✨Không quân Hoàng gia Nam Tư

Không quân Hoàng gia Nam Tư

Không quân Hoàng gia Nam Tư (Vazduhoplovstvo Vojske Kraljevine Jugoslavije, VVKJ), được thành lập vào năm 1918 tại Vương quốc của người Serbia, Croatia và Slovenia (đổi tên thành Vương quốc Nam Tư vào năm 1929) và tồn tại cho đến khi Nam Tư đầu hàng phe Trục vào năm 1941 sau cuộc xâm lược Nam Tư trong Thế chiến II.

Đã có khoảng 18 phi cơ và hàng trăm phi công đã thoát khỏi cuộc xâm lược của phe Trục vào tháng 4 năm 1941 nhờ bay đến các căn cứ của phe Đồng Minh ở Ai Cập, cuối cùng họ gia nhập vào Không quân Hoàng gia ở Bắc Phi lúc ban đầu và sau đó với Không quân Balkan ở Ý và Nam Tư, với một số thậm chí còn tham gia vào Không quân Liên Xô và trở về Nam Tư vào năm 1944. Người Đức đã phân phát số máy bay và phụ tùng vừa chiếm được của Không quân Hoàng gia Nam Tư cho Romania, Bulgaria, Phần Lan và Nhà nước Độc lập Croatia mới được thành lập.

Lịch sử

Sáng lập

Không quân Hoàng gia Nam Tư được thành lập trên cơ sở Cục Hàng không Quân sự Serbia, một trong những lực lượng không quân đầu tiên hiện diện và tham gia vào trận chiến (trong chiến tranh Balkan năm 1912-1913). Hãng hàng không Serbia tồn tại trước sự chiếm đóng của Áo-Hung nhờ sống lưu vong ở miền trung Hy Lạp trong Thế chiến I, nơi các phi công phục vụ và được huấn luyện với sự giúp đỡ của Không quân Pháp. Năm 1918, Serbia đi đầu trong việc kiến lập một nhà nước Nam Tư thống nhất cùng với các cựu lãnh thổ Áo-Hung tại khu vực Balkan, mà sau đó được gọi là Vương quốc của người Serbia, Croatia và Slovenia.

Củng cố và hiện đại hóa

thumb|Nhóm phi công IK-3 từ Trung đoàn 6. Năm 1923, chính phủ của Vương quốc Nam Tư bắt đầu hiện đại hóa lực lượng không quân và thiết lập các hợp đồng trong và ngoài nước góp phần vào số lượng lớn máy bay phục vụ tại thời điểm Thế chiến II. Năm 1923, chính phủ củng cố bộ máy hành chính cho lực lượng không quân bằng cách sáp nhập Bộ Tư lệnh Hàng không với Bộ Chiến tranh và Hàng hải. Không quân Hoàng gia Nam Tư rất ít được biết đến và cuộc chiến ngắn ngủi của nó với Không quân Đức và Không quân Ý vào tháng 4 năm 1941.

Không quân Hoàng gia Nam Tư tính đến năm 1941 có 1.875 sĩ quan và 29.527 người thuộc các cấp bấc khác, bao gồm khoảng 2.000 phi công, với trên 450 máy bay ngoài tiền duyên ở trong nước (đáng chú ý là loại IK-3) có nguồn gốc từ Đức, Ý, Pháp và Anh, trong đó phần lớn là loại hiện đại. Lực lượng này được tổ chức thành 22 phi đội ném bom và 19 phi đội tiêm kích, những loại máy bay chính được dùng trong tác chiến, về tiêm kích gồm có 73 chiếc Messerschmitt Bf 109 E, 47 chiếc Hawker Hurricane I (phần nhiều được sản xuất hợp pháp tại Nam Tư), 30 chiếc Hawker Fury II, 11 chiếc Rogozarski IK-3 (cộng thêm nhiều chiếc đang chế tạo), 10 chiếc Ikarus IK-2, và 6 chiếc Rogozarski IK3 (cộng thêm cả số đang sản xuất); về ném bom có: 63 chiếc Dornier Do 17 K (bao gồm thêm 40 chiếc sản xuất có giấp phép), 2 chiếc Potez 63, 1 chiếc Messerschmitt Bf 110C-4 (bắt giữ được vào đầu tháng 4 do một sự cố điều hướng) và 1 chiếc Rogozarski R 313, 69 Dornier Do 17 K (trong đó có thêm 40 chiếc chế tạo hợp pháp), 61 chiếc Bristol Blenheim I (trong đó có khoảng 40 chiếc sản xuất hợp pháp) còn máy bay ném bom có 40 chiếc Savoia Marchetti SM-79 K. Các đơn vị trinh sát lục quân bao gồm 7 Nhóm với 130 máy bay ném bom hạng nhẹ Breguet 19 và Potez 25 đã lỗi thời. Ngoài ra còn có khoảng 400 máy bay huấn luyện và bổ trợ. Các đơn vị Không quân Hàng hải bao gồm 75 máy bay chia làm 8 phi đội, được trang bị, trong số nhiều loại phụ trợ khác, 12 chiếc Dornier Do 22 K và 15 chiếc Rogožarski SIM-XIV-H được thiết kế tại địa phương và các tàu bay có phao tuần tra hàng hải.

Máy bay của hãng hàng không Nam Tư Aeroput, bao gồm chủ yếu là 6 chiếc Lockheed Model 10 Electra, 3 chiếc Spartan Cruiser, và 1 chiếc de Havilland Dragon đã được huy động để tiến hành công tác vận tải cho không quân.. Trước tình hình đó mà Không quân Hoàng gia Nam Tư đã mua hoặc sản xuất máy bay từ bất cứ nguồn nào hiện có nghĩa là đến năm 1941, Không quân được trang bị khá độc đáo với 11 loại máy bay tác chiến khác nhau, 14 loại máy bay huấn luyện và năm loại máy bay phụ trợ riêng biệt, với 22 mẫu động cơ khác nhau, bốn súng máy và hai kiểu pháo máy bay khác nhau.

Hoạt động trong Thế chiến II

thumb|Vào tháng 3 năm 1941 chiếc [[Aeroput MMS-3 sản xuất duy nhất bắt đầu phục vụ trong Phi đội Bổ trợ 603 của Không quân Hoàng gia Nam Tư với vai trò như một máy bay liên lạc.]] Trong suốt năm 1940, người Anh đã cung cấp viện trợ quân sự quan trọng cho Không quân Hoàng gia Nam Tư để tăng cường lực lượng của mình chống lại các mối đe dọa ngày càng tăng của Đức. Vào đầu tháng 3 năm 1941, Không quân Đức đã bắt đầu đến ở nước láng giềng Bulgaria. Ngày 12 tháng 3 năm 1941, các đơn vị của Không quân Hoàng gia Nam Tư bắt đầu triển khai đến các sân bay thời chiến của họ. Việc lật đổ bắt chính phủ thân Đức ở Beograd vào ngày 27 tháng 3 đã kết thúc hy vọng về một thỏa thuận với Đức. Ngày 6 tháng 4 năm 1941, các đơn vị Không quân Đức ở Bulgaria và Romania tấn công Nam Tư bằng cuộc oanh tạc Beograd. Được trang bị với một sự kết hợp giữa trang thiết bị lạc hậu và máy bay mới vẫn đang được đưa vào phục vụ, Không quân Hoàng gia Nam Tư đã buộc phải bảo vệ tuyến biên giới dài của đất nước chống lại các cuộc tấn công từ nhiều hướng. Sự trung thành đáng ngờ của một số nhân viên quân sự đã không giúp ích được gì. Máy bay chiến đấu và pháo phòng không của Nam Tư đã hạ gục khoảng 90-100 máy bay địch, nhưng lực lượng bảo vệ thì không thể thực hiện bất kỳ tác động đáng kể nào trước bước tiến công của đối phương. Trong cuộc tấn công của máy bay Đức trên Sân bay Medoševac ở Niš ngày 6 tháng 4 khoảng 8:00, lửa đạn từ mặt đất đã bắn trúng chiến đấu cơ của phi công Đức Herbert Ihlefeld. Đại úy Ihlefeld là người được ghi nhận với hơn bốn mươi chiến thắng trên không đã bị Hạ sĩ Vlasta Belić bắn rơi bằng một khẩu súng máy Darne, tầm cỡ 7,69 mm, được lấy từ một chiếc Breguet 19 của Nam Tư. Sau khi nhận được một phát bắn trúng vào bộ phận làm mát dầu, động cơ của Bf 109 ngưng lại buộc viên phi công phải rời khỏi máy bay. Ông tự cứu mình với một chiếc dù cách phía đông nam Nis khoảng 35 dặm. Viên phi công Đức đã bị những người nông dân Serbia bắt giữ và giao nộp cho hiến binh. Vào ngày 17 tháng 4 năm 1941, chính phủ Nam Tư chính thức đầu hàng. Một số máy bay VVKJ trốn đến Ai Cập qua ngã Vương quốc Hy Lạp, riêng số phi hành đoàn về sau còn phục vụ trong Không quân Hoàng gia Anh (RAF).

Do sự bùng nổ của Thế chiến II, Nam Tư đã duy trì một lực lượng không quân đáng kể với số máy bay riêng, xuất xứ từ các nước đồng minh như Anh và máy bay từ các nước phe Trục như Đức và Ý. Năm 1940, Anh đã cố gắng để kéo Nam Tư về với phe Đồng minh bằng cách cung cấp viện trợ quân sự cho Không quân Hoàng gia Nam Tư, bao gồm máy bay chiến đấu Hawker Hurricane mới. Tuy nhiên Đức đã bán một số lượng lớn chiến đấu cơ Messerschmitt Bf 109 cho Nam Tư vào đầu năm 1941, người Đức mất tinh thần nhằm hướng tới một chiến dịch Balkan nên đã thuyết phục Nam Tư tham gia vào phe Trục. Mặc dù Nam Tư đã gia nhập phe Trục, phát xít Ý yêu cầu đồng minh Đức Quốc xã của mình tiến hành xâm lược Nam Tư nhằm tiến vào Hy Lạp và trợ giúp chiến dịch tai hại của họ ở đó và trong quá trình Nam Tư tan rã kể từ đó Ý đã đặt yêu cầu bồi thường trên các vùng lãnh thổ nhất định (chủ yếu là Dalmatia). Không quân Đức sau đó đã bắt đầu triển khai hàng loạt tại biên giới Nam Tư từ các quốc gia phát xít đồng minh. Không quân Hoàng gia Nam Tư đã buộc phải phân tán để bảo vệ Nam Tư khỏi một cuộc xâm lược rõ ràng và cuộc không chiến sắp xảy ra.[http://www.aeroflight.co.uk/waf/yugo/jkrv/yugo-af1-home.htm]

Sau cuộc đảo chính tại Beograd ngày 25 tháng 3 năm 1941, các lực lượng vũ trang Nam Tư đã được đặt vào tình trạng báo động. Bộ Tư lệnh Không quân Hoàng gia Nam Tư (JKRV) đã quyết định phân tán lực lượng của mình từ các căn cứ chính ra hệ thống 50 sân bay phụ trợ đã được chuẩn bị từ trước đó. Tuy nhiên nhiều sân bay trong số này không đủ trang thiết bị và có hệ thống thoát nước không tương xứng nên đã làm ngăn cản các hoạt động tiếp diễn của cả những máy bay nhẹ nhất trong điều kiện thời tiết bất lợi vào tháng 4 năm 1941. Mặc dù có (phần nào trên giấy tờ) một lực lượng mạnh hơn đáng kể các máy bay tương đối hiện đại so với lực lượng không quân hỗn hợp của Anh và Hy Lạp ở phía nam, nhưng JKRV đơn giản là không thể đối chọi lại được với ưu thế áp đảo của LuftwaffeRegia Aeronautica (Không quân Hoàng gia Ý) cả về số lượng, sự triển khai chiến thuật và kinh nghiệm chiến đấu. Do đó, cuộc đấu tranh trong vòng 11 ngày của JKRV không thể gọi là không phi thường.

Các lực lượng ném bom và hàng hải đã tiến đánh những mục tiêu tại Ý, Đức (phần lãnh thổ Áo), Hungary, Romania, Bulgaria, Albania và Hy Lạp, cũng như tấn công vào các đội quân của Đức, Ý và Hungary. Trong khi đó thì các phi đội máy bay tiêm kích không gây được thiệt hại gì đáng kể cho các cuộc ném bom có hộ tống của "Luftwaffe" tại Beograd và Serbia, cũng như với các cuộc tấn công của "Regia Aeronautica" ở Dalmatia, Bosnia, Herzegovina và Montenegro. JKRV cũng hỗ trợ trực tiếp cho lục quân Nam Tư đang chịu nhiều áp lực bằng cách oanh tạc vào đội quân tấn công và các đội hình cơ giới tại Croatia, Bosnia và Serbia (đôi khi các máy bay cất cánh bay đến lia đạn vào quân địch đang tấn công căn cứ vừa mới di tản). Không có gì là bất ngờ khi sau những tổn thất tổng hợp trong các cuộc không chiến, thiệt hại trên bộ trong những cuộc không kích của địch vào các căn cứ và sự tàn phá các sân bay do quân bộ đối phương gây ra sau 11 ngày, thì JKRV đã gần như không còn tồn tại. Tuy nhiên, cần phải chú ý rằng từ ngày 6 đến 17 tháng 4 năm 1941, JKRV đã tiếp nhận thêm 8 chiếc Hawker Hurricane I, 6 chiếc Dornier Do-17K, 4 chiếc Bristol Blenheim I, 2 chiếc Ikarus IK-2, 1 chiếc Rogožarski IK-3 và 1 chiếc Messerschmitt Bf 109 từ các nhà máy và phân xưởng sản xuất máy bay trong ngành công nghiệp hàng không địa phương.

thumb|Đài tưởng niệm những phi công đã hy sinh để bảo vệ Beograd trong cuộc chiến chống lại [[Luftwaffe|Không quân Đức Quốc xã vào tháng 4 năm 1941.]] Lực lượng máy bay ném bom Dornier của JKRV là một ví dụ minh họa. Vào đầu cuộc chiến, Không quân Hoàng gia Nam Tư được trang bị khoảng 60 chiếc Dornier Do 17K do Đức thiết kế, được Nam Tư mua vào mùa thu năm 1938, cùng với một giấy phép sản xuất. Đơn vị điều hành duy nhất là trung đoàn ném bom số 3 (3 vazduhoplovni puk) gồm 2 cụm máy bay ném bom; Cụm Ném bom số 63 đóng tại sân bay Petrovec gần Skopje và Cụm Ném bom số 64 đóng tại sân bay Milesevo gần Priština. Các sân bay phụ trợ khác cũng được chuẩn bị để hỗ trợ công tác phân tán. Trong hai ngày 14 và 15 tháng 4, 7 chiếc Do 17K còn lại đã bay đến sân bay Nikšić tại Montenegro và tham gia sơ tán Quốc vương Petar II cùng các thành viên chính phủ Nam Tư đến Hy Lạp. Trong hoạt động này, nguồn vàng dự trữ của Nam Tư cũng được chuyển đến Hy Lạp bằng 7 chiếc Do 17, cùng những chiếc Savoia-Marchetti SM.79K và Lockheed Model 10 Electra của hãng hàng không Aeroput, nhưng sau khi hoàn thành nhiệm vụ này, 5 chiếc Do 17K đã bị tiêu diệt trên mặt đất khi máy bay Ý tấn công sân bay Paramitia do người Hy Lạp chiếm cứ. Chỉ có 2 chiếc Do 17K thoát chết tại Hy Lạp và sau đó đã gia nhập Không quân Hoàng gia Anh (RAF) tại Vương quốc Ai Cập. Trong quá trình chiến đấu, Nhà máy Máy bay Quốc gia của Nam Tư tại Kraljevo đã cố gắng để sản xuất thêm được 6 máy bay loại này. Trong 3 chiếc cuối, thì 2 được điều động cho JKRV ngày 10 tháng 4 và chiếc còn lại vào ngày 12 tháng 4 năm 1941.

Ngày 6 tháng 4, các máy bay ném bom bổ nhào và tiêm kích tấn công mặt đất của Luftwaffe đã tiêu diệt 26 máy bay Dornier của Nam Tư ngay trong cuộc công kích đầu tiên vào các sân bay, nhưng những máy bay còn lại đã đánh trả có hiệu quả bằng nhiều cuộc tấn công vào các đội hình cơ giới của Đức và vào các sân bay tại Bulgaria. Đến cuối chiến dịch tổng thiệt hại của Nam Tư là 4 máy bay bị phá hủy trên không và 45 chiếc trên mặt đất. Vào lúc 16h00 ngày 15 tháng 4, tổng tư lệnh Tập đoàn quân Không quân số 4 Đức, Thượng tướng Alexander Löhr đã nhận được lệnh của Hermann Göring là phải giảm bớt các cuộc không kích và chuyển phần lớn lực lượng ném bom bổ nhào sang hỗ trợ cho chiến dịch tại Hy Lạp.

Tổng cộng đã có 18 máy bay ném bom, vận tải và tuần tra hàng hải của Nam Tư (trong đó có 2 chiếc Dornier Do 17K, 4 chiếc Savoia Marchetti SM-79K, 3 chiếc Lockheed Model 10 Electra của hãng Aeroput, 8 chiếc Dornier Do-22K và 1 chiếc Rogozarski SIM-XIV-H) đã trốn thoát được sang căn cứ của Đồng Minh tại Ai Cập vào cuối chiến dịch. Không quân Nhà nước Độc lập Croatia ra đời vào tháng 7 năm 1941 với hơn 200 máy bay chiếm được. Du kích Nam Tư đã tự mình lập nên một lực lượng không quân vào năm 1943 từ số máy bay chiếm được của Không quân Croatia.

Không quân Nam Tư năm 1941

Quân hiệu

File:Roundel of the Royal Yugoslav Air Force 1923.svg|Quân hiệu Không quân Hoàng gia Nam Tư từ năm 1918-1929. File:Roundel of the Royal Yugoslav Air Force.svg|Quân hiệu Không quân Hoàng gia Nam Tư từ năm 1929-1941.

Hình ảnh

File:Rogožarski SIM-X.jpg| Rogožarski SIM-Х máy bay huấn luyện Nam Tư. File:Rogozarski R-100.JPG| Rogožarski R-100 máy bay huấn luyện cải tiến Nam Tư. File:Rogozarski SIM XIV-H.JPG| Rogožarski SIM-XIV-H Thủy phi cơ trinh sát hàng hải cỡ nhỏ. File:Me-109E-3RYAF.jpg| Một chiếc Messerschmitt Bf 109E-3 của Nam Tư File:JKRV Do17K.jpg|Dornier Do 17K từ Trung đoàn ném bom số 3 của Không quân Hoàng gia Nam Tư vào tháng 4 năm 1941. File:SM-79 RYAF.jpg|Savoia-Marchetti SM.79 của Không quân Hoàng gia Nam Tư. File:Fizir.jpg|Zmaj Fizir FN của Không quân Hoàng gia Nam Tư.
👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Không quân Hoàng gia Nam Tư** (_Vazduhoplovstvo Vojske Kraljevine Jugoslavije_, VVKJ), được thành lập vào năm 1918 tại Vương quốc của người Serbia, Croatia và Slovenia (đổi tên thành Vương quốc Nam Tư vào năm
**Hải quân Hoàng gia Nam Tư** (Serbi-Croatia: Кpaљeвcкa Југословенска Pатна Морнарица; _Kraljevska Jugoslovenska Ratna Mornarica_), là hải quân của Vương quốc Nam Tư. Quân chủng này đã tồn tại kể từ khi thành lập Vương
**Lục quân Hoàng gia Nam Tư** là lực lượng vũ trang của Vương quốc của người Serbia, Croatia và Slovenia và sau đó là Vương quốc Nam Tư từ lúc kiến lập quốc gia cho
**Không quân Hoàng gia Anh** (_Royal Air Force_ - RAF) là lực lượng không quân thuộc Quân đội Anh. Không quân Hoàng gia được thành lập vào ngày 1 tháng 4 năm 1918 và đã
**Không quân Hoàng gia Lào** (tiếng Pháp: _Aviation Royale Laotienne_ – AVRL; tiếng Anh: _Royal Lao Air Force_), là quân chủng không quân của Quân lực Hoàng gia Lào (FAR), quân đội chính thức của
**Không quân Hoàng gia Campuchia** là một quân chủng của Quân đội Hoàng gia Campuchia chịu trách nhiệm điều hành tất cả các máy bay quân sự ở Campuchia, với quy mô rất khiêm tốn,
**Không quân Quốc gia Khmer** (tiếng Pháp: _Armée de l'Air Khmère_ – AAK; tiếng Anh: _Khmer National Air Force_ - KNAF hoặc KAF) là quân chủng không quân Quân lực Quốc gia Khmer (FANK) và
**Lực lượng Không quân Hoàng gia Úc** (Royal Australian Air Force - RAAF), được thành lập vào tháng 3 năm 1921, là chi nhánh tác chiến trên không của Lực lượng Phòng vệ Úc (ADF).
**Cuộc xâm lược Nam Tư** (mật danh **Chỉ thị 25** hay **Chiến dịch 25**), còn được biết đến với cái tên **Chiến tranh tháng Tư** (tiếng Serbia-Croatia: _Aprilski rat_, tiếng Slovene: _Aprilska vojna_), là cuộc
**Thủy quân Hoàng gia Lào** (tiếng Pháp: _Marine Royale Laotienne_ – MRL) là quân chủng thủy quân thuộc Lực lượng Vũ trang Hoàng gia Lào (FAR) và là lực lượng thủy quân chính thức của
nhỏ|phải|Lính thủy đánh bộ Hoàng gia (Royal Marine) đang diễn tập tác chiến tại môi trường rừng nhiệt đới ở Belize **Hải quân Hoàng gia Anh** là lực lượng lâu đời nhất trong Lực lượng
**Lục quân Hoàng gia Lào** (tiếng Pháp: _Armée Royale du Lào_ - ARL hoặc RLA theo kiểu Mỹ), là quân chủng lục quân thuộc Lực lượng Vũ trang Hoàng gia Lào và là lực lượng
**Sân bay Hải quân Hoàng gia Thái Lan U-Tapao** là một sân bay của không lực hải quân Thái Lan và là căn cứ của Không đoàn 1 Hải quân Hoàng gia Thái Lan. Nó
**Lục quân Hoàng gia Campuchia** là một bộ phận của Quân đội Hoàng gia Campuchia với quân số khoảng 75.000 biên chế thành 11 sư đoàn bộ binh được trang bị thiết giáp tích hợp
**Lực lượng Vũ trang Hoàng gia Lào** hoặc **Quân lực Hoàng gia Lào** (tiếng Pháp: _Forces Armées du Royaume_ viết tắt FAR), là lực lượng quốc phòng vũ trang chính thức của Vương quốc Lào,
**Petar II của Nam Tư** (tiếng Serbia: _Петар II Карађорђевић_, La tinh hoá tiếng Serbia: _Petar II Karađorđević_; tiếng Anh: _Peter II of Yugoslavia_; 06 tháng 09 năm 1923 - 03 tháng 11 năm 1970)
Vào ngày 29 tháng 9 năm 1940, một vụ va chạm trên không xảy ra trên bầu trời Brocklesby, bang New South Wales, Úc. Đây là một tai nạn hy hữu bởi vì các máy
phải|nhỏ|Các máy bay F-16A, F-15C, F-15E của [[Không quân Hoa Kỳ trong chiến dịch Bão táp sa mạc]] **Không quân** là một thành phần biên chế của quân đội là lực lượng giữ vai trò
**Hải quân Hoàng gia Brunei** là một lực lượng hải quân thuộc Quân đội Brunei. Đây là một lực lượng nhỏ nhưng trang bị tương đối đầy đủ, có trách nhiệm chính là tiến hành
**Không quân Quân Giải phóng Nhân dân Lào** (LPLAAF) là lực lượng không quân của Lào. ## Lịch sử Không quân Quân Giải phóng Nhân dân Lào được thành lập vào năm 1976 tiền thân
**NATO ném bom Nam Tư** là hoạt động quân sự của Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương nhằm chống lại Nhà nước Cộng hòa Liên bang Nam Tư (FRY) trong cuộc Chiến tranh
:_Bài này không nói về Không quân Cộng hòa Dân chủ Đức_ **Luftwaffe** () là tên gọi lực lượng không quân của Đức qua nhiều thời kỳ, trong đó nổi bật nhất là lực lượng
phải|Hoàng cung ở [[thủ đô Bangkok.]] nhỏ|Nhà nguyện Phật ngọc lục bảo. phải|Wat Phra Kaew nhìn từ Hoàng cung. **Cung điện Hoàng gia Thái Lan** ở Băng Cốc (tiếng Thái: พระบรมมหาราชวัง _Phra Borom Maha Ratcha
**Quân đội Brunei** hay tên đầy đủ là **Quân đội Hoàng gia Brunei** (_Angkatan Bersenjata Diraja Brunei_) được thành lập ngày 21 tháng 5 năm 1961 với tên gọi Askar Melayu Brunei (Trung đoàn Brunei).Từ
**Không quân nhân dân Việt Nam** (**KQNDVN**), được gọi đơn giản là **Không quân Việt Nam** (**KQVN**) hay **Không quân Nhân dân**, là một bộ phận của Quân chủng Phòng không – Không quân, trực
Tên người Thái Lan có địa vị chính trị thường bao gồm phần danh xưng và tước hiệu. Các địa vị khác nhau sẽ có danh xưng và tước hiệu khác nhau. ## Quốc vương
**Quân đội Thái Lan**, danh xưng chính thức là **Lực lượng Vũ trang Hoàng gia Thái Lan** (chữ Thái: _กองทัพไทย_, _Kongthap Thai_), là lực lượng quân sự chính thức thuộc Vương quốc Thái Lan, gồm
Cuộc **Chiến tranh nhân dân giải phóng Nam Tư** là một bộ phận quan trọng của Mặt trận phía đông trong Chiến tranh thế giới thứ hai ở châu Âu. Cuộc chiến bắt đầu từ
**Nam Tư** (_Jugoslavija_ trong tiếng Serbia-Croatia (ký tự Latinh) và tiếng Slovenia; _Југославија_ trong tiếng Serbia-Croatia (ký tự Kirin) và tiếng Macedonia) miêu tả ba thực thể chính trị tồn tại nối tiếp nhau trên
Các chuyên gia quân sự Liên Xô huấn luyện tên lửa và các học viên Việt Nam tại một căn cứ ở miền Bắc Việt Nam. Tháng 5 năm 1965. **Binh chủng Tên lửa phòng
**Cộng hòa Liên bang Xã hội chủ nghĩa Nam Tư**, gọi tắt là **CHLBXHCN Nam Tư** là nhà nước Nam Tư được thành lập sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai và tồn tại
**Lực lượng đổ bộ đường không** (còn gọi là **Binh chủng Nhảy dù**) là một trong 8 binh chủng thuộc Quân chủng Phòng không - Không quân, Quân đội nhân dân Việt Nam có chức
**_Mališan_** (số hiệu: P-901) là một tàu ngầm cỡ nhỏ lớp CB của Hải quân Cộng hòa Xã hội Ý trong Thế chiến II và của Hải quân Nam Tư () từ năm 1953 đến
**Quân chủng Phòng không Không quân Quân đội Nhân dân Triều Tiên** (Chosŏn'gŭl: 조선인민군 항공 및 반항공군; Hanja: 朝鮮人民軍 航空 및 反航空軍; _Chosŏn inmin'gun hangkong mit banhangkonggun_) là nhánh quân chủng phòng không-không quân của
**Không quân Liên Xô** (, _Voyenno-vozdushnye sily SSSR_), cũng còn được biết đến dưới tên gọi tắt là **VVS**, chuyển tự từ tiếng Nga là: **ВВС**, Военно-воздушные силы (_Voenno-vozdushnye sily_), đây là tên gọi chỉ
**Không quân Đức Quốc Xã** (tiếng Đức: **_Luftwaffe_,** ) là một quân chủng của lực lượng vũ trang Đức Quốc xã (_Wehrmacht_) trước và trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Sau Chiến tranh Thế
Lực lượng Không quân Đức Quốc xã (Tiếng Đức: ) , từ khi thành lập năm 1933 đến khi kết thúc Thế chiến thứ hai năm 1945, sử dụng các cấp bậc tương tự như
nhỏ| [[Stevan Kragujević, Hồ Chí Minh, Josip Broz Tito và Edvard Kardelj tại Beograd năm 1957]] **Quan hệ Nam Tư – Việt Nam** là mối quan hệ đối ngoại lịch sử giữa Việt Nam (trước
**George VI của Liên hiệp Anh** (Albert Frederick Arthur George; 14 tháng 12 năm 1895 – 6 tháng 2 năm 1952) là Quốc vương của Vương quốc Liên hiệp Anh và các quốc gia tự
**_Sòng bạc hoàng gia_** (tựa gốc ) là bộ phim đề tài gián điệp công chiếu năm 2006 và là phần thứ 21 trong loạt phim điện ảnh _James Bond_ của Eon Productions, cũng như
**Lục quân Quốc gia Khmer** (tiếng Pháp: _Armée Nationale Khmère_ - ANK; tiếng Anh: _Khmer National Army_ - KNA) là quân chủng lục quân Quân lực Quốc gia Khmer (FANK) và là lực lượng quân
**Hiếu Chiêu Thượng Quan Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝昭上官皇后, 89 TCN - 37 TCN), cũng gọi **Thượng Quan Thái hậu** (上官太后), là Hoàng hậu duy nhất của Hán Chiêu Đế Lưu Phất Lăng, vị Hoàng
**Hộ Kỵ binh Hoàng gia Anh** (tiếng Anh: _Household Cavalry_ - HCAv) là quân đoàn kỵ binh cao cấp nhất và lâu đời trong Quân đội Anh, có nguồn gốc từ năm 1660. Hộ Kỵ
**Sư đoàn 23 Bộ binh** là một trong 2 đơn vị chủ lực trực thuộc Quân đoàn II và Quân khu 2 của Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Đây là đơn vị đầu tiên
**Hải quân Quốc gia Khmer** (tiếng Pháp: _Marine Nationale Khmère_ – MNK; tiếng Anh: _Khmer National Navy_ – KNN) là quân chủng hải quân Quân lực Quốc gia Khmer (FANK) và là lực lượng quân
**Không lực Hải quân Đế quốc Nhật Bản** (kanji cũ: 大日本帝國海軍航空隊, romaji: _Dai-Nippon Teikoku Kaigun Koukuu-tai_, phiên âm Hán-Việt: _Đại Nhật Bản Đế quốc Hải quân Hàng không Đội_) là binh chủng không quân của
**Năm bốn Hoàng đế** hay **Năm tứ đế** (tiếng Latin: _Annus quattuor imperatorum_) là một năm trong lịch sử của đế quốc La Mã, khi vào năm 69, Bốn vị hoàng đế thay nhau cai
**Công an Hoàng gia Thái Lan** () là lực lượng công an của Thái Lan. Toàn lực lượng có quân số khoảng 230.000 người, chiếm khoảng 17% tổng số công chức (không tính quân đội
**Vương tôn William xứ Gloucester** (**William Henry Andrew Frederick**; 18 tháng 12 năm 1941 – 28 tháng 8 năm 1972) là người con lớn nhất của Vương tử Henry, Công tước xứ Gloucester và Alice,
Huy hiệu của [[Elizabeth II|Nữ vương Elizabeth II]] Huy hiệu của [[Công tước xứ Edinburgh]] Huy hiệu lông vũ của [[Thân vương xứ Wales]] **Chứng nhận hoàng gia** ở Anh là một tài liệu chính