✨Mật nghị Hồng y

Mật nghị Hồng y

[[Nhà nguyện Sistina|Nhà nguyện Sistine, địa điểm tổ chức Mật nghị Hồng y kể từ năm 1492.]] Mật nghị hồng y (hay còn gọi Cơ mật viện bầu Giáo hoàng) là một cuộc họp kín của Hồng y đoàn để bầu ra vị Giám mục của giáo phận Rôma, người sẽ trở thành giáo hoàng của Giáo hội Công giáo thay cho vị giáo hoàng trước đó vừa qua đời hoặc từ chức. Giáo hội Công giáo xem giáo hoàng là người kế vị thánh Phêrô để đứng đầu Giáo hội Công giáo tại trần gian. Mật nghị này là phương thức để chọn giáo hoàng trong suốt gần nửa thời gian tồn tại của giáo hội, giờ đây trở thành phương thức cổ xưa nhất còn đang được thi hành để chọn người đứng đầu một tổ chức.

Tên gọi

Trong tiếng Việt, cơ chế này thường được gọi là Mật nghị Hồng y hoặc Cơ mật viện bầu giáo hoàng. Chữ "mật" đã thể hiện bản chất của nó là nội bộ, kín đáo, và không thể có tác động từ bên ngoài. Cũng có khi gọi là Mật tuyển viện, nhưng việc sử dụng thuật ngữ "Mật tuyển viện" thì không chính xác. Vì theo quan điểm và đức tin Công giáo, "tuyển" (hay "tuyển chọn") người làm giáo hoàng không phải là việc của các hồng y, mà là việc của Thiên Chúa (chữ "tuyển" hay "tuyển chọn" hàm ý đây là đặc quyền của người cấp trên chọn ra người cấp dưới để làm việc cho mình). Do đó, các hồng y không có quyền "tuyển" giáo hoàng mà họ chỉ có thể bỏ phiếu bầu cho một người nào đó theo ý định cá nhân của họ (việc này hàm ý quyền của những người đồng cấp hoặc thấp hơn bầu ra một người lên làm lãnh đạo cho số đông).

Lịch sử mật nghị

Trong những thế kỷ đầu tiên của Giáo hội Công giáo, vị Giám mục Rome (giống như các giám mục khác) được chọn qua một cuộc họp của giáo sĩ và dân chúng Roma. Thành phần của cử tri được xác định một cách rõ ràng hơn, khi vào năm 1059, Hồng y đoàn được chỉ định là cơ cấu bầu cử duy nhất. Năm 1061, diễn ra cuộc Mật nghị Hồng y đầu tiên trong lịch sử, lúc này Hồng y đoàn đã bầu ra Giáo hoàng Alexanđê II. Từ đó, những chi tiết khác của quá trình bầu cử dần dần được xác lập.

Năm 1179, Giáo hoàng Alessandro III chính thức quyết việc việc loại trừ giáo dân ra khỏi việc bầu chọn giáo hoàng, và ấn định việc này chỉ dành các các hồng y. Tuy vậy, số lượng hồng y trong khoảng thời gian này số lượng rất ít, nằm trong khoảng từ 10 cho đến 20 vị, đến thế kỷ XIII thì nhiều hơn chút ít, nhưng không bao giờ vượt trên số lượng là 30 vị. Chính vì số lượng ít này, mà các hồng y khó có thể thỏa thuận nhằm bầu nên vị tân giáo hoàng, và tình trạng bầu chọn này thì kéo dài, có khi hàng tháng, có trường hợp tính bằng năm. Mật nghị giờ đây được tổ chức tại nhà nguyện Sistina trong thành Vatican.

Giáo hoàng Grêgôriô X đã công bố tông hiến "Ubi pericolo",. Thuật ngữ này được sử dụng chính thức đầu tiên vào năm 1216, trong hoàn cảnh các hồng y đã chọn lựa tân giáo hoàng, lấy danh hiệu là Hônôriô III. Những quy định được đặt ra vô cùng tỉ mỉ lẫn nghiêm ngặt: 10 ngày sau khi giáo hoàng qua đời, các hồng y phải nhóm họp trong cùng dinh Tông Tòa nơi giáo hoàng qua đời, hoặc tại một thành phố khác, tùy theo hoàn cảnh, trong một phòng duy nhất, không có tường cũng chẳng có màn phân chia. Các hồng y buộc phải sống chung, không thể ra ngoài, cũng không được tiếp xúc với bên ngoài, không được nói bí mật với hồng y nào khác. Những chìa khóa nơi mật nghị phải được vị hồng y nhiếp chính giữ ở bên trong, và những chìa khóa bên ngoài do vị tư lệnh đội binh giữ. Thực phẩm được chuyển vào bên trong mật nghị qua một cửa sổ quay được canh giữ và kiểm soát cẩn mật để không một sứ điệp nào được chuyển qua cửa này. Nếu sau 3 ngày mà các hồng y không bầu được giáo hoàng mới, thì trong 5 ngày kế tiếp, các hồng y chỉ được một đĩa thực phẩm trong bữa ăn trưa và một đĩa trong bữa ăn tối; sau 5 ngày ấy, các hồng y chỉ được bánh, nước lã hoặc rượu mà thôi. Từ đó tình trạng bầu cử chậm chạp một lần nữa xuất hiện. Thánh Giáo hoàng Cêlestinô V, đã liên tiếp cho công bố 3 sắc chỉ (Quia in futurum, 28.9.1294; Pridem 27.10.1294; Constitutionem 10.12.1294) tái lập các quy luật về mật nghị bầu giáo hoàng. Từ đó đến nay, các quy luật về mật nghị luôn luôn được tuân giữ tuy có một số thay đổi để thích nghi với thời đại đan xen với kinh nghiệm của các hồng y. ngày 25 tháng 12 năm 1904, Thánh Giáo hoàng Piô X đã tập hợp các quy luật từ trước đó vào một văn kiện duy nhất. Lần đầu tiên trong lịch sử, giáo hoàng này ra tuyên bố nghiêm cấm bất kỳ sự can thiệp nào của chính quyền dân sự vào mật nghị chọn giáo hoàng.

Năm 1975, Giáo hoàng Phaolô VI ban hành Tông Hiến "Romano Pontifici eligendo", Bầu chọn giáo hoàng. Văn kiện này được bổ sung và sửa đổi bởi Tông hiến "Mục tử của toàn thể đoàn chiên Chúa" do Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II ban hành năm 1996.

Gần đây nhất là trường hợp Giáo hoàng Biển Đức XVI ban hành 2 tự sắc vào năm 2007 và ngày 22 tháng 2 năm 2013 thay đổi vài điểm trong Tông hiến của vị tiền nhiệm.

Nơi bầu chọn

Nhà nguyện Sistine là nơi diễn ra một trong những sự kiện đặc biệt và linh thiêng nhất của Giáo hội Công giáo. Đây là địa điểm các hồng y tổ chức bầu giáo hoàng mới sau khi một giáo hoàng qua đời hoặc thoái vị (như trường hợp tháng 2/2013 của Giáo hoàng Benedict XVI). Các hồng y phải cách ly hoàn toàn với thế giới và họ dùng một bếp lò sắt có ống khói nhỏ để thông báo ra bên ngoài tình hình bầu chọn.

Quy định mật nghị hiện nay

Quy tắc chung

Theo quy định hiện hành, cách thức duy nhất bầu chọn giáo hoàng là mở cuộc bỏ phiếu kín, và ứng viên đắc cử phải có ít nhất 2/3 số phiếu của các cử tri có mặt tại thời điểm bầu cử.

Theo quy định, mỗi ngày các hồng y phải nhóm họp hai lần, sáng và chiều, tại Nhà nguyện Sistina, để bầu chọn tân giáo hoàng. Mỗi buổi tụ họp như vậy, nếu điều kiện cho phép, có thể tổ chức hai vòng bỏ phiếu. Một yêu cầu tỉ mỉ hơn đối với việc lựa chọn giáo hoàng, hồng y cử tri khi bỏ phiếu, giơ cao lá phiếu và đọc lời tuyên thệ: "Tôi xin Chúa Kitô, Đấng sẽ xét xử tôi, làm chứng rằng tôi bỏ phiếu cho người mà, theo Chúa, tôi thấy là phải bầu".

Nếu số lượng phiếu bầu tương đương số lượng hồng y cử tri, sẽ tiến hành xác định kết quả bầu chọn. Một trong 3 hồng y kiểm phiếu sẽ có trách nhiệm dùng kim khâu các lá phiếu đã kiểm tra kết quả. Theo cách truyền thống rơm ẩm được cho thêm vào để tạo khói đen, tuy nhiên khói này có thể bị hiểu lầm, như vào ngày 26 tháng 10 năm 1958, khói trắng pha đen thành màu xám bay ra. Do đó kể từ năm 1963, hóa chất đã được thêm vào quá trình đốt cháy. Trong mật nghị năm 2013, Vatican đã tiết lộ các hóa chất được sử dụng để tạo màu cho khói:

  • Khói đen: kali perchlorat, anthracen, lưu huỳnh
  • Khói trắng: kali clorat, lactose, nhựa thông

Sau khi bầu chọn thành công, các hồng y tiến đến chúc mừng tân giáo hoàng, đồng thời có hành động bày tỏ sự vâng phục tuyệt đối vị tân giáo hoàng. Mọi nghi thức kết thúc, vị Hồng y trưởng đẳng Phó tế loan báo cho dân chúng tụ tập quanh Tòa Thành danh hiệu mà tân giáo hoàng đã chọn, bằng lời chào Habemus Papam. Tân giáo hoàng sẽ tiến ra ban công Đền thờ Thánh Phêrô ban phép lành cho Roma và toàn thế giới Urbi et Orbi.

Năm 1958, Giáo hoàng Gioan XXIII tăng số hồng y lên 75 vị.

Năm 1973, Giáo hoàng Phaolô VI đã nâng số hồng y lên 120 vị. rằng cần phải có một đa số chấp thuận hai-phần-ba để bầu một vị giáo hoàng mới.

Mật nghị và cá cược

Từ năm 1503, đặt cược vào sự bầu chọn giáo hoàng đã được xem là một "hoạt động truyền thống". Giáo hoàng Gregory XIV không hài lòng về tình trạng này nên năm 1591, ông đe dọa sẽ khai trừ khỏi giáo hội những kẻ tham gia cá cược.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
[[Nhà nguyện Sistina|Nhà nguyện Sistine, địa điểm tổ chức Mật nghị Hồng y kể từ năm 1492.]] **Mật nghị hồng y** (hay còn gọi **Cơ mật viện bầu Giáo hoàng**) là một cuộc họp kín
**Mật nghị Hồng y tháng 8 năm 1978**, là mật nghị Hồng y đầu tiên trong hai mật nghị được tổ chức trong năm 1978, đã được triệu tập sau cái chết của Giáo hoàng
**Mật nghị Hồng y 2013** (hoặc **_Cơ mật viện bầu Giáo hoàng năm 2013_**) được triệu tập theo sau việc Giáo hoàng Biển Đức XVI thoái vị vào ngày 28 tháng 2 năm 2013. 115
**Mật nghị Hồng y 2025** (hay **_Cơ mật viện bầu giáo hoàng 2025_**) được triệu tập để bầu ra một giáo hoàng mới điều hành Giáo hội Công giáo, kế nhiệm Giáo hoàng Phanxicô sau
**Mật nghị Hồng y 2005** (hoặc **_Cơ mật viện bầu Giáo hoàng năm 2005_**) được triệu tập theo sau việc Giáo hoàng Gioan Phaolô II qua đời vào ngày 2 tháng 4 năm 2005 .
Mật nghị _ tháng 10 năm 1978 của Giáo hoàng _ được khởi động bằng cái chết của Giáo hoàng Gioan Phaolô I vào ngày 28 tháng 9 năm 1978, chỉ 33 ngày sau khi
liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:John_Paul_II_funeral_long_shot.jpg|nhỏ|288x288px|**Các hồng y mặc [[Phẩm phục Công giáo|phẩm phục đỏ trong lễ tang Giáo hoàng Gioan Phaolô II**]] **Hồng y đoàn**, chính thức là **Hồng y thánh đoàn**, là cơ quan của tất cả các
phải|Trang phục Hồng y **Hồng y** (Latinh: _Sanctae Romanae Ecclesiae cardinalis_, nghĩa đen là Hồng y của Giáo hội Công giáo Rôma) là một nhà lãnh đạo cao cấp của Giáo hội này được biết
nhỏ|Huy hiệu của Hồng y Richelieu **Armand Jean du Plessis, Công tước thứ nhất của Richelieu** (tiếng Pháp: [aʁmɑ̃ ʒɑ̃ dy plɛsi]; 9 tháng 9 năm 1585 – 4 tháng 12 năm 1642), được gọi
**Julio Rosales y Ras** (1906 - 1983) là một hồng y người Philippines của Giáo hội Công giáo Rôma. Ông nguyên là Tổng giám mục Tổng giáo phận Cebu từ năm 1949 đến năm 1982
**Chủ nghĩa Mật nghị** hay viết đầy đủ hơn là **Chủ nghĩa Mật nghị Hồng y** là một yêu cầu bầu chọn tân giáo hoàng bằng một nhóm nhỏ các tín hữu có các hoạt
**Nhà nguyện Sistina** (; tiếng Latinh: Sacellum Sixtinum; tiếng Ý: Cappella Sistina ; tiếng Anh: Sistine Chapel) là một nhà nguyện trong Điện Tông Tòa, ở Thành Vatican. Ban đầu được gọi là _Cappella Magna_
**Jaime Lucas Ortega y Alamino** (1936–2019) là một Hồng y người Cuba của Giáo hội Công giáo Rôma. Ông hiện đảm nhận vai trò Hồng y Đẳng Linh mục Nhà thờ Ss. Aquila e Priscilla.
**Viện cơ mật** hay hội đồng cơ mật là một cơ quan tư vấn cho người đứng đầu nhà nước của một quốc gia của một chế độ quân chủ. Từ "cơ mật" có nghĩa
**Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn** (sinh ngày 5 tháng 3 năm 1934) là một hồng y người Việt Nam thuộc Giáo hội Công giáo Rôma và hiện đảm nhận vai trò Hồng y đẳng Linh
**Giuse Maria Trịnh Như Khuê** (11 tháng 12 năm 1898 – 27 tháng 11 năm 1978) là một hồng y thuộc Giáo hội Công giáo Rôma và là hồng y tiên khởi của Việt Nam. Khẩu
**Giáo hoàng Piô IX** (Tiếng Latinh: _Pie IX_; tiếng Ý: _Pio IX_; tên khai sinh: **Giovanni Maria Mastai Ferretti**;) là vị giáo hoàng thứ 255 của Giáo hội Công giáo. Theo niên giám tòa thánh
**Phêrô Nguyễn Văn Nhơn** (sinh ngày 1 tháng 4 năm 1938) là một hồng y, giám mục Công giáo người Việt Nam. Ông hiện đảm nhận tước vị Hồng y Đẳng Linh mục Nhà thờ
**Biển Đức XVI** (cách phiên âm tiếng Việt khác là _Bênêđictô XVI_ hay _Bênêđitô_, xuất phát từ Latinh: _Benedictus_; tên khai sinh là **Joseph Aloisius Ratzinger**; 16 tháng 4 năm 1927 – 31 tháng 12
**Marc Armand Ouellet**, P.S.S. (sinh ngày 8 tháng 6 năm 1944), là một Hồng y người Canada của Giáo hội Công giáo Rôma. Ông là nguyên Tổng trưởng Thánh Bộ Giám mục và Hồng y
**Ignace Gabriel Tappouni** (1879 - 1968) là một Hồng y người Iraq của Giáo hội Công giáo Rôma. Ông nguyên là Thượng phụ Antioch, đặt tại Liban của Giáo hội Công giáo nghi lễ Syria.
**Valerian Gracias** (28 tháng 10 năm 1900 - 1978) là một Hồng y người Ấn Độ của Giáo hội Công giáo Rôma. Ông nguyên là Tổng giám mục Tổng giáo phận Bombay từ năm 1950
**Justinus Darmojuwono** (1914 - 1994) là một Hồng y người Indonesia của Giáo hội Công giáo Rôma. Ông nguyên là Tổng giám mục Tổng giáo phận Semarang và Tuyên úy Quân đội Indonesia. Ông từng
**Jaime Lachica Sin** (1928 - 2005) là một Hồng y người Philippines của Giáo hội Công giáo Rôma. Ông từng đảm nhận vai trò Tổng giám mục chính tòa Tổng giáo phận Manila từ 1974
**Joseph Parecattil** (1912 - 1987) là một Hồng y người Ấn Độ của Giáo hội Công giáo Rôma. Ông nguyên là Chủ tịch Ủy ban Giáo hoàng vể Chỉnh sửa Giáo luật về các Giáo
**Lawrence Trevor Picachy S.J.** (1916 - 1992) là một Hồng y người Ấn Độ của Giáo hội Công giáo Rôma. Ông từng đảm nhận vị trí Tổng giám mục Tổng giáo phận Calcutta và Chủ
**Duraisamy Simon Lourdusamy** (1924 – 2014) là một Hồng y người Ấn Độ của Giáo hội Công giáo Rôma. Ông nguyên là Tổng trưởng Thánh bộ Các Giáo hội Công giáo Đông Phương và Hồng
**Paul Gouyon** (1910 - 2000) là một Hồng y người Pháp của Giáo hội Công giáo Rôma. Ông từng đảm nhận vai trò Hồng y Đẳng Linh mục Nhà thờ Natività di Nostro Signore Gesù
**Micae Michai Kitbunchu** (sinh 1929) là một Hồng y người Thái Lan của Giáo hội Công giáo Rôma. Ông hiện là hồng y Trưởng đẳng Linh mục của Hồng y Đoàn, trước đó, ông cũng
**Thomas Benjamin Cooray O.M.I.** (1901 - 1988) là một Hồng y người Sri Lanka của Giáo hội Công giáo Rôma. Ông nguyên là Tổng giám mục Tổng giáo phận Colombo từ năm 1947 đến 1976,
**Simon Ignatius Pimenta** (1920–2013) là một Hồng y người Ấn Độ của Giáo hội Công giáo Rôma. Ông từng đảm nhiệm các chức danh như Tổng giám mục Tổng giáo phận Bombay từ năm 1978
là một hồng y người Nhật Bản của Giáo hội Công giáo Rôma. Ông từng đảm nhiệm vị trí Tổng giám mục Tokyo trong suốt khoảng thời gian ba mươi năm từ năm 1970 đến
**Ricardo Jamin Vidal** (1931–2017) là một hồng y người Philippines của Giáo hội Công giáo Rôma. Ông nguyên là Tổng giám mục Tổng giáo phận Cebu, Tổng giáo phận Lipa và Chủ tịch Hội đồng
là một Hồng y người Nhật Bản của Giáo hội Công giáo Rôma. Ông từng đảm nhận vị trí Tổng giám mục Tổng giáo phận Nagasaki từ năm 1968 đến năm 1990. Hồng y Satowaki
**Joseph Marie Anthony Cordeiro** (1918 - 1994) là một Hồng y người Pakistan gốc Ấn Độ của Giáo hội Công giáo Rôma. Ông nguyên Tổng giám mục Tổng giáo phận Karachi và Chủ tịch Hội
**Ignace Moussa I Daoud** (1930 - 2012) là một Hồng y người Syria của Giáo hội Công giáo nghi lễ Syria, trực thuộc Giáo hội Công giáo Rôma. Ông nguyên là Thượng phụ của Giáo
**Nicholas Cheong Jin-suk** (1931-2021) là một Hồng y người Hàn Quốc của Giáo hội Công giáo Rôma. Ông nguyên là Tổng giám mục Tổng giáo phận Seoul (1998 - 2012) và Chủ tịch Hội đồng
**Anthony Soter Fernandez** (1932-2020) là một hồng y người Malaysia của Giáo hội Công giáo Rôma. Ông nguyên là Tổng giám mục chính tòa của Tổng giáo phận Kuala Lumpur, thủ đô Malaysia trong hai
**Varkey Vithayathil C.SS.R.** (1927–2011) là một Hồng y người Ấn Độ của Giáo hội Công giáo Rôma. Ông nguyên là Đại Tổng Giám mục Tòa Ernakulam-Angamaly của Giáo hội Công giáo Syro-Malabars. Ông cũng từng
nhỏ **Paul Pierre Méouchi** (1894 - 1975) là một Hồng y người Li Băng của Giáo hội Công giáo Rôma. Ông nguyên là Thượng phụ Tòa Thượng phụ Antioch của Giáo hội Công giáo Maronites,
**Jean-Louis Pierre Tauran** (; sinh ngày 5 tháng tháng 4 năm 1943 – 5 tháng 7 năm 2018) tại Pháp. Ông là một Hồng y của Giáo hội công giáo Roma. Ông từng giữ chức
**Laurean Rugambwa** (1912 - 1997) là một hồng y người Tanzania của Giáo hội Công giáo Rôma. Ông từng đảm trách cương vị Tổng giám mục Trưởng Giáo tỉnh Dar-es-Salaamm kiêm Tổng giám mục Tổng
**John Murphy Farley** (20 tháng 4 năm 1842 – 17 tháng 9 năm 1918) là một hồng y người Mỹ gốc Ireland của Giáo hội Công giáo Rôma. Ông giữ chức Tổng giám mục Tổng
là một Hồng y người Nhật Bản của Giáo hội Công giáo Rôma. Ông từng đảm nhiệm các chức danh như Tổng giám mục Tổng giáo phận Tokyo trong hơn 30 năm từ năm 1937
**Stephen Kim Sou-hwan** (1922 - 2009) là một hồng y người Hàn Quốc của Giáo hội Công giáo Rôma. Ông nguyên là Hồng y Trưởng đẳng Linh mục của Hồng y Đoàn, Tổng giám mục
**Nguyễn Phúc Hồng Y** (chữ Hán: 阮福洪依, 11 tháng 9 năm 1833 – 23 tháng 2 năm 1877), tôn hiệu **Thụy Thái vương** (瑞太王) (còn được đọc trại thành **Thoại Thái vương**), biểu tự **Quân
**Angelo De Donatis** (sinh 1954) là một Hồng y người Italia của Giáo hội Công giáo Rôma. Ông hiện đảm nhận vai trò Hồng y Đẳng Linh mục, Giám quản Giáo phận Rôma, Giám quản
**Hugues de Lusignan** (1380 - 1442) là một Hồng y - Thượng phụ người Síp của Giáo hội Công giáo Rôma. Ông nguyên là Thượng phụ Tòa Thượng phụ Jerusalem. Trước đó, ông còn đảm
**António Augusto dos Santos Marto** (sinh 1947) là một Hồng y người Bồ Đào Nha của Giáo hội Công giáo Rôma. Ông hiện đảm nhận vai trò Hồng y Đẳng Linh mục, Giám mục chính
**John McCloskey** (1810 - 1885) là một Hồng y người Hoa Kỳ của Giáo hội Công giáo Rôma. Ông từng đảm trách vai trò Giám mục phó Giáo phận New York (1843 - 1847), giám