 (mặc dù có thể gấp hai lần con số này).

Sau khi người Lombard xâm chiếm Ý, thành phố vẫn thuộc Đông La Mã trên danh nghĩa, song trong thực tế các giáo hoàng theo đuổi chính sách cân bằng giữa Đông La Mã, người Frank và người Lombard. Năm 729, quốc vương của người Lombard là Liutprand tặng cho giáo hội thị trấn Sutri phía bắc Latium, khởi đầu quyền lực lâm thời của giáo hội. Năm 756, sau khi đánh bại người Lombard, Pépin Lùn giao cho Giáo hoàng quyền hạn tạm thời đối với Công quốc Roma và Khu trấn thủ giáo Ravenna, qua đó lập nên Vương quốc Giáo hoàng. Kể từ đây, ba thế lực cố gắng cai trị thành phố: Giáo hoàng; giới quý tộc và các thủ lĩnh dân quân cùng thẩm phán, Viện nguyên lão và dân chúng; quốc vương của người Frank, cũng như quốc vương của người Lombard, patricius và Hoàng đế. Ba phái này (thần quyền, cộng hoà và đế quốc) là một đặc trưng trong sinh hoạt Roma suốt thời Trung Cổ. Vào đêm Giáng sinh năm 800, Giáo hoàng Lêô III trao vương miện cho Charlemagne tại Roma với tư cách hoàng đế của Đế quốc La Mã Thần thánh.

thumb|Tranh của [[Raffaello phác hoạ cảnh đăng cơ của Charlemagne tại Roma vào ngày 25 tháng 12 năm 800]] Năm 846, người Ả Rập Hồi giáo tấn công bất thành vào tường thành Roma, song cướp phá các vương cung thánh đường Thánh Phêrô và Phaolô nằm ngoài tường thành. Sau khi quyền lực của vương triều Caroling sụp đổ, Roma lâm vào tình trạng vô chính phủ phong kiến, một số gia đình quý tộc không ngừng tranh đấu chống lại Giáo hoàng, hoàng đế và chống đối lẫn nhau. Trong thời gian này, Theodora và con gái bà là Marozia trở thành thiếp và mẹ của một số giáo hoàng, và của lãnh chúa phong kiến quyền lực Crescentius, là người đấu tranh chống các hoàng đế Otto II và Otto III. Các bê bối trong giai đoạn này thúc đẩy chế độ giáo hoàng tự cải cách: Bầu cử giáo hoàng được dành cho các hồng y, và một cuộc cải cách tăng lữ được nỗ lực tiến hành. Động lực đằng sau việc này là tu sĩ Ildebrando da Soana, ông từng được bầu làm giáo hoàng và tham gia tranh luận về bổ nhiệm giáo sĩ chống Hoàng đế Heinrich IV. Sau đó, Roma bị người Norman dưới quyền Robert Guiscard cướp bóc và đốt cháy vào năm 1084, họ tiến vào thành phố để hỗ trợ Giáo hoàng đang bị vây hãm trong Lâu đài Thiên Thần.

thumb|Bên trong của Vương cung thánh đường Đức Bà Trastevere, một trong những nhà thờ đẹp nhất được xây dựng từ thời Trung Cổ. Trong giai đoạn này, thành phố được tự trị dưới quyền của một senatore (nguyên lão) hoặc patrizio (quý tộc) trong thế kỷ 12. Chính quyền này thường thấy trong các thành phố Ý, tiến hoá thành công xã Trung Cổ, là một hình thức tổ chức xã hội mới, sự thể hiện của các tầng lớp giàu có mới. Giáo hoàng Giáo hoàng Luciô II đã chiến đấu chống công xã Roma, và cuộc đấu tranh tiếp tục dưới quyền Giáo hoàng Êugêniô III: công xã liên minh với giới quý tộc được sự ủng hộ từ Arnaldo da Brescia, một tu sĩ và nhà cải cách tôn giáo và xã hội. Sau khi Giáo hoàng từ trần, Arnaldo bị Giáo hoàng Ađrianô IV tống giam, đánh dấu kết thúc quyền tự trị của công xã. Thời kỳ dưới quyền Giáo hoàng Innôcentê III là đỉnh cao của chế độ giáo hoàng, công xã đã thanh lý được viện nguyên lão, thay thế nó bằng một Senatore lệ thuộc Giáo hoàng.

Trong thời kỳ này, giáo hoàng đóng vai trò thế tục quan trọng ở Tây Âu, thường đứng ra làm trọng tài giữa các quốc vương Kitô giáo và thực thi các quyền lực chính trị bổ sung.

thumb|[[Giáo hoàng Bônifaciô VIII tuyên bố Năm Thánh đầu tiên vào năm 1300.]] Năm 1266, Charles I của Anjou được bổ nhiệm làm nghị sĩ khi đang tiến về phương nam để giao tranh với nhà Staufer nhân danh Giáo hoàng. Trong giai đoạn này, giáo hoàng từ trần, và các hồng y tụ họp tại Viterbo không thể nhất trí về người kế vị, thị dân tức giận và đã dỡ mái toà nhà nơi tụ họp, giam cầm các hồng y cho đến khi họ chọn ra giáo hoàng mới, sự kiện này đánh dấu khởi đầu mật nghị Hồng y. Trong giai đoạn này, thành phố cũng bị tàn phá trước các cuộc giao tranh liên tiếp giữa các gia đình quý tộc: Annibaldi, Caetani, Colonna, Orsini, Conti, họ có công sự xây trên các đại công trình La Mã cổ đại, tranh đoạt nhau để kiểm soát chế độ giáo hoàng.

Phục Hưng và cận đại

thumb|right|Bích họa "[[Trường Athena|Trường học Athen" nổi tiếng nằm trong Dãy phòng của Raffello tại Vatican (hình bên phải).]] Năm 1418, Công đồng Constance giải quyết Ly giáo Tây phương, và bầu ra một giáo hoàng người Roma là Máctinô V. Sự kiện này giúp Roma có một thế kỷ hoà bình nội bộ, đánh dấu khởi đầu nền Phục Hưng. Các giáo hoàng cai trị cho đến nửa đầu thế kỷ 16, trong đó Nicôla V lập ra Thư viện Vatican, Piô II là người theo chủ nghĩa nhân văn và có học thức, Xíttô IV là một giáo hoàng chiến binh, Alexanđê VI là người vô đạo đức và gia đình trị, từ Giuliô II là một người bảo trợ cho đến Lêô X có hiệu được đặt cho giai đoạn này ("thế kỷ Lêô X"), toàn bộ đều cống hiến sức lực của mình cho sự vĩ đại và vẻ đẹp của Thành phố vĩnh hằng, cho quyền lực dòng dõi của họ, và bảo trợ cho nghệ thuật. Trong những năm này, trung tâm của Phục Hưng Ý chuyển từ Firenze đến Roma. Các công trình uy nghi như Vương cung thánh đường Thánh Phêrô, Nhà nguyện Sistina và Cầu Sisto được xây dựng. Để hoàn thành chúng, các giáo hoàng đã thu hút các nghệ sĩ giỏi nhất đương thời, như Michelangelo, Perugino, Raffaello, Ghirlandaio, Luca Signorelli, Botticelli và Cosimo Rosselli. Dưới quyền những vị giáo hoàng phung phí và giàu có, Roma chuyển mình thành một trung tâm mỹ thuật, thi ca, âm nhạc, văn học, giáo dục và văn hoá. Roma trở thành nơi cạnh tranh với các thành phố lớn khác tại châu Âu đương thời về mức độ thịnh vượng, huy hoàng, nghệ thuật, tri thức và kiến trúc. Thời kỳ Phục Hưng đã thay đổi diện mạo của Roma một cách đáng kể, với các tác phẩm như Pietà của Michelangelo và các bức bích họa của phòng tranh Borgia. Roma đạt đến đỉnh cao của sự huy hoàng dưới thời Giáo hoàng Giuliô II (1503–1513) và những người kế vị như Lêô X và Clêmentê VII, cả hai đều là thành viên của Nhà Medici.

thumb|Điêu khắc Pietà hay [[Đức Mẹ sầu bi của Michelangelo, Vatican.]] Trong giai đoạn hai mươi năm này, Roma trở thành một trong những trung tâm nghệ thuật vĩ đại nhất thế giới. Vương cung thánh đường Thánh Phêrô cũ được xây dựng bởi Constantinus Đại đế (bấy giờ đang trong tình trạng đổ nát) đã bị phá hủy và một nhà thờ mới bắt đầu hình thành. Thành phố đã chào đón các nghệ sĩ như Ghirlandaio, Perugino, Botticelli và Bramante, những người đã xây dựng ngôi đền Thánh Phêrô tại Montorio và lên kế hoạch lớn cho dự án cải tạo Vatican. Raffaello ngụ tại Roma đã trở thành một trong những họa sĩ nổi tiếng nhất của Ý, đã tạo ra những bức bích họa trong Dinh Farnesina, Dãy phòng của Raffaello, cùng với nhiều bức tranh nổi tiếng khác. Michelangelo bắt đầu trang trí trần nhà của Nhà nguyện Sistina và tạo ra bức tượng Moses nổi tiếng dành cho lăng mộ Giuliô II. Roma mất đi một phần đặc trưng tôn giáo của mình, ngày càng trở thành một thành phố Phục Hưng thực sự, với một số lượng lớn các yến tiệc thết đãi phổ biến, những cuộc đua ngựa, các lễ hội rình rang, những mưu đồ và nhiều tình tiết kịch tính cam go.

thumb|Cướp phá Roma năm 1527. Kinh tế Roma giàu mạnh, với sự hiện diện của một số chủ ngân hàng người Toscana như Agostino Chigi, ông là một người bạn của Raffaello và là một người bảo trợ cho nghệ thuật. Trước khi mất sớm, Raffaello cũng đề xướng lần đầu tiên việc bảo tồn các di tích cổ đại. Mâu thuẫn giao tranh giữa Pháp với Tây Ban Nha tại châu Âu và chính sách đối ngoại của Clêmentê VII đã khiến cho Roma bị cướp phá lần đầu tiên trong gần 500 năm trở lại đây, năm 1527, quân đánh thuê Landsknecht của vua Tây Ban Nha là Karl V đã cướp phá thành phố, chấm dứt đột ngột thời đại hoàng kim của Phục Hưng tại Roma và thường được xem là sự kết thúc của nền Phục Hưng Ý. Sự kiện này tác động rất lớn đến lịch sử của châu Âu, Ý và Công giáo, tạo ra hiệu ứng gợn sóng lâu dài trên khắp văn hóa và chính trị thế giới.

Từ Công đồng Trentô vào năm 1545, Giáo hội Công giáo bắt đầu chống lại Cải cách Kháng nghị - phong trào nghi vấn quy mô lớn về thẩm quyền của Giáo hội trên các vấn đề tinh thần và sự vụ chính quyền. Việc mất lòng tin này sau đó dẫn đến những chuyển biến lớn về quyền lực rời xa khỏi Giáo hội. Dưới quyền các giáo hoàng từ Piô IV đến Xíttô V, Roma trở thành trung tâm của Công giáo cải cách và chứng kiến xây dựng các công trình kỷ niệm mới nhằm tán dương chế độ giáo hoàng khôi phục tính trọng đại. Các giáo hoàng và hồng y trong thế kỷ 17 và đầu thế kỷ 18 tiếp tục phong trào bằng việc tô điểm cho cảnh quan thành phố các toà nhà kiến trúc baroque.

thumb|right|Lễ hội Carnaval năm 1656 tại Điện Barberini, vinh danh [[Kristina, Nữ hoàng Thụy Điển.]] Diễn ra một giai đoạn gia đình trị khác, các gia đình quý tộc mới (Barberini, Pamphili, Chigi, Rospigliosi, Altieri, Odescalchi) được bảo hộ từ các giáo hoàng xuất thân từ gia đình của họ, các giáo hoàng xây cho người thân của mình các toà nhà baroque đồ sộ. Trong Thời kỳ Khai sáng, các tư tưởng mới cũng lan đến Roma, tại đây chế độ giáo hoàng ủng hộ các nghiên cữu khảo cổ và cải thiện phúc lợi của dân chúng. Nhưng không phải mọi thứ đều suôn sẻ cho Giáo hội trong thời kỳ Phản Kháng Cách. Đã có nhiều thất bại trong nỗ lực kiềm chế các chính sách chống Giáo hội của các cường quốc châu Âu thời bấy giờ, thất bại đáng chú ý nhất có lẽ là vào năm 1773 khi Giáo hoàng Clêmentê XIV bị các thế lực thế tục buộc phải đàn áp Dòng Tên. Vương quốc Giáo hoàng được khôi phục vào tháng 6 năm 1800, tuy nhiên trong thời kỳ Napoléon cai trị thì Roma bị thôn tính thành một tỉnh của Đế quốc Pháp, ban đầu là Département du Tibre (1808–1810) và sau là Département Rome (1810–1814). Sau khi Napoléon bị phế truất, nhà nước của Giáo hoàng được khôi phục thông qua Đại hội Viên, Áo năm 1814.

Năm 1849, một thể chế Cộng hòa Roma khác xuất hiện trong làn sóng các cuộc cách mạng năm 1848. Hai trong số các nhân vật có ảnh hưởng nhất của quá trình thống nhất nước Ý là Giuseppe Mazzini và Giuseppe Garibaldi chiến đấu cho nền cộng hòa yểu mệnh.

Roma sau đó trở thành tâm điểm của hy vọng tái thống nhất Ý, khi mà phần còn lại của Ý đã thống nhất thành Vương quốc Ý với thủ đô lâm thời tại Firenze. Năm 1861, Roma được tuyên bố là thủ đô của Ý dù vẫn đang do Giáo hoàng kiểm soát. Trong thập niên 1860, tàn dư của Vương quốc Giáo hoàng nằm dưới quyền bảo hộ của Pháp, nhờ vào chính sách đối ngoại của Napoléon III. Phải đến khi người Pháp rời khỏi Roma vào năm 1870 do Chiến tranh Pháp-Phổ thì binh sĩ Ý mới có thể chiếm giữ Roma, họ tiến vào thành phố qua một lỗ thủng tường thành gần Cổng thành Pia. Sau đó, Giáo hoàng Piô IX tự tuyên bố mình là tù nhân tại Vatican, và đến năm 1871 thủ đô của Ý cuối cùng đã được chuyển từ Firenze đến Roma.

thumb|Quân [[Đồng Minh ném bom Roma năm 1943.]] Không lâu sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, Roma chứng kiến Phát xít Ý trỗi dậy dưới quyền lãnh đạo của Benito Mussolini. Ông ta tiến hành cuộc hành quân đến thủ đô vào năm 1922, cuối cùng tuyên bố một Đế quốc Ý và liên minh với Đức Quốc xã. Mussolini phá huỷ nhiều phần rộng lớn tại trung tâm thành phố nhằm xây dựng các đại lộ và quảng trường rộng, được cho là để tán dương chế độ phát xít và hồi sinh La Mã cổ đại. Giai đoạn giữa hai thế chiến chứng kiến dân số thành phố gia tăng nhanh chóng, vượt qua một triệu người. Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, do sở hữu kho tàng nghệ thuật và hiện diện của Vatican, nên Roma phần lớn thoát khỏi số phận bi thảm như nhiều thành phố châu Âu khác. Tuy nhiên, vào ngày 19 tháng 7 năm 1943, khu San Lorenzo bị quân Anh-Mỹ oanh tạc, khiến khoảng 3.000 người thiệt mạng tại chỗ và 11.000 người bị thương và sau đó có thêm 1.500 người chết. Sau khi chế độ Mussolini sụp đổ và Hoà ước Ý vào ngày 8 tháng 9 năm 1943, thành phố bị người Đức chiếm đóng, và được tuyên bố là thành phố mở theo sau sự kiện Giải phóng Roma vào ngày 4 tháng 6 năm 1944.

Roma phát triển rất nhanh sau chiến tranh, là một trong các động lực chính đằng sau "kỳ tích kinh tế Ý" về tái thiết và hiện đại hóa thời hậu chiến trong thập niên 1950 và đầu thập niên 1960. Trong giai đoạn này, những năm la dolce vita ("cuộc sống ngọt ngào"), Roma trở thành một thành phố thời thượng, với các phim cổ điển đại chúng như Ben Hur, Quo Vadis, Roman HolidayLa Dolce Vita được quay tại xưởng phim Cinecittà có tính biểu tượng của thành phố. Xu hướng tăng trưởng dân số tiếp tục cho đến giữa thập niên 1980 khi thành phố đạt trên 2,8 triệu cư dân. Sau đó, dân số bắt đầu giảm chậm do cư dân bắt đầu chuyển đến các vùng ngoại ô lân cận Roma.

thumb|right|Tòa thị chính Roma là [[Palazzo Senatorio|Điện Senatorio, nằm trên ngọn đồi Capitolinus.]]

Tổ chức hành chính và chính quyền

Chính quyền thành phố

Địa phương Roma hiến lập thành một đô thị cấp huyện đặc biệt (comune speciale) có tên chính thức là Roma Capitale ("Roma Thủ đô"), và lớn nhất về diện tích và dân số trong tổng số 8.101 các huyện hành chính (comune) của Ý. Thành phố nằm dưới quyền quản lý của một thị trưởng và một hội đồng thành phố. Văn phòng trụ sở đặt tại Điện Senatorio trên đồi Capitolinus, nơi đầu não lịch sử của chính quyền thành phố. Chính quyền thành phố tại Roma thường được gọi là "Campidoglio", tên của ngọn đồi này trong tiếng Ý.

Tổ chức hành chính

Kể từ năm 1972, thành phố được chia thành các quận hành chính gọi là municipio (trước năm 2001 gọi là circoscrizione). Chúng được lập ra vì mục đích hành chính để tăng cường phi tập trung hoá tại khu trung tâm thành phố. Mỗi quận nằm dưới quyền quản lý của một chủ tịch và một hội đồng gồm 25 thành viên, họ được các cư dân bầu ra mỗi 5 năm. Các quận thường vắt qua các ranh giới của các phân khu truyền thống, phi hành chính của thành phố. Số lượng quận ban đầu là 20, sau còn 19, và đến năm 2013 con số này giảm còn 15.

Khu trung tâm lịch sử

thumb|Phường thứ 13 Trastevere, một trong những khu phố cổ nổi tiếng nhất của Roma.

Roma còn được chia theo nhiều loại đơn vị phi hành chính khác nhau. Trung tâm lịch sử của Roma được chia thành 22 phường, gọi là rione, toàn bộ đều nằm trong tường thành Aurelianus ngoại trừ hai phường Prati và Borgo. Chúng bắt nguồn từ các khu vực của thành Roma cổ đại, tiến hoá vào thời trung cổ thành các rione trung cổ. Đến thời Phục Hưng, dưới quyền Giáo hoàng Xíttô V, chúng lại đạt đến con số 14, ranh giới của chúng cuối cùng được xác định dưới thời Giáo hoàng Biển Đức XIV vào năm 1743.

Một cách phân chia mới của thành phố dưới thời Napoléon nhanh chóng biến mất, và không có thay đổi rõ rệt nào về tổ chức của thành phố cho đến năm 1870, khi Roma trở thành thủ đô của Ý. Nhu cầu về thủ đô mới dẫn đến bùng nổ về đô thị hoá lẫn dân số trong và ngoài tường thành Aurelianus. Năm 1874, phường thứ 15 là Esquilino được tạo ra tại vùng mới đô thị hoá của phường Monti. Khi bước vào thế kỷ 20, các phường khác được tạo ra là Prati, và cũng là cuối cùng. Sau đó, các phân khu hành chính chính mới của thành phố sử dụng tên quartiere ("khu"). Ngày nay, toàn bộ các phường rione là đều thuộc Quận 1, tương đương với khu vực trung tâm lịch sử (Centro Storico).

Ban đầu, tường thành Servius được xây 12 năm sau khi người Gallia cướp phá thành phố vào năm 387 TCN. Nó bao gồm phần lớn các đồi Esquilinus và Caelius, cũng như toàn bộ năm đồi còn lại. Roma nhanh chóng phát triển ra ngoài tường thành này, và không cần xây dựng thêm bất cứ pháo đài phòng thủ nào khác bởi sự ổn định do Thái bình La Mã mang lại và sự bảo vệ của quân đội La Mã, mãi cho đến gần 700 năm sau tức năm 270 do cuộc khủng hoảng thế kỷ thứ Ba và họa xâm lăng của các bộ tộc man rợ, Hoàng đế Aurelianus bắt đầu cho xây dựng tường thành lớn kiên cố và đồ sộ hơn để bảo vệ Roma, chúng dài gần 19 km, và chính là bức tường mà binh sĩ Vương quốc Ý phải vượt qua để tiến vào thành phố năm 1870 với sứ mạng thống nhất nước Ý. Do đó, mật độ dân số của thành phố Roma không phải là cao, với sự hiện diện của nhiều không gian phủ xanh rộng lớn trải khắp thành phố. Địa giới Roma bị phân chia giữa các khu vực đô thị hóa cao độ và các khu vực được xác định là công viên, khu bảo tồn tự nhiên, và cho mục đích nông nghiệp.

thumb|right|Quận 10 mang tên [[Ostia là quận giáp biển duy nhất của thủ đô.]] Khu vực đô thị của thành phố được chia làm hai phần trong và ngoài thông qua đường vành đai Grande Raccordo Anulare ("GRA") hoàn thành vào năm 1962, nó bao quanh khu vực bên trong thành phố với bán kính khoảng 11 km tính từ đồi Capitolinus. Mặc dù khi đường vành đai hoàn thành thì hầu hết các khu vực dân cư đều nằm bên trong nó (một trong số ngoại lệ là ngôi làng cổ đại Ostia nằm ven biển Tyrrhenum), song về sau nhiều khu đô thị mới được xây dựng nới rộng ra bên ngoài đến 20 km. Thành phố còn có một sông khác là Aniene, hợp lưu vào Tiber về phía bắc của khu vực trung tâm lịch sử.

Mặc dù trung tâm Roma nằm cách biển Tyrrhenum khoảng 24 km, song địa giới thành phố trải dài đến bờ biển trên địa bàn Quận 10 ở phía tây nam, mang tên Ostia, do đó Roma là một trong số ít các thủ đô của châu Âu có bờ biển và đồng thời là thành phố giáp biển lớn nhất tại châu lục này với đường bờ biển dài 20 km.

Địa hình

thumb|left|Mô hình thành Roma cổ đại với bảy ngọn đồi La Mã tại Bảo tàng Văn minh La Mã. Lãnh thổ hình thành nên Roma có lịch sử địa chất phức tạp: tầng mặt nền bao gồm vật chất do nham tầng tạo thành từ các núi lửa hiện không còn hoạt động, bao quanh khu vực thành phố về phía đông nam là núi lửa Latium ở dãy Albani và núi lửa Sabatini phía tây bắc, khoảng từ 300.000 đến 600.000 năm trước. Phần lớn các ngọn đồi tại Roma được hình thành từ thế địa tầng này. Sau đó, dòng chảy linh hoạt của sông Tiber và Aniene đã góp phần làm xói mòn các phù điêu và trầm tích đặc trưng cho lãnh thổ thực tế. Do đó, lãnh thổ của Roma thể hiện các cảnh quan thiên nhiên và đặc điểm môi trường khác nhau: một số ngọn núi và đồi (bao gồm bảy ngọn đồi La Mã lịch sử), các khu vực bằng phẳng, sông Tiber và các nhánh của nó, một hòn đảo trên sông (đảo Tiberina), bờ biển Ostia cũng như các hồ Bracciano và Martignano và các hồ nhân tạo. Vành đai địa chấn của Roma được xếp vào vùng 3 tức có biên độ động đất ở mức thấp.

Roma sơ khởi được xây dựng trên Bảy ngọn đồi La Mã bao gồm Aventinus, Caelius, Capitolinus, Esquilinus, Palatinus, Quirinalis và Viminalis. Khu trung tâm lịch sử còn bao gồm các đồi Janiculum, Pincius và đồi Vatican, cũng như các gò nhân tạo như núi Testaccio và núi Giordano. Bên ngoài những bức tường trải dài những ngọn đồi cao hơn như núi Mario (Monte Mario), núi Antenne, núi Parioli, núi Thánh (Montesacro) và núi Xanh (Monteverde). Độ cao Roma dao động từ 13 mét trên mực nước biển (tại nền đền Pantheon trung tâm thành phố) cho đến 139 mét trên mực nước biển tại núi Mario (nơi cao nhất tại Roma, từ đó người ta có thể ngắm một trong những khung cảnh đẹp nhất của thành phố).

Khí hậu

thumb|Tuyết được xem là hiếm có tại Roma. Roma có khí hậu Địa Trung Hải (phân loại khí hậu Köppen: Csa), với mùa đông mát và ẩm ướt còn mùa hè ấm và khô. Nhiệt độ trung bình năm là trên 20 °C (68 °F) vào ban ngày và 10 °C (50 °F) vào ban đêm. Trong tháng lạnh nhất là tháng 1, nhiệt độ trung bình là 12 °C (54 °F) vào ban ngày và 3 °C (37 °F) vào ban đêm. Trong các tháng nóng nhất là tháng 7 và tháng 8, nhiệt độ trung bình là 30 °C (86 °F) vào ban ngày và 18 °C (64 °F) vào ban đêm.

Các tháng 12, 1 và 2 là các tháng lạnh nhất, nhiệt độ trung bình ban ngày là 8 °C (46 °F). Nhiệt độ trong các tháng này thường dao động từ 10 đến 15 °C (50 - 59 °F) vào ban ngày và 3 đến 5 °C (37 - 41 °F) vào ban đêm, song thường xuyên có các đợt lạnh hơn hoặc ấm hơn. Tuyết rơi là hiện tượng hiếm song không phải là không có, các trận tuyết nhẹ hoặc mưa tuyết diễn ra hầu như mọi mùa đông, thường không tích tụ lại, và các đợt tuyết lớn diễn ra một lần trong khoảng mỗi 5 năm (gần đây nhất là vào năm 2018, trước đó là năm 2012).

Độ ẩm tương đối trung bình là 75%, dao động từ 72% vào tháng 7 đến 77% vào tháng 11. Nhiệt đội biển dao động từ mức thấp 13 °C (55 °F) trong tháng 2 và tháng 3 đến mức cao 24 °C (75 °F) trong tháng 8.

Nhân khẩu

thumb|Tranh mô phỏng lễ hội [[Carnival tại Roma năm 1650.]] Năm 550 TCN, Roma là thành phố lớn thứ nhì tại Ý, sau Tarentum là thành phố lớn nhất. Roma từng có diện tích khoảng 285 hecta và dân số ước tính đạt 35.000. Các nguồn khác cho rằng dân số ở sát dưới mức 100.000 từ 600–500 TCN. Đến khi nền Cộng hoà được thành lập vào năm 509 TCN, điều tra nhân khẩu ghi nhận dân số 130.000. Cộng hòa La Mã bao gồm bản thân thành phố và khu vực xung quanh. Các nguồn khác cho rằng dân số đạt 150.000 vào năm 500 TCN. Dân số Roma vượt 300.000 người vào năm 150 TCN.

Quy mô thành phố vào thời Hoàng đế Augustus là vấn đề cần nghiên cứu, các ước tính dựa trên phân bổ lương thực, nhập khẩu lương thực, dung tích cống nước, giới hạn thành phố, mật độ dân số, báo cáo nhân khẩu, và giả định về số nữ giới, trẻ em và nô lệ không được báo cáo. Glenn Storey ước tính có 450.000 người, Whitney Oates ước tính 1,2 triệu, Neville Morely đưa ra con số 800.000 và loại trừ các đề xuất trước đó về mức 2 triệu.

thumb|Lễ [[Phục sinh tại Roma năm 1840.]] Sau khi Đế quốc Tây La Mã sụp đổ, dân số thành phố giảm xuống dưới 50.000 người. Dân số tiếp tục đình trệ hoặc giảm cho đến thời kỳ Phục Hưng. Khi Vương quốc Ý sáp nhập Roma vào năm 1870, thành phố có dân số khoảng 200.000. Con số này tăng lên đến 600.000 ngay trước Chiến tranh thế giới thứ nhất. Chế độ phát xít của Mussolini nỗ lực ngăn chặn dân số gia tăng quá mức, song thất bại và dân số đạt đến một triệu vào đầu thập niên 1930. Tăng trưởng dân số tiếp tục sau Chiến tranh thế giới thứ hai, nhờ kinh tế bùng nổ thời hậu chiến. Bùng nổ trong xây dựng cũng tạo ra lượng lớn các khu ngoại ô trong thập niên 1950 và 1960.

Đến giữa thập niên 2010, có 2.754.440 cư dân sống trong địa giới thành phố, và có khoảng 4,2 triệu người sống trong vùng Đại Roma (gần tương ứng với ranh giới Thành phố đô thị Roma Thủ đô, với mật độ khoảng 800 người/km² trải rộng trên 5.000 km²). Năm 2010, người vị thành niên chiếm 17% dân số còn người ở độ tuổi nghỉ hưu là 20,76%, các con số tương đương của toàn quốc là 18,06% và 19,94%. Tuổi trung bình của cư dân Roma là 43 so với mức trung bình toàn quốc là 42. Trong vòng 5 năm từ 2002 đến 2007, dân số Roma tăng 6,54%, trong khi dân số Ý tăng 3,56%. Tỷ suất sinh hiện tại của Roma là 9,1 ca sinh trên 1.000 dân khi so sánh với tỷ lệ sinh trung bình của Ý là 9,45.

Khu vực đô thị của Roma phát triển ra ngoài địa giới hành chính của thành phố, với dân số khoảng 3,9 triệu. Từ 3,2 đến 4,2 triệu người sống trung vùng đại đô thị Roma.

right|thumb|Phường Esquilino.

Các nhóm dân tộc thiểu số

Theo điều tra của ISTAT vào năm 2009, khoảng 9,5% dân số Roma không phải là người gốc Ý. Khoảng một nửa số cư dân nhập cư có nguồn gốc châu Âu (chủ yếu là Romania, Ba Lan, Ukraina, và Albania) với số lượng tổng cộng 131.118 hay 4,7% dân số. 4,8% còn lại là những người có nguồn gốc ngoài châu Âu, đông nhất là người Philippines (26.933), Bangladesh (12.154), và người Hoa (10.283).

Phường Esquilino nằm bên cạnh nhà ga trung tâm Termini phát triển thành một khu phố nhập cư cỡ lớn, được ví là phố Tàu của Roma. Người nhập cư từ trên một trăm quốc gia cư trú tại đây. Do là khu thương mại nên Esquilino có các nhà hàng mang đặc điểm của nhiều nền ẩm thực quốc tế. Trong số 1.300 cơ sở kinh doanh hoạt động tại phường, có 800 cơ sở do người Hoa sở hữu, khoảng 300 cơ sở do những người nhập cư khác điều hành, và 200 cơ sở thuộc sở hữu của người Ý.

Tôn giáo

Tôn giáo La Mã cổ đại

thumb|left|Hoàng đế La Mã đầu tiên [[Augustus đồng thời đóng vai trò là Đại Tư tế (pontifex maximus) của tôn giáo đa thần La Mã.]]

Roma trước đây là trung tâm của Đa thần giáo La Mã, tôn giáo cổ điển có nguồn gốc gắn liền với lịch sử và truyền thống của Roma kể từ khi thành phố được hình thành. Mặc dù chịu ảnh hưởng và vay mượn phần lớn từ Hy Lạp cũng như các nền văn hóa khác như Etrusca hay Sabine, tôn giáo La Mã (tiếng Latinh: religio romana) sở hữu những đặc trưng độc đáo nhờ tính chất lịch sử, tâm lý và chính trị điển hình của xã hội La Mã. Tôn giáo La Mã cũng được đặc trưng bởi chu kỳ các lễ hội hàng năm, gắn liền với thành Roma; tuy nhiên, với sự mở rộng của đế chế, nhiều tôn giáo và giáo phái bí ẩn mới, chủ yếu đến từ phương Đông, đã lan rộng tại thành phố. Khác với thần thoại Hy Lạp, các vị thần La Mã không có sự tồn tại độc lập; tôn giáo La Mã cũng không tập trung nhiều vào các câu chuyện thần thoại hay nhấn mạnh hình thành hệ thống tư tưởng giáo lý mà thay vào đó đóng vai trò là "nhạc cụ công quyền" (tiếng Latinh: instrumentum regni): đã có từ giai đoạn cổ xưa của lịch sử La Mã và trên thực tế, các thể chế tôn giáo không tách biệt với chính trị. Ban đầu, "Đại Tư tế" (tiếng Latinh: pontifex maximus) chức vụ quan trọng nhất của tôn giáo La Mã cổ đại được độc lập dưới thời Cộng hòa La Mã, sau đó dần dần bị chính trị hóa cho đến khi Augustus sáp nhập nó vào chức vị hoàng đế. Các vị thần đầu tiên của người Roma là Jupiter (có vị thế cao nhất), Juno, Minerva, Vesta, Janus, Mars, vân vân hay các vị thần trừu tượng được nhân cách hóa khác. Theo truyền thuyết, Mars là chiến thần và là cha của hai người sáng lập Roma là Romulus và Remus. Ngoài ra còn có một số thần linh nhỏ với vai trò thần bảo hộ, như LaresPenate. Tôn giáo cổ xưa này là nền tảng của mos maiorum (nghĩa là "phong tục tổ tiên" hay đơn giản là "truyền thống") được xem là cốt lõi của bản sắc văn hóa La Mã, bao gồm nguyên tắc tôn trọng thời gian, các hình mẫu thể hiện hành vi ứng xử chuẩn mực và những thực tiễn xã hội liên quan và ảnh hưởng đến đời sống cá nhân, chính trị và quân sự ở La Mã cổ đại. Gắn liền với tôn giáo đa thần, sự sùng bái hoàng gia cũng đã trở thành một trong những phương thức mà Roma quảng bá sự hiện diện của mình ở các tỉnh, để nuôi dưỡng lòng trung thành và bản sắc văn hóa chung trong toàn Đế quốc.

Đối với người dân La Mã thông thường, tôn giáo La Mã đã trở thành một phần của cuộc sống thường nhật. Mỗi nhà đều có một gian thờ trong gia đình của mình, nơi diễn ra sự cầu nguyện và nghi lễ rưới rượu cho các vị thần giữ nhà. Các đền thờ khu dân cư và những nơi linh thiêng như suối và lùm cây điểm xuyết khắp thành phố. Lịch La Mã được xây dựng xung quanh những nghi lễ tôn giáo. Phụ nữ, nô lệ và trẻ em đều tham gia vào một loạt các hoạt động tôn giáo. Một số nghi lễ công cộng chỉ có thể được thực hiện bởi phụ nữ, và phụ nữ đã hình thành nên chức vụ tư tế được ủng hộ và nổi tiếng nhất Roma, Trinh nữ Vesta - người có nhiệm vụ trông giữ ngọn lửa của nữ thần Vesta thiêng liêng của Roma trong nhiều thế kỷ, cho đến khi tan rã dưới sự thống trị của

👁️ 5 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
:link= _Bài này viết về thành phố Roma. "Rome" được chuyển hướng đến đây. Với những mục đích tìm kiếm khác, vui lòng xem La Mã (định hướng)._ **Roma** (tiếng Latinh và tiếng Ý: _Roma_
thumb|right|Thành phố sơ khởi được hình thành từ [[Bảy ngọn đồi La Mã bao quanh bởi tường thành Servius (màu xanh) được xây dựng vào đầy thế kỷ 4 TCN. Tường thành Aurelianus (màu đỏ)
**Giáo phận Roma** (; ) là một giáo phận Công giáo tại Italia và Thành Vatican, thuộc quyền tài phán trực tiếp của Giáo hoàng, là Giám mục Roma và là Thượng giáo tông của
**Associazione Sportiva Roma** (có nghĩa là _Hiệp hội thể thao Roma_), thường được gọi là **AS Roma**, **Roma** (), là một câu lạc bộ bóng đá có trụ sở tại Roma, Ý. Được thành lập
**Biên niên sử Giáo hội Công giáo Rôma** này ghi lại nhiều sự kiện xảy ra trong lịch sử Giáo hội Công giáo Rôma trải dài gần hai nghìn năm, song song cùng lịch sử
**Trung tâm lịch sử thành Roma** (tiếng Ý: _Centro storico di Roma_) nằm bên trong tường thành Aurelianus hay **thành La Mã cổ đại** là khoảng không gian đô thị đặc biệt, đại diện cho
**Lịch Chung Rôma** (hay còn gọi **Lịch La Mã Tổng quát**) là lịch phụng vụ cho biết ngày cử hành các thánh và các mầu nhiệm của Chúa Giêsu Kitô trong Nghi lễ Rôma của
**Quận 1 Trung tâm lịch sử** (tiếng Ý: _Municipio I Centro Storico_) là quận hành chính đầu tiên của thủ đô Roma, Ý và có địa giới bao gồm khu vực trung tâm của thành
thumb|_[[Chó sói đồi Capitoline_, tác phẩm điêu khắc về con sói cái đang cho cặp song sinh Romulus và Remus bú, đây là hình tượng nổi tiếng nhất có liên quan đến sự thành lập
**Công quốc Roma** () là một giáo khu nhỏ của Đông La Mã nằm ở Trấn khu Ravenna. Cũng giống như các nước khác thuộc Đông La Mã tại Ý được đặt dưới sự cai
**Giáo triều Rôma** () là cơ quan điều hành trung ương, được Giáo hoàng trao quyền quản lý Thành quốc Vatican và phục vụ Giáo hội Công giáo hoàn vũ với Giáo hoàng, người kế
**Roma Metro** (tiếng Italia: Metropolitana di Roma) là một hệ thống giao thông công cộng ngầm hoạt động ở Roma, Italia. Hệ thống này mở vào năm 1955, làm cho đây là tàu điện ngầm
**Thành phố đô thị Roma Thủ đô** () là một thành phố đô thị theo hiến pháp của vùng Lazio tại Ý. Thủ phủ của Thành phố đô thị Roma Thủ đô là thành phố
Giáo hội Công giáo Rôma phân chia phẩm trật giáo sĩ thành ba chức cơ bản gọi là chức thánh (hoặc thánh chức): giám mục, linh mục và phó tế. Theo Giáo hội, thuật ngữ
nhỏ|240x240px| _Ngọn đuốc của Nero_, tranh của [[Henryk Siemiradzki (1876)]]**Các thánh tử đạo tiên khởi của giáo đoàn Rôma** là những Kitô hữu đã chịu tử đạo tại thành phố Roma trong cuộc bách hại
**Công xã La Mã** hoặc **Công Xã Rôma** là () là một nỗ lực nhằm thiết lập một chính phủ giống như nền Cộng hòa La Mã cũ đối lập với quyền lực tạm thời
**Tỉnh Roma** (Tiếng Ý: _Provincia di Roma_), là một tỉnh cũ và vùng đô thị Roma ở vùng Lazio của Ý, diện tích 5.352 km², tổng dân số là 4.053.779 người (2007) và có 121 đô
**Sân bay Ciampino Roma** (tiếng Ý: Aeroporto di Roma-Ciampino hoặc Sân bay Giovan Battista Pastine) (mã sân bay IATA: CIA, mã sân bay ICAO: lira) là một sân bay dân dụng, quân sự gầm Roma,
**Tòa thẩm giáo Rôma** (tên chính thức là _Suprema Congregatio Sanctae Romanae et Universalis Inquisitionis_; tiếng Anh: _Roman Inquisition_) là một hệ thống tòa án do Tòa Thánh Rôma phát triển trong nửa sau của
**Cervara di Roma** là một đô thị ở tỉnh Roma, vùng Latium của Italia, nằm ở vị trí khoảng 50 km về phía đông của Roma. Cervara di Roma giáp các đô thị: Agosta, Arsoli, Camerata
**Genzano di Roma** là một đô thị trong tỉnh Roma, vùng Lazio, Ý. Đô thị này có diện tích km2, dân số thời điểm năm 2009 là người. Genzano di Roma có cự ly km
**Đại hoả hoạn thành Roma** là một vụ cháy lớn xảy ra tại Roma vào năm đêm 19 tháng 7 năm 64 sau Công nguyên giữa các cửa hàng quy tụ quanh Circus Maximus. Do
**Società Sportiva Alba-Audace** là một câu lạc bộ bóng đá Ý từ khu vực Flaminio của Rome, được thành lập vào năm 1907. Câu lạc bộ được chú ý nhất khi thi đấu trong các
**Fortitudo-Pro Roma Società di Ginnastica e Scherma** là một câu lạc bộ thể thao được thành lập vào năm 1908 với tên **Fortitudo** ở Rome, ở Rione Borgo, và có trụ sở ở quảng trường
**Colonna** là một đô thị ở tỉnh Roma, vùng Latium của Italia, nằm ở vị trí khoảng 20 km về phía đông nam của Roma, on the Alban Hills. Vào thời điểm ngày 31 tháng 12
**Campagnano di Roma** là một đô thị trong tỉnh Roma, vùng Lazio, Ý. Đô thị này có diện tích km2, dân số thời điểm năm 2020 là 11 390 người. Đô thị này có cự
**Quận 6 Roma của những ngọn tháp** (tiếng Ý: _Municipio VI Roma delle Torri_) là quận hành chính thứ sáu của thủ đô Roma, Ý. Quận được thành lập vào ngày 11 tháng 3 năm
**Foot Ball Club di Roma** (được biết đến nhiều nhất là **Roman**) là một câu lạc bộ thể thao của Ý từ vùng Parioli của Rome, được thành lập vào năm 1901 và được biết
**Mandela** là một đô thị ở tỉnh Roma trong vùng Lazio, có cự ly khoảng 40 km về phía đông bắc của Roma. Tại thời điểm ngày 31 tháng 12 năm 2004, đô thị này có
nhỏ|phải|Bản mẫu Huy hiệu Hồng y Nhiếp chính **Nhiếp chính Giáo hội Rôma Thánh** (còn gọi là **Hồng y Nhiếp chính**, **Hồng y Thị thần**, tiếng Ý: _Camerlengo_) là một chức vụ thuộc Phòng Quản
**Marino** (_Marinum_ hay _Castrimoenium_ trong tiếng Latin, _Marini_ trong phương ngữ) là một thành phố trong vùng Lazio (miền trung Ý), trên đồi Alban, Ý, 21 km về phía đông nam của Roma, với dân số
**Quận 15 Cassia - Flaminia** (tiếng Ý: _Municipio XV Cassia - Flaminia_) là quận hành chính cuối cùng của thủ đô Roma, Ý. Quận được thành lập vào ngày 11 tháng 3 năm 2013, thay
**Quận 13 Aurelia** (tiếng Ý: _Municipio XIII Aurelia_) là quận hành chính thứ mười ba của thủ đô Roma, Ý. Quận được thành lập vào ngày 11 tháng 3 năm 2013, thay thể Quận 18
**Quận 14 Núi Mario** (tiếng Ý: _Municipio XIV Monte Mario_) là quận hành chính thứ mười bốn của thủ đô Roma, Ý. Quận được thành lập vào ngày 11 tháng 3 năm 2013, thay thể
**Quận 12 Núi Xanh** (tiếng Ý: _Municipio XII Monte Verde_) là quận hành chính thứ mười hai của thủ đô Roma, Ý. Quận được thành lập vào ngày 11 tháng 3 năm 2013, thay thể
**Quận 10 Ostia** (tiếng Ý: _Municipio X Ostia_) là quận hành chính thứ mười của thủ đô Roma, Ý. Quận được thành lập vào ngày 11 tháng 3 năm 2013 và là quận duy nhất
**Quận 11 Arvalia - Portuense** (tiếng Ý: _Municipio XI Arvalia - Portuense_) là quận hành chính thứ mười một của thủ đô Roma, Ý. Quận được thành lập vào ngày 11 tháng 3 năm 2013,
**Quận 9 EUR** (tiếng Ý: _Municipio IX EUR_) là quận hành chính thứ chín của thủ đô Roma, Ý. Quận được thành lập vào ngày 11 tháng 3 năm 2013, thay thể Quận 12 cũ.
**Quận 7 Thánh Gioan - Cinecittà** (tiếng Ý: _Municipio VII San Giovanni - Cinecittà_) là quận hành chính thứ bảy của thủ đô Roma, Ý. Quận được thành lập vào ngày 11 tháng 3 năm
**Quận 8 Đường cổ Appia** (tiếng Ý: _Municipio VIII Appia Antica_) là quận hành chính thứ tám của thủ đô Roma, Ý. Quận được thành lập vào ngày 11 tháng 3 năm 2013, thay thể
**Quận 5 Prenestino - Centocelle** (tiếng Ý: _Municipio V Prenestino - Centocelle_) là quận hành chính thứ năm của thủ đô Roma, Ý. Quận được thành lập vào ngày 11 tháng 3 năm 2013, từ
**Quận 4 Tiburtina** (tiếng Ý: _Municipio IV Tiburtina_) là quận hành chính thứ tư của thủ đô Roma, Ý. Quận được thành lập vào ngày 11 tháng 3 năm 2013, thay thế cho Quận 5
**Quận 2 Parioli - Nomentano** (tiếng Ý: _Municipio II Parioli - Nomentano_) là quận hành chính thứ hai của thủ đô Roma, Ý. Từ ngày 11 tháng 3 năm 2013, Quận 2 được sửa đổi
**Quận 3 Núi Thánh** (tiếng Ý: _Municipio III Monte Sacro_) là quận hành chính thứ ba của thủ đô Roma, Ý. Quận được thành lập vào ngày 11 tháng 3 năm 2013, thay thế cho
**_Roma_** là một thiết giáp hạm của Regia Marina (Hải quân Hoàng gia Ý). Được đặt theo tên của thành phố Roma, đây là thiết giáp hạm thứ ba của lớp _Littorio_ và là một
**Câu lạc bộ bóng đá Atletico Roma** là một câu lạc bộ bóng đá Ý có trụ sở tại Rome, Ý. Câu lạc bộ được thành lập với tên Nuova Tor Sapienza Calcio, được đổi
nhỏ|Bàn thờ tại [[Nhà thờ Santa Cecilia in Trastevere|nhà thờ Thánh Cecilia tại Trastevere, thành phố Roma, với cách bài trí được duy trì từ năm 1700]] **Nghi chế Rôma** () là nghi chế được
**_Roma_** là một bộ phim chính kịch năm 2018 được viết và đạo diễn bởi Alfonso Cuarón. Cuarón cũng là nhà sản xuất, đồng biên tập và đồng quay phim bộ phim này. Phim có
**Viện Đại học hệ Nghiên cứu Roma Tre** (tiếng Ý: **Università degli Studi di Roma Tre**) còn được gọi là **Viện Đại học La Mã ** hoặc **Đại học Roma 3** hay đơn giản là
**Các Hiệp ước Roma** là 2 hiệp ước của Liên minh châu Âu được 6 nước Pháp, Tây Đức, Ý, Bỉ, Hà Lan và Luxembourg ký kết ngày 25.3.1957 tại Roma, Ý. Hiệp ước thứ