✨Cuộc xâm lược Nam Tư
Cuộc xâm lược Nam Tư (mật danh Chỉ thị 25 hay Chiến dịch 25), còn được biết đến với cái tên Chiến tranh tháng Tư (tiếng Serbia-Croatia: Aprilski rat, tiếng Slovene: Aprilska vojna), là cuộc tấn công của các quốc gia Phe Trục do Đức dẫn đầu, nhằm vào vương quốc Nam Tư trong Chiến tranh thế giới thứ hai, bắt đầu ngày 6 tháng 4 năm 1941. Mệnh lệnh tiến hành cuộc xâm lăng này được đưa ra trong bản "Chỉ thị Führer số 25" do Adolf Hitler ban hành ngày 27 tháng 3 năm 1941, ngay sau Cuộc đảo chính Nam Tư diễn ra cùng hôm đó.
Cuộc xâm lăng bắt đầu bằng một cuộc không kích ồ ạt nhằm vào thủ đô Beograd và các cơ sở của Không quân Hoàng gia Nam Tư (VVKJ) của lực lượng Luftwaffe (Không quân Đức) cùng với những đòn công kích của các lực lượng trên bộ Đức từ miền tây nam Bulgaria. Tiếp theo đó là những mũi tấn công của Đức từ Romania, Hungary và Đế chế thứ ba (phần lãnh thổ Áo ngày nay). Quân Ý chỉ tấn công hạn chế bằng không quân và pháo binh cho đến ngày 11 tháng 4, khi lục quân Ý tiến về phía Ljubljana (thuộc Slovenia ngày nay) và vượt qua Istria và Lika tiến xuống bờ biển Dalmatia. Cùng ngày hôm đó, các lực lượng Hungary tiến vào Bačka và Baranya. Cả Ý và Hungary đều hầu như không gặp phải sức kháng cự nào đáng kể. Một cuộc tấn công của Nam Tư nhằm vào phần phía bắc Albania do Ý bảo hộ thu được thắng lợi ban đầu, nhưng nó không đóng vai trò gì quan trọng do phần còn lại của các lực lượng Nam Tư đã sụp đổ.
Cuộc xâm lược kết thúc khi hiệp định đình chiến được ký ngày 17 tháng 4 năm 1941, dựa trên việc Lục quân Hoàng gia Nam Tư đầu hàng vô điều kiện, và có hiệu lực từ trưa ngày 18 tháng 4. Nam Tư sau đó đã bị các quốc gia phe Trục chiếm đóng và chia cắt. Một số khu vực bị sáp nhập vào các nước láng giềng phe Trục, một số tiếp tục bị chiếm đóng, và một số nhà nước bù nhìn của phe Trục như Nhà nước Độc lập Croatia (tiếng Serbia-Croatia: Nezavisna Država Hrvatska, hay NDH) đã được thành lập. Cuộc xâm lược Nam Tư cùng với Chiến tranh Hy Lạp-Ý, trận Hy Lạp (chiến dịch Marita) và trận Crete (chiến dịch Merkur) được gộp chung thành chiến dịch Balkan của Đức.
Bối cảnh
Tháng 10 năm 1940, Phát xít Ý đã phát động cuộc chiến tranh xâm chiếm Hy Lạp nhưng cuối cùng đã bị quân Hy Lạp đánh bật trở lại lãnh thổ Albania. Nhà độc tài Đức Adolf Hitler nhận thấy rằng cần phải giúp đỡ người bạn đồng minh của mình, nhà độc tài Ý Benito Mussolini. Hitler làm điều này không chỉ để giúp cứu vãn thanh thế đang bị suy giảm của phe Trục, mà còn nhằm ngăn cản nước Anh sử dụng lãnh thổ Hy Lạp để ném bom các mỏ dầu Romania, nguồn cung cấp dầu mỏ chủ yếu của Đức Quốc xã.
Trong quá trình chuẩn bị can thiệp vào Hy Lạp, sau khi đã thành công bằng các hiệp định với Hungary, Romania và Bulgaria để họ nhanh chóng gia nhập theo phe Trục, Hitler bắt đầu gây áp lực để Nam Tư cùng tham gia vào Hiệp ước Ba bên. Hoàng tử Paul, nhiếp chính của Nam Tư, nhận thấy mình không còn đồng minh tại Balkan, đã nhượng bộ trước sức ép này, và vào ngày 25 tháng 3 năm 1941, Nam Tư đã gia nhập Hiệp ước Ba bên. Thế nhưng động thái này đã vấp phải sự phản đối từ giới sĩ quan quân sự chiếm ưu thế tại Serbia và một bộ phận công chúng, bao gồm phần lớn dân số Serbia và những người tự do, người cộng sản. Một cuộc đảo chính đã nổ ra ngày 27 tháng 3 năm 1941 do các sĩ quan quân đội Serbi chống đối Paul lãnh đạo, Paul đã bị lật đổ và thay thế bằng Quốc vương Peter II của Nam Tư., nhưng điều này đã không làm nguôi cơn giận của Hitler, bởi vì trên thực tế cuộc đảo chính này đã làm xóa bỏ chính sách ngoại giao thân Đức tiêu biểu ở Nam Tư. Hitler đã coi cuộc đảo chính này như một sự xúc phạm cá nhân, và ra lệnh "hủy diệt Nam Tư về mặt quân sự và với tư cách một quốc gia" (Jugoslawien militärisch und als Staatsgebilde zu zerschlagen), mà "không cần đợi tuyên bố có thể xảy ra về sự trung thành của chính phủ mới".
Ngày 1 tháng 4, Nam Tư đổi tên Bộ tư lệnh Xung kích thành Bộ tư lệnh Chetnik, sau khi các lực lượng du kích Serbia và Macedonia từ thời Chiến tranh thế giới thứ nhất chống đối lại chính quyền trung ương. Bộ tư lệnh này được dự định sẽ lãnh đạo một cuộc chiến tranh du kích trong trường hợp đất nước bị chiếm đóng. Tổng hành dinh của nó được chuyển từ Novi Sad đến Kraljevo ở nam trung Serbia vào ngày 1 tháng 4.
Ngày 2 tháng 4, đại sứ Đức đã được triệu về nước để "mạn đàm", các nhân viên sứ quán còn lại cũng được lệnh rời khỏi thu đô và cảnh báo cho các sứ quán của những quốc gia thân thiện tiến hành sơ tán tương tự. Đây là thông điệp không thể nhầm lẫn rằng đất nước Nam Tư sắp bị xâm chiếm. Hitler quyết định xâm lược Nam Tư trước khi tấn công Hy Lạp và trong khi tiếp tục chuẩn bị cho cuộc xâm lược Liên Xô, Trong các trung đoàn độc lập, có 16 được bố trí tại các công sự dọc biên giới và 19 được tổ chức thành những trung đoàn kết hợp, gọi là "Odred", có quy mô một lữ đoàn tăng viện. Mỗi Odred có từ một đến ba trung đoàn bộ binh và một đến ba tiểu đoàn pháo binh, với ba đơn vị sơn chiến (alpine). Thế nhưng cuộc tấn công của Đức đã nổ ra trong khi quân đội còn đang động viên dở dang, và chỉ có khoảng 11 sư đoàn là đã ở đúng vị trí phòng thủ dự kiến của mình tại thời điểm bắt đầu cuộc chiến. Người Nam Tư đã trì hoãn việc tổng động viên cho đến ngày 3 tháng 4 để tránh làm mất lòng Hitler. Các đơn vị này có chỉ khoảng 70 đến 90 phần trăm sức mạnh thực tế do việc động viên đã không được hoàn thành. Lực lượng Lục quân Hoàng gia Nam Tư có vào khoảng 1.200.000 quân khi cuộc xâm lược của Đức được tiến hành
Triển khai quân đội
Lục quân Hoàng gia Nam Tư được tổ chức thành 3 cụm Tập đoàn quân, cùng với các đội quân phòng thủ bờ biển. Cụm Tập đoàn quân số 3 là mạnh nhất với Tập đoàn quân số 3, Tập đoàn quân Địa phương số 3, các tập đoàn quân số 5 và 6 phòng thủ vùng biên giới với Romania, Bulgaria và Albania. Cụm Tập đoàn quân số 2 gồm các tập đoàn quân số 1 và số 2, phòng thủ khu vực nằm giữa Iron Gates và sông Drava. Cụm Tập đoàn quân số 1 gồm tập đoàn quân số 4 và số 7, bao gồm chủ yếu là quân Croatia, đóng tại Croatia và Slovenia để phòng thủ biên giới với Ý, Đức (lãnh thổ Áo) và Hungary. Sức mạnh của mỗi Tập đoàn quân ước tính hơi nhỉnh hơn so với một Quân đoàn.
Lục quân Hoàng gia Nam Tư được có cơ cấu cụ thể như sau: Một trong số 54 xe tăng [[Renault R35 mà lục quân Nam Tư đã mua lại của Pháp từ cuối thập niên 1930, đang tham gia cuộc tập trận năm 1940.]] Cụm Tập đoàn quân số 3, trong phiên chế có: Tập đoàn quân số 3, gồm 4 sư đoàn bộ binh và 1 odred kỵ binh; Tập đoàn quân Địa phương số 3, gồm 3 sư đoàn bộ binh và 1 trung đoàn pháo binh cơ giới độc lập; Tập đoàn quân số 5, gồm 4 sư đoàn bộ binh, 1 sư đoàn kỵ binh, 2 odred và 1 trung đoàn pháo binh cơ giới độc lập; Tập đoàn quân số 6, gồm 3 sư đoàn bộ binh, 2 lữ đoàn Cận vệ Hoàng gia (odred) và 3 odred bộ binh. Cụm Tập đoàn quân số 2, trong phiên chế có: Tập đoàn quân số 1, gồm 1 sư đoàn bộ binh và 1 sư đoàn kỵ binh, 3 odred và 6 trung đoàn biên phòng; Tập đoàn quân số 2, gồm 3 sư đoàn bộ binh và 1 trung đoàn biên phòng.
- Cụm Tập đoàn quân số 1, trong phiên chế có: Tập đoàn quân số 4, gồm 3 sư đoàn bộ binh và 1 odred. Tập đoàn quân số 7, gồm 2 sư đoàn bộ binh, 1 sư đoàn kỵ binh, 3 odred sơn chiến, 2 odred bộ binh và 9 trung đoàn biên phòng. Lực lượng dự bị chiến lược của "Bộ tư lệnh Tối cao" đóng tại Bosnia gồm có 4 sư đoàn bộ binh, 4 trung đoàn bộ binh độc lập, 1 tiểu đoàn xe tăng, 2 tiểu đoàn công binh cơ giới, 2 trung đoàn pháo binh cơ giới hạng nặng, 15 tiểu đoàn pháo binh độc lập và 2 tiểu đoàn pháo phòng không độc lập. Lực lượng Quốc phòng Duyên hải, trên bờ biển Adriatic đối diện Zadar bao gồm 1 sư đoàn bộ binh và 2 odred, cộng thêm các lữ đoàn pháo đài và các đơn vị phòng không tại Šibenik và Kotor.
Vào đêm trước của cuộc xâm lược, số lượng quần áo và giày dép có sẵn chỉ đủ cho khoảng chừng 2/3 các đội quân ngoài tiền tuyến và một phần nhỏ với các đạo quân khác, một số đồ tiếp tế thiết yếu khác hiện có chỉ đủ cho 1/3 quân ở tiền tuyến; đồ y tế và vệ sinh chỉ có thể dùng trong vài tuần lễ, và nguồn cung cấp thức ăn cho người và nuôi sống vật nuôi chỉ có đủ cho khoảng 2 tháng. Trong mọi trường hợp đều có rất ít, thậm chí là không có khả năng bổ sung đồ tiếp tế.
nhỏ|Máy bay Do 17K của Không quân Hoàng gia Nam Tư
Ngoài các vấn đề trang thiết bị không đầy đủ và việc động viên không được hoàn chỉnh, Lục quân Hoàng gia Nam Tư còn bị tổn hại do mâu thuẫn Serbi-Croatia trong nền chính trị Nam Tư. Lực lượng kháng chiến của "Nam Tư" trong cuộc xâm lược đã sụp đổ chỉ trong ngày một ngày hai, và nguyên nhân chính là do không ai trong nhóm các dân tộc lệ thuộc như Slovenia, Croatia được chuẩn bị để chiến đấu trong hệ thống quốc phòng của nước Nam Tư do Serbia lãnh đạo. Ngoài ra, để người Slovenia không cảm thấy mình bị bỏ rơi, hệ thống phòng thủ đã được xây dựng tại biên giới phía bắc Nam Tư trong khi tuyến phòng thủ tự nhiên lại nằm xa hơn nhiều về phía nam, dựa trên các con sông Sava và Drina. Cuộc kháng chiến duy nhất có hiệu quả là của toàn thể các đơn vị Serbia trong phạm vi biên giới của Serbia. Quân Đức tiến đến theo phía tây bắc từ Skopje đã bị cầm chân tại đèo Kacanik và mất nhiều xe tăng. Nghiêm trọng nhất là vào ngày 10 tháng 4 năm 1941, hệ thống phòng thủ của Nam Tư đã bị tổn hại nghiêm trọng khi một số đơn vị thuộc tập đoàn quân số 4 và số 7 có người Croatia đã làm binh biến, và cùng ngày hôm ấy một chính phủ mới thành lập của Croatia đã hoan nghênh quân Đức tiến vào Zagreb. Bộ tổng tham mưu Serbia đã thống nhất về vấn đề coi Nam Tư là một "Đại Serbia", và bằng cách này hay cách khác, do Serbia cai trị. Vào đêm trước của cuộc xâm lược, có 165 tướng lĩnh trong danh sách tại ngũ của Nam Tư, trong đó gần như toàn bộ (chỉ trừ 4 người) đều là người Serbi.
Diễn biến
Bản đồ cuộc tấn công của [[phe Trục.]] Đoạn phim tuyên truyền của [[Đức Quốc xã|Đức về cuộc xâm chiếm Nam Tư và Hy Lạp.]]
Mở màn ngày 6 tháng 4 năm 1941, quân đội các nước phe Trục bắt đầu tấn công Nam Tư từ mọi hướng và không quân Đức (Luftwaffe) ném bom xuống Beograd. Quân đội Đức là lực lượng đầu tiên băng qua biên giới tại Hungary và quân Ý tiếp bước vài ngày sau đó.
Giáo sư Jozo Tomasevich và một số người khác chia cuộc xâm chiếm và chiến sự tổng hợp thành hai giai đoạn. Giai đoạn thứ nhất, từ ngày 6 đến 10 tháng 10, bao gồm cuộc không kích của Luftwaffe tàn phá thủ đô Beograd cùng các sân bay của Không quân Hoàng gia Nam Tư trong ngày 6 tháng 4, và một mũi tấn công ban đầu của Quân đoàn Thiết giáp số 40 của Đức từ Bulgaria tiến về Skopje mở màn cùng ngày hôm đó, tiếp theo đó là cuộc tấn công của Quân đoàn Thiết giáp số 14 Đức từ Bulgaria tiến về Niš ngày 8 tháng 4. Ngày 10 tháng 4, có thêm 4 mũi tiến công nhằm vào Lục quân Nam Tư; Quân đoàn Thiết giáp số 41 từ Romania tiến về Beograd, Quân đoàn Thiết giáp số 46 từ Hungary vượt sông Drava, Quân đoàn Bộ binh số 51 từ Áo tiến về Zagreb, và Quân đoàn Sơn chiến số 49 từ Áo tiến về Celje. Cuối ngày hôm đó, Lục quân Nam Tư đã tan rã, và rút chạy hoặc đầu hàng ở khắp mọi nơi trên đất nước, ngoại trừ các lực lượng tại biên giới Albania. Giai đoạn 2 bắt đầu khi Ý và Hungary tham gia cuộc tấn công trên bộ vào ngày 11 tháng 4. Tập đoàn quân số 2 Ý khởi đầu bằng việc tấn công từ miền đông bắc Ý nhằm hướng Ljubljana và tiến xuống bờ biển Dalmatia, hầu như không gặp phải sự kháng cự nào. Cùng ngày hôm đó, Tập đoàn quân số 3 của Hungary vượt biên giới Nam Tư và tiến về Novi Sad, và cũng giống như người Ý, họ không gặp phải sức kháng cự nào đáng kể. Ngày 12 tháng 4, quân Đức chiếm được Beograd, và Ljubjana rơi vào tay quân Ý. Trong các ngày 14 và 15 tháng 4, Quốc vương Peter cùng chính phủ lên máy bay rời khỏi đất nước, và Bộ tư lệnh Tối cao Nam Tư bị quân Đức bắt ở gần Sarajevo. Văn kiện đầu hàng được ký vào ngày 17 tháng 4, và bắt đầu có hiệu lực vào trưa ngày 18 tháng 4.
Sa hoàng Boris III đã trốn tránh việc đưa quân Bulgaria tham chiến bằng cách tuyên bố rằng toàn bộ lực lượng chủ chốt của mình đang phòng giữ bên sườn của Tập đoàn quân số 12 Đức trước quân Thổ Nhĩ Kỳ. Cũng tương tự, trong khi lãnh thổ Romania là một bàn đạp cho các lực lượng Đức, thì lại không có đội quân Romania nào góp phần vào cuộc tấn công.
Oanh tạc Beograd
Tập đoàn quân Không quân số 4 của Đức (Luftflotte 4), với một lực lượng gồm 7 đội hình tác chiến (Kampfgruppen), đã được huy động cho chiến dịch tại Balkan. Hitler tức giận trước hành động "thách thức" của Nam Tư, đã ra lệnh tiến hành Chiến dịch Trừng phạt (Unternehmen Strafgericht). Vào lúc 7 giờ sáng ngày 6 tháng 4, Luftwaffe mở đầu cuộc tấn công Nam Tư bằng một đòn ném bom dồn dập tại thủ đô Beograd. Từ các sân bay ở Áo và Romania, 300 máy bay Đức bay thành nhiều kíp, trong đó 1/4 là loại Junkers Ju 87, được hộ tống bằng các máy bay tiêm kích hạng nặng đã bắt đầu tấn công. Các máy bay ném bom bổ nhào đã đập tan sự kháng cự của hệ thống phòng không Nam Tư, trong khi các máy bay ném bom hạng trung, chủ yếu là loại Dornier Do 17 và Junkers Ju 88 tiến đánh thành phố. Cuộc tấn công đầu tiên được thực hiện làm thành 3 đợt riêng biệt, mỗi đợt cách nhau khoảng 15 phút và kéo dài xấp xỉ 20 phút. Như vậy, cả thành phố đã phải hứng chịu một trận mưa bom trong vòng gần một tiếng rưỡi đồng hồ. Các máy bay ném bom Đức tập trung nhằm vào khu vực trung tâm thành phố, nơi có các tòa nhà chủ yếu của chính phủ.
nhỏ|trái|Một góc Beograd đổ nát sau cuộc oanh tạc.
Các đội hình Kampfgruppen máy bay ném bom tầm trung còn tiếp tục đánh phá thành phố trong nhiều ngày trong khi các Không đoàn ném bom bổ nhào Stuka (Stukageschwader) đã nhanh chóng chuyển hướng nhằm vào các sân bay Nam Tư.
Khi cuộc tấn công kết thúc, có khoảng 4.000 người dân nằm chết dưới đống đổ nát. Cuộc oanh tạc đã gần như cắt đứt hoàn toàn khả năng liên lạc giữa Bộ chỉ huy Nam Tư và các lực lượng ngoài mặt trận. Mặc dù vây hầu hết các bộ phận của Bộ Tổng tham mưu đã tìm cách trốn thoát được ra vùng ngoại ô.
Sau đòn tấn công trí mạng ngay tại trung tâm đầu não của đối phương, Luftwaffe giờ đã có thể huy động tối đa nỗ lực của mình vào các mục tiêu quân sự của Nam Tư như sân bay, các tuyến liên lạc, trại lính, và hỗ trợ chặt chẽ cho các hoạt động trên bộ của lục quân Đức.
Không quân Hoàng gia Nam Tư thiết lập lực lượng máy bay đánh chặn phòng thủ Beograd với 6 phi đội thuộc các Cụm tiêm kích số 32 và 51 để chặn đánh mỗi đợt không kích, và đến hết ngày, 4 phi đội thuộc các Cụm tiêm kích số 31 và 52, đóng tại miền trung Serbia, cũng tham chiến. Những chiếc tiêm kích Messerschmitt Bf 109, Hawker Hurricane và Rogožarski IK-3 đã lập thành tích bắn hạ ít nhất 20 máy bay ném bom và tiêm kích hộ tống đối phương trong ngày 6 tháng 4, và thêm một tá nữa bị tiêu diệt ngày 7 tháng 4. Trong cuộc phòng thủ vô vọng của Không quân Hoàng gia Nam Tư trên bầu trời Beograd, họ bị thiệt hại vào khoảng 20 máy bay tiêm kích bị bắn hạ và 15 chiếc khác bị thương.
Ba mũi tiến công vào thủ đô Nam Tư
Bộ tư lệnh Anh, Hy Lạp và Nam Tư dự định sử dụng Niš làm chủ chốt trong nỗ lực ngăn cản quân Đức tại Balkan và đó là lý do tại sao địa phương này rất quan trọng. Khi quân Đức đột phá qua quân khu này – một khu vực thiết yếu để có thể duy trì sự ổn định của mặt trận – thì Bộ Tư lệnh Tối cao Nam Tư đã huy động nhiều lực lượng từ nguồn dự trữ chiến lược, trong đó có Sư đoàn Kỵ binh số 2, nhưng họ bị Luftwaffe đánh phá ác liệt trong quá trình di chuyển ra mặt trận và không đơn vị nào đến được với số lượng thực tế cả.
Trên bộ, phe Trục chia lực lượng thành 3 mũi tấn công riêng biệt cùng tiến về Beograd từ 3 hướng khác nhau. Tiếp cận Niš ngay từ những đòn tấn công ban đầu từ lãnh thổ Bulgaria đã phá vỡ tuyến phòng thủ của Nam Tư, Quân đoàn Thiết giáp số 14 của Đức đã tiến lên phía bắc nhằm hướng Beograd. Quân đoàn Thiết giáp số 46 Đức đã từ Áo tiến qua đồng bằng Slavonian để tấn công Beograd từ phía tây, trong khi Quân đoàn Thiết giáp số 41 đe dọa thành phố này từ hướng bắc sau khi mở cuộc tấn công từ lãnh thổ Romania và Hungary. Đến ngày 11 tháng 4, Nam Tư bị các đội hình thiết giáp Đức tấn công đan chéo và cuộc kháng cự duy nhất còn lại là một nòng cốt chủ chốt của Lục quân đóng quanh thủ đô. Sau 1 ngày giao chiến ác liệt, các lực lượng thiết giáp Đức đã đột phá qua tuyến phòng thủ này của Nam Tư và Beograd bị chiếm đóng vào đêm ngày 12 tháng 4.
Ngày 10 tháng 4 Quân đoàn Thiết giáp số 14 đã nhanh chóng tiến qua thung lũng Morava và truy kích sát nút các đơn vị đối phương đang rút về thủ đô. Ngày hôm sau các mũi nhọn tấn công Đức đã bất ngờ tràn vào cánh nam của tập đoàn quân số 6 Nam Tư đang rút lui, và đè bẹp họ trong những giờ đầu tiên của ngày 12 tháng 4. Đến tối, các xe tăng thuộc Cụm Thiết giáp số 1 chỉ còn cách Beograd không đến 40 dặm về phía đông nam. 2 tập đoàn quân của Nam Tư mà họ phải đối đầu đang ở trong tình trạng hỗn loạn đến nỗi không thể tiến hành một cố gắng nghiêm chỉnh nào nhằm ngăn cản mũi tiến công hay cắt đứt tuyến liên lạc của Đức - vốn đã trải dài 125 dặm trên một địa hình gồ ghề từ địa điểm tiến vào lãnh thổ Nam Tư. Tình cảnh của Nam Tư ngày càng trở nên tuyệt vọng có thể thấy từ lời kêu gọi sau đây của tướng Dušan Simović gửi đến các binh lính:
Ngày 11 tháng 4, Sư đoàn Thiết giáp số 8 đã tới vùng Osijek, trong khi sư đoàn bộ binh cơ giới số 16 ở phía sau đang tiến qua Našice. Nhiều cây cầu bị giật đổ và đường sá tồi tệ đã làm chậm tốc độ hành quân của cả hai sư đoàn này, trong khi họ có nhiệm vụ tấn công vào sau lưng các lực lượng Nam Tư đối diện với Quân đoàn Thiết giáp 14, và sớm bắt liên lạc với Cụm Thiết giáp số 1.
Ngày 12 tháng 4, Tập đoàn quân số 3 của Hungary đã vượt biên giới với lực lượng gồm 1 lữ đoàn kỵ binh, 2 lữ đoàn cơ giới và 6 lữ đoàn bộ binh. Tập đoàn quân này phải đối mặt với Tập đoàn quân số 1 của Nam Tư. Cho đến lúc quân Hungary vượt biên giới, người Đức đã tấn công Nam Tư được hơn một tuần lễ. Kết quả là những lực lượng Nam Tư đối đầu với họ kháng cự rất ít, ngoại trừ các đơn vị tại các công sự dọc biên giới, họ đã cầm chân được quân Hungary trong một thời gian, và gây thiệt hại cho đối phương vào khoảng 350 người. Các đơn vị thuộc Tập đoàn quân số 3 Hungary đã tiến vào nam Baranja nằm giữa sông Donau và sông Drava, và chiếm được Bačka thuộc tỉnh Vojvodina. Các lực lượng Hungary chỉ chiếm đóng những vùng lãnh thổ này, vốn là một phần của nước Hungary trước khi có hòa ước Trianon. Để biểu thị sự phản đối của mình với các hành động chiến tranh của Hungary, thủ tướng Pál Teleki đã tự tử.
Nam Tư tấn công tại Albania do Ý bảo hộ
Theo kế hoạch chiến tranh của Lục quân Hoàng gia Nam Tư, một chiến lược tên gọi R-41 đã được xây dựng, theo đó thì trước cuộc tấn công lớn của phe Trục, họ sẽ tiến hành rút lui trên tất cả các mặt trận ngoại trừ khu vực phía nam. Tại đây, Tập đoàn quân số 3 Nam Tư sẽ phối hợp với Lục quân Hy Lạp mở một cuộc tấn công vào các lực lượng Ý tại Albania. Điều này nhằm chiếm được những không gian cho phép chủ lực Lục quân Nam Tư rút lui về phía nam. Họ sẽ đi qua lãnh thổ Albania để tiếp cận các lực lượng của Hy Lạp và Đồng Minh đóng tại đó. Chiến lược này dựa trên cơ sở tiền đề rằng Lục quân Nam Tư sẽ cùng với quân đội Hy Lạp và Anh lập nên một phiên bản mới của mặt trận Salonika trong chiến tranh thế giới thứ nhất.
Ngày 8 tháng 4, Không quân Hoàng gia Nam Tư vốn đang chịu nhiều áp lực đã phái một phi đội 14 máy bay ném bom hạng nhẹ Breguet 19 tới thành phố Florina ở bắc Hy Lạp nhằm hỗ trợ cho cả quân Nam Tư lẫn Hy Lạp tại mặt trận Macedonia. Phi đội này đã tiến hành nhiều phi vụ ném bom và bắn phá trong quá trình chiến dịch.
Tập đoàn quân số 3 thuộc Cụm Tập đoàn quân số 3 Nam Tư được giao nhiệm vụ tiến hành chiến dịch tấn công quân Ý tại bắc Albania. Để phục vụ cho ý định này, Tập đoàn quân số 3 đã tập trung 4 sư đoàn bộ binh và 1 trung đoàn kết hợp (Odred) tại Montenegro và Kosovo, bao gồm: Sư đoàn Bộ binh số 15 "Zetska" Sư đoàn Bộ binh số 13 "Hercegovacka" Sư đoàn Bộ binh số 31 "Kosovska" Sư đoàn Bộ binh số 25 "Vardarska" *Odred kỵ binh "Komski".
Lực lượng dự bị chiến lược của Cụm Tập đoàn quân số 3 là Sư đoàn Bộ binh số 22 "Ibarska", đóng xung quanh Uroševac thuộc tỉnh Kosovo.
Ngoài ra, còn có chiến dịch tấn công vùng đất Zadar của Ý nằm trên bờ biển Dalmatia được thực hiện bởi Sư đoàn Bộ binh số 12 "Jadranska".
Các bộ phận đầu tiên của Tập đoàn quân số 3 đã mở màn chiến dịch tấn công tại Bắc Albania vào ngày 7 tháng 4 năm 1941, khi Odred Komski phòng thủ tại khu vực các dãy núi Gusinje-Prokletije tiến quân về làng Raja-Puka. Sư đoàn Kosovska vượt biên giới tại khu Prizren thuộc Kosovo và tiến qua thung lũng sông Drin. Sư đoàn Vardarska đã thu được một vài thành công cục bộ tại Debar, trong khi các đơn vị còn lại của tập đoàn quân vẫn còn đang trong quá trình tập hợp.
Ngày hôm sau, 8 tháng 4, sư đoàn Zetska vững tiến dọc theo đường Podgorica–Shkodër. Odred kỵ binh Komski vượt qua được dãy núi Prokletije đầy nguy hiểm và tới làng Koljegcava tại thung lũng sông Valjbone. Về phía nam, sư đoàn Kosovska đã đột phá qua tuyến phòng thủ của Ý tại thung lũng sông Drin, nhưng do Skopje bị thất thủ trước cuộc tấn công của quân Đức, sư đoàn Vardarska đã buộc phải chấm dứt các hoạt động của mình tại Albania.
Kotor nằm gần biên giới Albania và mặt trận Hy Lạp-Ý tại đó, nhưng Zadar, một lãnh thổ biệt lập của Ý, nằm ở phía tây bắc bờ biển đã gây khó khăn cho việc thiết lập một đầu cầu. Khu trục hạm " Beograd", cùng với 4 tàu phóng ngư lôi cũ và 6 tàu phóng ngư lôi có động cơ đã được điều đến Šibenik, cách Zadar 80 km về phía nam, để chuẩn bị một cuộc tấn công. Cuộc tấn công này được phối hợp với sư đoàn bộ binh số 12 "Jadranska" và 2 Odred của Lục quân Hoàng gia Nam Tư tiến đánh từ khu vực Benkovac, với sự hỗ trợ của không quân thuộc Cụm Ném bom số 81 thuộc Không quân Hoàng gia Nam Tư. Các lực lượng Nam Tư mở màn cuộc tấn công ngày 9 tháng 4, nhưng đến 13 tháng 4 quân Ý đã tiến hành phản công và tiến vào Benkovac ngày 14 tháng 4. Mũi nhọn tấn công của hải quân trong chiến dịch này đã bị bẻ gãy khi tàu "Beograd" bị máy bay Ý đánh trọng thương ngoài khơi Šibenik làm động cơ bên phải của nó ngừng hoạt động, sau đó nó ỳ ạch chạy về Kotor để sửa chữa với sự hộ tống của các lực lượng còn lại.
Các tàu bay có phao phụ trách công tác tuần tra hàng hải của Không quân Hoàng gia Nam Tư đã thực hiện các chuyến bay trinh sát và cả nhiệm vụ tấn công trong chiến dịch này, đồng thời yểm trợ trên không cho các hoạt động thả mìn ngoài khơi Zadar. Họ thu được một vài thành công với một tàu chở dầu của Ý bị thương nặng trên bờ biển Ý gần Bari, các cuộc tấn công vào cảng Durrës của Albania, cũng như đánh vào các đoàn vận tải tái cung cấp của Ý đến Albania. Ngày 9 tháng 4, đáng chú ý có một chiếc Dornier Do 22K đã làm rối loạn một đoàn vận tải 12 tàu hơi nước của Ý và đội hộ tống gồm 8 khu trục hạm đang vượt biển Adriatic trong ngày hôm đó, khi một mình đơn độc tấn công trước hỏa lực phòng không dữ dội của địch.
Hải quân Hoàng gia Nam Tư còn có 4 tuần giang hạm bọc thép cỡ lớn được trang bị vũ khí hạng nặng trong lực lượng đường sông của mình. Chúng được sử dụng để tuần tra các sông Donau, Drava và Sava ở miền bắc Nam Tư và biên giới với Hungary. Các tuần giang hạm này, Drava, Sava, Morava và Vardar được chuyển giao từ hải quân Áo khi kết thúc chiến tranh thế giới thứ nhất. Tất cả đều có tải trọng khoảng 400-500 tấn với trang bị chủ yếu là 2 khẩu pháo 120 li, 2 đến 3 khẩu 66 li, súng cối 120 li, pháo phòng không 40 li và súng máy. Vào lúc bắt đầu chiến dịch họ đã tiến hành các hoạt động tấn công bằng cách pháo kích sân bay tại Mohács thuộc Hungary ngày 6 tháng 4 và 8 tháng 4, nhưng đã phải bắt đầu rút lui về Novi Sad ngày 11 tháng 4 sau khi gặp phải đòn tấn công liên tiếp của máy bay ném bom bổ nhào Đức.
Sáng sớm ngày 12 tháng 4, một phi đội ném bom bổ nhào Junkers Ju 87 của Đức đã tấn công các tuần giang hạm Nam Tư trên sông Donau. Chiếc "Drava" do Aleksandar Berić chỉ huy đã bị đánh trúng nhiều lần nhưng vẫn trụ vững nhờ lớp giáp sàn dày 300 li của tàu, cho đến khi một quả bom tình cờ rơi thẳng vào ống khói, giết chết 54 người trong số 67 thành viên thủy thủ đoàn. Trong cuộc tấn công này các pháo thủ phòng không trên tàu tuyên bố rằng có 3 máy bay ném bom bổ nhào bị bắn hạ. 3 tuần giang hạm còn lại sau đó đã bị các thủy thủ cho tự đánh đắm ngày 12 tháng 4 khi các lực lượng Đức và Hungary kiểm soát được các căn cứ và hệ thống sông ngòi nơi chúng hoạt động.
Thương vong
Một chiếc xe tăng [[Renault FT-17 hoặc NC-27 của Nam Tư bị phá hủy]] Thiệt hại mà các lực lượng tấn công của Đức phải chịu trong chiến dịch này thấp đến bất ngờ. Trong 12 ngày chiến đấu tổng số thương vong là 558 người: 151 chết, 392 bị thương và 15 mất tích. Như trong cuộc tiến quân của Quân đoàn Thiết giáp số 41 vào Beograd, sĩ quan duy nhất tử trận là nạn nhân của một viên đạn do thường dân bắn tỉa. Luftwaffe mất xấp xỉ 60 máy bay bị bắn hạ trên bầu trời Nam Tư, với ít nhất 70 phi hành đoàn thiệt mạng. Lục quân Ý đã phải chịu thiệt hại nặng tại miền bắc Albania do chiến dịch tấn công của Nam Tư tại đây
Khoảng 1.000 lục quân và hàng trăm nhân viên thuộc Không quân Hoàng gia Nam Tư (trong đó có một đơn vị phân xưởng cơ động với 6 xe cộ) đã trốn thoát qua Hy Lạp để đến Ai Cập.
Trong cuộc chiến đấu ngắn ngủi của mình, Không quân Hoàng gia Nam Tư đã mất 49 máy bay do lực lượng tiêm kích và phòng không của phe Trục, với nhiều hư hỏng không thể sửa chữa. Ngoài ra còn có 27 phi công tiêm kích và 76 phi hành đoàn ném bom thiệt mạng. Thêm 85 máy bay bị phá hủy trên mặt đất do bị không kích, cùng với nhiều chiếc khác bị tiêu diệt hoặc vô hiệu hóa do chính phi hành đoàn của mình, hay bị rơi trong quá trình chiến đấu hoặc di tản.
Bất chấp những thiệt hại này, hơn 70 máy bay Nam Tư đã trốn thoát được sang lãnh thổ của Đồng Minh, chủ yếu là Hy Lạp, riêng 8 máy bay ném bom Dornier và Savoia Marchetti đã chạy sang Liên Xô và có 4 chiếc được an toàn. Hàng chục máy bay trốn thoát được đã bị phá hủy trong một cuộc oanh kích dữ dội của không quân Ý vào sân bay Paramitia tại Hy Lạp, chỉ còn lại 9 máy bay ném bom và vận tải sang được đến Ai Cập. Hơn 300 máy bay tác chiến, phụ trợ và huấn luyện đã bị chiếm giữ và chuyển giao cho lực lượng Không quân Nhà nước Độc lập Croatia mới thành lập, Phần Lan, Romania và Bulgaria.
Quân Ý đã chiếm giữ phần lớn Hải quân Nam Tư (1 trong 4 khu trục hạm, chiếc "Ljubljana", được sử dụng trong chiến dịch khi còn đang sửa chữa) Có 10 tàu bay tuần tra hàng hải của hải quân Nam Tư đã trốn thoát sang Hy Lạp, và 9 chiếc được đưa sang Ai Cập, tại đó chúng lập thành một phi đội dưới sự chỉ huy của RAF.
Nam Tư đầu hàng và hậu quả
nhỏ|Bản đồ phân chia lãnh thổ Nam Tư giữa các nước phe Trục Chiến thắng của phe Trục là rất chóng vánh. Ngay từ ngày 14 thang 4, bộ chỉ huy tối cao Nam Tư đã quyết định tìm cách đình chiến và cho phép các tư lệnh tập đoàn quân, cụm tập đoàn quân được tiến hành đàm phán ngừng bắn cục bộ. Trong ngày hôm đó, tư lệnh các Tập đoàn quân số 2 và số 5 đã hỏi ý quân Đức về các điều khoản đình chiến, nhưng bị từ chối. Họ được thông báo rằng chỉ có đầu hàng vô điều kiện mới tạo được cơ sở cho việc đàm phán. Tối hôm đó, bộ chỉ huy tối cao cử một phái viên đến tổng hành dinh của Cụm Thiết giáp Kleist để xin đình chiến, và để đáp lại, tướng von Kleist đã phái tư lệnh Tập đoàn quân số 2 là tướng von Weichs đến Beograd để thương thảo các điều khoản. Ông ta đã tới nơi vào chiều ngày 15 tháng 4 và đưa ra một hiệp định đình chiến dựa trên cơ sở đầu hàng vô điều kiện.
Ngày 16 tháng 4, một đại biểu Nam Tư đã đến Beograd, nhưng vì không có thẩm quyền ký kết các văn bản nên ông được giao cho một dự thảo hiệp định và một máy bay đặt theo ý riêng để làm đại diện ủy quyền của chính phủ. Cuối cùng, vào ngày 17 tháng 4 năm 1941, chỉ sau 11 ngày chiến đấu, Bộ trưởng Ngoại giao trước cuộc đảo chính là Aleksandar Cincar-Marković cùng Đại tướng Milojko Janković đã ký hiệp định đình chiến và đầu hàng vô điều kiện cho toàn bộ các đội quân của Nam Tư, bắt đầu có hiệu lực vào buổi trưa ngày hôm sau (18 tháng 4). Trong lễ ký kết, người Hungary và Bulgaria có đại diện là các sĩ quan liên lạc, nhưng họ không ký vào văn bản do đất nước họ không có chiến tranh với Nam Tư. Đại diện của Ý là Đại tá Luigi Buonofati đã ký sau khi lưu ý rằng "những điều khoản tương tự cũng có giá trị đối với quân đội Ý".
Cố gắng phòng thủ trên toàn tuyến biên giới của quân đội Nam Tư đã thất bại ngay từ đầu. Sau khi đầu hàng, Nam Tư bị chia sẻ giữa các nước Đức, Hungary, Ý và Bulgaria. Phần lớn Serbia bị Đức chiếm đóng. Thủ lĩnh phát xít Croatia Ante Pavelić được Ý ủng hộ đã tuyên bố thành lập một Nhà nước Độc lập Croatia trước cả khi cuộc xâm lăng kết thúc.
Bắt đầu từ cuộc khởi nghĩa tại Serbia vào tháng 7 năm 1941, cuộc kháng chiến liên tục nhằm chống lại các đội quân chiếm đóng tại Nam Tư đã nổ ra, chủ yếu do Du kích Nam Tư và thấp hơn là người Chetnik thực hiện, cho đến khi chiến tranh kết thúc.