✨Ba Tư xâm lược Hy Lạp lần thứ hai

Ba Tư xâm lược Hy Lạp lần thứ hai

Cuộc xâm lược Hy Lạp lần thứ hai của Ba Tư là một giai đoạn của cuộc chiến tranh Hy Lạp-Ba Tư diễn ra dưới đời vua Ba Tư Xerxes I từ năm 480–479 TCN. Cuộc xâm lược lần hai này nối tiếp cuộc xâm lược trước đó diễn ra dưới đời vua Darius I trong giai đoạn 492–490 TCN, cuộc chiến mà kết thúc sau thất bại của quân Ba Tư tại Marathon. Sau khi Darius băng hà, con trai ông là Xerxes kế thừa khát vọng của vua cha đánh chiếm toàn bộ Hy Lạp, dành thời gian và công sức chuẩn bị một đội quân hùng hậu. Về phía Hy Lạp, hai thành bang Athens và Sparta dẫn đầu 70 thị quốc tiến hành kháng chiến; tức là chỉ phần mười các thị quốc Hy Lạp dám chống trả, số còn lại thì giữ trung lập hoặc hàng phục trước Xerxes.

Cuộc xâm lược bắt đầu vào mùa xuân năm 480 TCN sau khi quân đội Ba Tư vượt Hellespont và hành quân xuyên Thrace và Macedonia xuống Thessalía. Quân Ba Tư gặp kháng cự của quân Hy Lạp chỉ huy bởi vua Leonidas I của Sparta tại đèo Thermopylae; cùng lúc đó, hạm đội Ba Tư giao tranh với hải quân Hy Lạp tại eo biển Artemisium. Tại trận Thermopylae nức danh, quân Hy Lạp dù bị lép vế về quân số đã có thể cầm chân được quân Ba Tư tại đó trong 3 ngày liên tiếp, cho tới khi quân Ba Tư định lén đánh bọc hậu theo một đường núi ẩn. Leonidas tử trận cùng với hậu quân ở lại. Hạm đội Liên minh sau 2 ngày chống đỡ các đòn tấn công của hạm đội Ba Tư tại trận Artemisium hay tin về chiến bại tại Thermopylae, bèn lui về Salamis.

Quân Ba Tư tiếp tục chiếm được Boeotia và Attica, rồi làm cỏ thành Athens. Liên quân Hy Lạp đành rút về Eo đất Corinth để bảo vệ Peloponnesus. Cả hai phe sau đó chuyển sự chú ý tới một cuộc hải chiến quyết định trên biển. Tại Salamis, vị tướng Athens Themistocles dụ được hải quân Ba Tư tham chiến tại eo biển Salamis chật hẹp, nơi mà do số lượng khổng lồ của chiến thuyền Ba Tư đã khiến hạm đội này trở nên hỗn loạn và bị đánh bại hoàn toàn. Chiến thắng tại Salamis làm phá sản kế hoạch kết thúc nhanh chiến dịch của Xerxes, buộc ông buộc phải trở về châu Á và giao phó phận sự cho vị tướng Mardonius để hoàn tất cuộc xâm lược.

Mùa xuân tiếp theo, Liên minh triệu tập một đội quân hoplite lớn chưa từng có và nghênh chiến với Mardonius. Tại trận Plataea, bộ binh Hy Lạp đã một lần nữa thể hiện sức mạnh vượt trội sau khi gây tổn thất lớn cho quân Ba Tư và giết chết tướng Mardonius. Cùng hôm dó, hải quân Hy Lạp trên Biển Aegean tiêu diệt hạm đội còn sót lại của Ba Tư trong trận Mycale. Cuộc xâm lược của Ba Tư chính thức chấm dứt sau hai thất bại thảm khốc, khiến cho bá quyền của Ba Tư tại vùng Aegean bị sứt mẻ nghiêm trọng. Hy Lạp trên đà thắng lợi phản công và hất cẳng Ba Tư khỏi châu Âu, quần đảo Aegean và Ionia trước khi cuộc xung đột chính thức kết thúc vào năm 479 TCN.

Sử liệu

Sử gia Hy Lạp Herodotus, người được gọi "Ông tổ Sử học" là tác giả của sử liệu chính cho việc nghiên cứu cuộc chiến tranh Hy Lạp-Ba Tư. Ông sinh năm 484 TCN tại Halicarnassus, Tiểu Á. Ông viết tác phẩm Lịch sử (Tiếng Hy Lạp latinh hóa: Historia) vào khoảng năm 440-430 TCN, với nỗ lực truy nguyên nguồn gốc cuộc Chiến tranh Hy Lạp – Ba Tư, vào thời điểm đó vẫn là một sự kiện lịch sử đương đại (cuộc chiến kết thúc hoàn toàn vào năm 450 TCN).

Nhiều sử gia cổ đại về sau, mặc dù nối tiếp việc nghiên cứu của Herodotus nhưng lại chỉ trích ông, người đầu tiên là Thucydides. Tuy nhiên, Thucydides lại chọn viết tiếp từ sự kiện mà Herodotus kết thúc (tại Cuộc vây hãm Sestos) và điều này cho thấy tài liệu lịch sử của Herodotus đủ chính xác để không cần viết lại hoặc sửa chữa. Những quan điểm tiêu cực về Herodotus kéo dài đện tận thời kỳ Phục Hưng mặc dù vậy tác phẩm của ông vẫn được đọc nhiều. Quan điểm hiện đại nhìn nhận Herodotus đã có một công trình nghiên cứu đáng chú ý trong tác phẩm Historia của mình, mặc dù một số thông tin chi tiết (đặc biệt là quân số và ngày tháng) nên được xem xét với thái độ hoài nghi.

Sử gia Diodorus Siculus, trong tác phẩm Bibliotheca Historica viết vào thế kỷ I TCN, cũng cung cấp nhiều thông tin về cuộc Chiến tranh Ba Tư – Hy Lạp, tham khảo một phần từ sử gia Hy Lạp Ephorus. Các thông tin ở đây có nhiều tương đồng với tác phẩm của Herodotus. Cuộc chiến tranh Hy Lạp-Ba Tư cũng được mô tả chi tiết hơn bởi một số nhà sử học xưa bao gồm Plutarch, Ctesias và được ám chỉ bởi các tác giả khác, chẳng hạn như nhà viết kịch Aeschylus. Nhiều bằng chứng khảo cổ, chẳng hạn như các cột Serpent cũng đã xác nhận nhiều chi tiết cụ thể mà Herodotus đã từng đưa ra trong các tác phẩm của mình.

Bối cảnh

thumb|right|Hy Lạp trước thềm cuộc xâm lược của Ba Tư Hai thành bang Athens và Eretria của Hy Lạp từng hậu thuẫn cuộc khởi nghĩa Íōn bất thành chống vương triều Darius I giữa những năm 499–494 TCN. Đế quốc Ba Tư bấy giờ vẫn còn tương đối non trẻ và thường xuyên phải đối mặt với các cuộc nổi dậy nhen nhóm bởi các dân tộc bị khuất phục. Năm 492 TCN, Darius sai tướng Mardonius khơi thông đường bộ tới Hy Lạp, kết quả là tái chiếm được Thrace và sáp nhập được Macedonia. Trước đó vào cuối thế kỷ thứ 6 TCN, xứ Macedonia từng là chư hầu của Ba Tư song vẫn có quyền tự chủ.

thumb|left|Người Sparta ném sứ giả Ba Tư xuống giếng. Năm 491 TCN, Darius phái sứ giả đến Hy Lạp bắt dâng cống 'đất và nước' để tỏ ý quy thuận.

Năm 490 TCN, Darius cử hai tướng Datis và Artaphernes cầm quân tấn công Naxos khiến cho các đảo Cyclades phải hàng phục, rồi tiến đánh và làm cỏ thành Eretria. Với ý định đánh thẳng tới Athens, đạo quân Ba Tư đổ bộ tại vịnh Marathon nhưng thua lớn trước quân Athens đông đảo hơn, chấm dứt cuộc xâm lược Hy Lạp lần thứ nhất của Ba Tư.

Darius bắt đầu gây dựng một đội quân mới hùng hậu hơn nhằm khuất phục toàn bộ Hy Lạp; tuy nhiên vào năm 486 TCN, người dân Ai Cập vùng lên khởi nghĩa khiến kế hoạch thảo phạt Hy Lạp bị đình chỉ vô thời hạn. Darius băng hà trong lúc chuẩn bị thân chinh đến Ai Cập, khiến ngôi vương của Ba Tư được truyền cho con trai ông là Xerxes I. Xerxes bình định Ai Cập và nhanh chóng khởi phát cuộc viễn chinh sang Hy Lạp.

Võ bị phía Ba Tư

Một cuộc xâm lược quy mô toàn diện đòi hỏi phải vạch sẵn kế hoạch dài hạn, tích trữ lương thảo và cưỡng bách tòng quân. Tuy nhiên, chiến dịch bị trì hoãn một năm vì cuộc nổi dậy tại Ai Cập và Babylonia.

Năm 481 TCN, sau 4 năm thai nghén chuẩn bị, Xerxes triệu tập quân đội sang xâm lược Hy Lạp. Herodotus liệt kê tổng cộng 46 dân tộc tạo nên đại quân của Xerxes. Quân Ba Tư tập trung tại Tiểu Á từ mùa hè đến mùa thu năm 481 TCN. Đạo quân từ các satrap phía đông hội tụ tại Kritala, Cappadocia rồi được Xerxes dẫn tới Sardis để trú đông. Đầu mùa xuân, đạo này di chuyển đến Abydos, Hellespontos và gia nhập với đạo của các satrap phía tây. Cuối cùng, toàn bộ lực lượng của Xerxes vượt Hellespontos bằng hai chiếc cầu phao sang châu Âu.

Quy mô quân đội

Tổng quát

thumb|Binh lính của Xerxes I bao gồm nhiều thành phần dân tộc từ mọi miền của Đế quốc, điêu khắc bên trên lăng Xerxes I tại khu khảo cổ [[Naqsh-e Rustam.]]

Herodotus chép rằng quân Ba Tư trên đường qua Thrace có nán lại Doriskos để duyệt binh, nhờ đó mà ông có được các số liệu sau:

Herodotus cho rằng tính thêm cả hậu cần thì phải gấp đôi con số nêu trên, nên toàn bộ lực lượng có thể rơi vào khoảng 5.283.220 người. Các cổ thư cũng đưa ra các con số cực kỳ lớn. Nhà thơ Simonides đương thời khẳng định 4 triệu lính Ba Tư; Ctesias cho hay tổng số quân tập hợp tại Doriskos là 800.000. Phê phán chính của Grote đối với khẳng định của Herodotus là sự hạn chế hậu cần, nhưng không nói chi tiết gì thêm. Tuy vậy, Grote không bác bỏ hoàn toàn lời kể của Herodotus, trích dẫn báo cáo của ông về các phương pháp kế toán tỉ mỉ của người Ba Tư và các kho dự trữ cung ứng của họ trong ba năm, nhưng vẫn tìm ra nhiều điểm bất tương thích trong sử liệu của Herodotus. Sĩ quan vận tại người Anh Sir Frederick Maurice cho rằng nguồn cung nước là yếu tố chính hạn chế quy mô quân đội Ba Tư. Maurice ước chừng các con sông ở Hy Lạp chỉ có thể hỗ trợ khoảng 200.000 binh lính và 70.000 súc vật. Ông bình rằng Herodotus có lẽ đã nhầm lẫn giữa hai từ chiliarchy (1.000) và myriarchy (10.000) nên dẫn đến việc phóng đại quân số như vậy.

Hai học giả Munro và Macan chú ý đến chi tiết tên của 6 đại tướng và 29 myriarch (sĩ quan chỉ đạo một baivabaram tầm 10.000 lính, đóng vai trò là đơn vị cơ bản của bộ binh Ba Tư) trong sử ký của Herodotus; điều này chỉ đến kích cỡ của lực lượng trên bộ vào khoảng 300.000. Vẫn có những học giả ủng hộ các con số từ 250.000 lên đến tận 700.000.

Hạm đội

thumb|Xerxes lệnh cho lính tráng quật roi trừng phạt biển [[Dardanellia|Hellespontus (Minh họa năm 1909)]]

Herodotus phân tích chi tiết hạm đội trireme Ba Tư theo sắc tộc như sau:

Phòng bị phía Hy Lạp

thumb|upright|Một người lính [[hoplite Sparta, Vix krater, khoảng năm 500 TCN.]] Người Athens đã chuẩn bị cho cuộc chiến với Ba Tư kể từ giữa những năm 480 TCN, và vào năm 482 TCN, chính khách Themistocles hạ lệnh cho đóng một đội tàu trireme khổng lồ nhằm đối phó với hạm đội Ba Tư. Năm 481 TCN, Xerxes cử khâm sai đi khắp Hy Lạp đòi cống đất và nước nhưng lại bỏ sót Athens và Sparta. Do hành động bất kính đối với Ba Tư của hai thị quốc đó, các thành bang khác bắt đầu tạo liên minh với họ.

Liên minh Hy Lạp

Hội nghị các thị quốc được tổ chức tại Corinthos vào cuối mùa thu năm 481 TCN, chính thức bắt đầu liên minh giữa các bang Hy Lạp. Herodotus gọi liên minh này là "οἱ Ἕλληνες" (những người Hy Lạp) và "Những người Hy Lạp đã thề liên minh" (bản dịch tiếng Anh của Godley) hoặc "Những người Hy Lạp kề vai sát cánh" (bản dịch tiếng Anh của Rawlinson). Sparta và Athens đóng vai trò chủ đạo tại hội nghị nhưng mọi ý kiến từ các thành bang khác đều được tôn trọng. Ta biết rất ít về cách thức hoạt động của liên minh và chi tiết các cuộc bàn bạc tại hội nghị. Chỉ có 70 thành bang trong số 700 thị quốc Hy Lạp cử đại biểu tới. Dù sao di chăng nữa, điều này đánh dấu một sự kiện khá đặc biệt trong lịch sử vùng đất Hy Lạp phân mảnh chính trị từ trước đến giờ, bởi vì nhiều thành bang lúc đó vẫn còn xung đột lợi ích với nhau.

Đa số các thành bang khác ít nhiều vẫn giữ thái độ trung lập, chờ đợi kết quả của cuộc đối đầu. Thebes bị các thành bang khác nghi ngờ sẽ sẵn sàng hỗ trợ kẻ thù Ba Tư khi chúng đến. Hầu hết nhân dân Thebes không bằng lòng với chính sách này, 400 kẻ "trung thành" của thành bang này gia nhập Liên quân tại Thermopylae. Tuy nhiên, quân lực Argos đã bị suy yếu nghiêm trọng vào năm 494 TCN do bị lực lượng dưới trướng vua Cleomenes I của Sparta đánh bại trong trận Sepeia. Quân đội Ba Tư mất khoảng 3 tháng để đi từ Hellespont đến Therme, một hành trình dài khoảng 600 km. Lục quân Ba Tư tạm dừng tại Doriskos để hội họp với hải quân. Tại đây, Xerxes ra lệnh tái tổ chức đội hình từ hành quân sang tác chiến.

'Đại nghị' Liên minh họp lại vào mùa xuân năm 480 TCN. Đại biểu của Thessalia khuyên các đồng minh tụ ở Thung lũng Tempe để cản bước tiến của Xerxes. Lực lượng Đồng minh gồm 10.000 lính do polemarchos người Sparta là Euenetus và chính khách người Athens là Themistocles chỉ huy được điều động tới trấn giữ ải hẹp đó. Tuy nhiên sau khi tới nơi, họ được Alexander I của Macedon cảnh báo còn tới 2 ải khác mà quân Ba Tư có thể lọt qua và rằng quân của Xerxes đông tới độ áp đảo; vì vậy họ đành bỏ về. Ngay sau đó, người Hy Lạp biết tin Xerxes vượt eo Hellespontus.

Themistocles bèn vạch kế hoạch thay thế cho quân Liên minh. Để xuống được miền nam Hy Lạp (Boeotia, Attica và Peloponnesus), quân của Xerxes buộc phải đi qua còn đèo Thermopylae rất hẹp. Quân Liên minh có thể dễ dàng cố thủ tại đó, bất chấp quân số Ba Tư áp đảo. Hơn nữa, hải quân liên minh có thể phong tỏa eo biển Artemisium ngăn quân Ba Tư vượt Thermopylae bằng thuyền bè. Chiến lược kép này được toàn thể hội nghị tán thành. Đồng thời các thành bang Peloponnesus lên kế hoạch dự phòng lui về trấn giữ eo đất Corinthos nếu tình hình trở xấu, phụ nữ và trẻ em Athens được sơ tán đến thành Troezen tại Peloponnesus.

Tháng 8 năm 480 TCN: Thermopylae và Artemisium

thumb|Trận Thermopylae và tuyến đường tới Salamis, 480 TCN. Thời điểm quân Ba Tư dọn đường quanh đỉnh Olympus nhằm tiến xuống Thermopylae lại trùng đúng với thời điểm vận hội Olympic của Hy Lạp và lễ hội Carneia của người Sparta. Theo quan niệm của họ, chiến tranh bị kiêng kị trong quãng thời gian này.

left|thumb|Ải Thermopylae thời hiện đại Quân Ba Tư đến Thermopylae vào giữa tháng 8 rồi chờ chực ba ngày cho quân Hy Lạp giải tán. Khi Xerxes nhận thấy người Hy Lạp sẽ quyết tử để giữ tuyến đường, ông lệnh cho quân tấn công. Tuy nhiên bởi địa thế hẹp tại đây phù hợp cho kiểu binh hoplite, quân Ba Tư buộc phải tấn công trực diện vào đội hình phalanx Hy Lạp. Liên quân Hy Lạp cầm cự suốt hai ngày trời, hóa giải mọi đòn tấn công từ phía Xerxes. Nhưng vào cuối ngày thứ hai, một cư dân địa phương tên là Ephialtes tiết lộ cho Xerxes con đường núi dẫn ra hậu cứ quân Liên minh. Xerxes liền cử những Bất tử quân tinh nhuệ của mình luồn ra phía sau vào buổi đêm. Leonidas may mắn hay tin cuộc đánh lén bèn ra lệnh triệt thoái đại quân; riêng ông cùng 300 lính Sparta, 700 lính Thespia, 400 lính Thebes và vài trăm lính từ các thành bang khác ở lại cản bước Ba Tư. Vào ngày thứ ba của trận chiến, những người lính Hy Lạp còn ở lại xông ra ngoài tử chiến với quân Ba Tư, cố gắng chém càng nhiều quân thù càng tốt. Tuy vậy hậu quân Liên minh rốt cuộc bị tiêu diệt, và con đường vượt Thermopylae được khai mở cho người Ba Tư.

thumb|Vua Achaemenid giết chết một lính [[hoplite Hy Lạp. Khoảng năm 500 TCN–475 TCN, tức là đời vua Xerxes I. Viện bảo tàng Mỹ thuật Metropolitan.]] Cùng lúc với trận chiến tại Thermopylae, hải quân Liên minh gồm 271 chiếc trireme có nhiệm vụ phòng thủ Artemisium chống lại hải quân Ba Tự. Ngay trước trận Artemisium, hạm đội Ba Tư gặp phải cơn cuồng phong ngoài khơi Magnesia làm mất rất nhiều tàu, nhưng 800 chiếc lành lặn vẫn tới được Artemisium. Vào ngày đầu tiên (trùng với ngày đầu tiên của trận Thermopylae), hạm đội Ba Tư cử 200 con tàu có khả năng đi biển vòng xuống bờ phía đông Euboea cắt đường rút lui của Liên quân.

Vào ngày thứ hai của trận đánh, hạm đội Hy Lạp nhận được tin đường rút lui không còn bị đe dọa; do đó họ quyết tâm duy trì vị trí hiện tại. Thuyền Hy Lạp thực hiện các cuộc tấn công chớp nhoáng vào các tàu Cilicia của Ba Tư, bắt giữ và tiêu diệt chúng. Tuy nhiên vào ngày thứ ba, hạm đội Ba Tư tấn công tổng lực vào phòng tuyến của Liên minh. Trong ngày giao tranh khốc liệt đó, Liên minh ngoan cố giữ được vị trí nhưng hứng chịu tổn thất nặng nề (thiệt hại phân nửa hạm đội Athens); song họ cũng đã gây tổn thất tương đương cho hạm đội Ba Tư.

Tháng 9 năm 480 TCN: Athens thất thủ và trận Salamis

thumb|left|Quân đồn trú Athens cố thủ trên [[Acropolis (Athens)|Acropolis. Quân Achaemenid sau khi chiếm được thành Athens đốt phá và san bằng ngôi Acropolis theo lệnh của Xerxes.]] thumb|Đống tàn tích [[Đền Cổ Athena dựng trên đồi Acropolis, bị đập phá bởi quân của Xerxes I.]] thumb|right|upright|Chứng tích cuộc hủy hoại thành Athens bởi quân đội Ba Tư có biệt danh là [[Perserschutt, nghĩa là "đống gạch vụn Ba Tư". Hình được chụp năm 1866, ngay sau khi được khai quật.]] Thất bại của Hy Lạp tại Thermopylae khiến cho vùng Boeotia rơi vào tay Xerxes; quân Ba Tư san bằng hai thành bang thù địch Thespiae và Plataea. Attica không còn được che chắn khiến cho dân số còn lại của Athens phải sơ tán khẩn cấp tới Salamis với sự trợ giúp của hạm đội Liên minh. Quân Peloponnesus lập phòng tuyến tại eo đất Corinthos, đắp thành lũy và hủy con đường tới Megara, bỏ mặc Athens.

Athens thất thủ lần đầu tiên vào tháng 9 năm 480 TCN. Số dân Athens còn ở lại lập công sự cố thủ trên Acropolis bị đánh bại, và Xerxes sau đó hạ lệnh thiêu rụi Athens. Thành Acropolis bị san bằng, Đền Parthenon và Đền Athena bị phá hủy.

Quân Ba Tư hiện đã chiếm được phần lớn Hy Lạp, nhưng Xerxes có lẽ đã không lường trước sự bất khuất của người Hy Lạp; ưu tiên của ông lúc đó là kết thúc chiến dịch càng nhanh càng tốt; bởi lẽ đội quân khổng lồ của ông khó có thể được cung ứng vĩnh viễn, và dường như Xerxes chẳng muốn ở rìa của đế quốc quá lâu mà bỏ bê việc triều chính. Trận Thermopylae chứng tỏ một cuộc tấn công trực diện vào điểm cố thủ tốt có cơ hội thành công rất thấp; Tóm lại, nếu Xerxes tiêu diệt được hải quân Liên minh, ông ta sẽ có được điều kiện để bắt Hy Lạp chiêu hàng; đây có lẽ là hy vọng duy nhất để kết thúc chiến dịch trong mùa đó.

thumb|Sơ đồ thế trận hai phe tại cuộc thủy chiến Salamis Ngay cả sau khi Athens thất thủ trước quân đội Ba Tư, hạm đội Liên minh bình thản neo đậu ngoài khơi Salamis với ý định lùa hạm đội Ba Tư vào bẫy. Themistocles thoái thác để lực lượng hải quân tham chiến tại Eo biển Salamis chật chội. Ở đó, số thuyền đông hơn của Ba Tư hóa ra lại là trở ngại chết người, vì chúng không thể triển khai đội hình tác chiến và trở nên vô tổ chức. Hạm đội Hy Lạp thừa cơ tấn công và giành được chiến thắng quyết định, đánh chìm hoặc bắt sống ít nhất 200 tàu của Ba Tư, và do đó, đảm bảo Peloponnesus sẽ không thể bị đánh từ phía sườn.

Theo Herodotus, sau trận thua đó, Xerxes lệnh cho quân lính đắp bờ đường sang Salamis (Strabo và Ctesias đặt sự kiện này trước trận chiến) song bất thành. Xerxes lo sợ hải quân Hy Lạp sẽ giong buồm đến Hellespont và đánh chìm các cầu phao. Theo Herodotus, tướng Mardonius tự nguyện đóng ở Hy Lạp và hoàn thành cuộc chinh phạt, khuyên Xerxes mang quân rút về châu Á. Đại quân Ba Tư từ bỏ Attica, tướng Mardonius trú đông ở Boeotia và Thessalia. Quân Ba Tư bày nhiều mưu kế để chiếm thành Potidaea, rốt cuộc phải đóng ở đó tận 3 tháng mà không hạ được thành. Quân Ba Tư chờ tới lúc thủy triều xuống thấp nhất để xông vào thị trấn bằng đường bờ biển, tuy nhiên triều dâng nhanh khiến nhiều kẻ chết đuối và những kẻ sống sót bị thuyền Potidaea giết hại. Dân thành này vốn là người Bottiae bị trục xuất khỏi Macedon. Vì các đồng minh không cam kết thỏa thuận, hạm đội Athens có vẻ đã khước từ tham chiến cùng hạm đội Liên minh vào mùa xuân. Người Athens đảm bảo phái đoàn Sparta có mặt để nghe rõ lời đề nghị, tuy họ khước từ nó. Bấy giờ tại Sparata đang tổ chức lễ Hyacinthus nên trì hoãn hồi đáp các đồng minh trong 10 ngày. Sứ giả Athens biết vậy giận dữ gửi tối hậu thư cho người Sparta, song vô cùng bất ngờ khi họ đã gửi quân lính đến gặp mặt quân Ba Tư từ trước.

Khi Mardonius hay tin quân Hy Lạp đang trên đường hành quân, ông lui bình về Boeotia gần Plataea nhằm dụ quân Hy Lạp tiến vào địa hình rộng mở rồi sử dụng lợi thế kỵ binh để tiêu diệt họ. Tuy nhiên, Liên quân dưới sự chỉ huy của nhiếp chính người Sparta là Pausanias đã lường trước mưu kế đó và đóng quân trên cao điểm Plataea. Mardonius sai kỵ binh đánh-rồi-rút vào phòng tuyến Hy Lạp, nhưng bất thành và khiến chỉ huy đội kỵ binh thiệt mạng. Liên quân bèn bám vào địa hình đồi núi để tiếp cận trại lính Ba Tư, nhưng lại khiến cho tuyến liên lạc bị sơ hở. Kỵ binh Ba Tư lợi dụng thời cơ để đánh chặn việc vận lương và hủy được suối cung cấp nước duy nhất của quân Hy Lạp. Tuy nhiên, giống như tại trận Thermopylae, bộ binh Ba Tư không thế địch nổi với hopite Hy Lạp trang bị áo giáp dày cộp. Người Sparta phản công và giết được Mardonius. Quân Ba Tư thấy tướng quân bị giết nên vỡ; 40.000 lính sống sót tháo chạy về Thessaly, số còn lại mắc kẹt tại trại Ba Tư rồi bị quân Hy Lạp tàn sát.

thumb|Quân lính Đế quốc Achaemenid tại [[trận Plataea: lính đánh thuê Hy Lạp, Sacae, Ấn Độ, Bactria, Medes và Ba Tư, cầm đầu bởi viên tướng Mardonius.]] Buổi chiều hôm đó, Herodotus kể rằng tin đồn về chiến thắng của Liên quân tại Plataea đã tới tai hạm đội ngoài khơi bờ biển Núi Mycale ở Ionia. Nhuệ khí của binh lính dâng cao, và lực lượng thủy binh Hy Lạp tiếp tục giành được chiến thắng quyết định tại Mycale cùng ngày, tiêu diệt tàn dư hạm đội Ba Tư. Ngay sau khi quân Peloponnesus hành quân lên phía bắc eo đất, hạm đội Athens dưới sự chỉ huy của Xanthippus gia nhập với phần còn lại của hạm đội Đồng minh. Do tàu bè của Ba Tư xập xệ, họ không mạo hiểm nghênh chiến mà kéo tàu lên bãi biển Mycale, bèn hội với 60.000 lính được Xerxes để lại tại đó, rồi đóng cọc quanh trại để bảo vệ thuyền. Sau trận Mycale, hạm đội Liên minh tiến tới Hellespont để hủy các cầu phao, nhưng thấy rằng chúng đã được dỡ bỏ sẵn rồi. Hạm đội Peloponnesian hồi hương, còn hạm đội Athens đánh Chersonesos vẫn nằm dưới gông cùm Ba Tư. Đế quốc Achaemenid vẫn duy trì ảnh hưởng mạnh mẽ tại ngưỡng cửa của Hy Lạp tại Thrace cho đến khoảng năm 465 TCN. Theo Thucydides thuật lại, từ năm 477–455 TCN quân Hy Lạp tiến đánh thành bang Eion tọa lạc tại cửa sông Strymon. Eion cùng với Doriskos tại Thrace là những thị trấn cuối cùng vẫn nằm dưới sự kiểm soát của Achaemenid sau cuộc xâm lược Ba Tư lần thứ hai. Herodotus cho ta biết người Athens thất bại trong nỗ lực đánh bật thống đốc Ba Tư tên là Mascames khỏi Doriskos. Tuy vậy, Mascames và quân đồn trú từ bỏ thành Doriskos vào khoảng năm 465 TCN.

Hòa bình với Ba Tư được chính thức hóa vào năm 449 TCN với hòa ước Callias, khép lại nửa thế kỷ chiến tranh triền miên.

👁️ 4 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Cuộc xâm lược Hy Lạp lần thứ hai của Ba Tư** là một giai đoạn của cuộc chiến tranh Hy Lạp-Ba Tư diễn ra dưới đời vua Ba Tư Xerxes I từ năm 480–479 TCN.
**Hy Lạp cổ phong** là thời kỳ trong lịch sử Hy Lạp kéo dài từ thế kỷ thứ tám trước Công nguyên đến khi người Ba Tư xâm lược Hy Lạp lần thứ hai vào
thumb|Đền [[Parthenon, một ngôi đền được xây dựng cho nữ thần Athena nằm trên khu vực Acropolis ở Athens, là một trong những biểu tượng tiêu biểu nhất cho văn hóa và sự tài hoa
**Chiến tranh Punic lần thứ hai**, cũng còn được gọi là **Chiến tranh Hannibal**, (bởi những người La Mã) **Cuộc chiến tranh chống lại Hannibal**, hoặc **Chiến tranh Carthage**, kéo dài từ năm 218 đến
**Chiến tranh thế giới thứ hai** (còn được nhắc đến với các tên gọi **Đệ nhị thế chiến**, **Thế chiến II** hay **Đại chiến thế giới lần thứ hai**) là một cuộc chiến tranh thế
**Trận Hy Lạp** (hay còn gọi là **Chiến dịch Marita**, ) là tên thường gọi cuộc tiến công chinh phục Hy Lạp của nước Đức Quốc xã vào tháng 4 năm 1941. Phía Hy Lạp
**Chiến tranh Hy Lạp-Ý** ( _Ellinoitalikós Pólemos_ hay **Πόλεμος του Σαράντα** _Pólemos tou Saránda_, "Cuộc chiến năm 40", , "Chiến tranh Hy Lạp") là một cuộc xung đột giữa Ý và Hy Lạp, kéo dài
**Leonidas I** (; ; mất ngày 19 tháng 9 năm 480 TCN) là một vị vua của thành bang Sparta thuộc Hy Lạp, và là vua thứ 17 thuộc dòng dõi Agiad, một vương triều
**Hy Lạp**, quốc hiệu là **Cộng hòa Hy Lạp**, là một quốc gia nằm ở phía nam bán đảo Balkan, giáp với Albania, Bắc Macedonia và Bulgaria về phía bắc, Thổ Nhĩ Kỳ và biển
**Lịch sử Hy Lạp** tập trung vào phần lịch sử trên lãnh thổ đất nước Hy Lạp hiện đại, cũng như phần lịch sử của người Hy Lạp và các vùng đất mà họ đã
Trong bối cảnh của nghệ thuật Hy Lạp cổ đại, kiến ​​trúc, và văn hóa, **Hy Lạp thời kỳ Hy Lạp hóa** tương ứng với khoảng thời gian giữa cái chết của Alexandros Đại đế
**Philippos của Hy Lạp và Đan Mạch** **, Công tước xứ Edinburgh** (sau gọi là **Philip Mountbatten**; 10 tháng 6 năm 1921 – 9 tháng 4 năm 2021) là chồng của Nữ vương Elizabeth II
**Macedonia** (; ), còn được gọi là **Macedon** (), là một vương quốc cổ đại nằm ở ngoài rìa phía bắc của nền văn minh Hy Lạp Cổ xưa và Hy Lạp Cổ điển, và
thumb|[[Vương quốc Macedonia (màu cam đậm) vào năm 336 TCN dưới triều đại của Philippos II của Macedonia; những vùng lãnh thổ khác bao gồm các quốc gia lệ thuộc của Macedonia (cam nhạt), người
**Cuộc Chiến tranh giành độc lập Hy Lạp** (1821–1829), cũng được biết đến với tên gọi **Cuộc chiến tranh cách mạng Hy Lạp** (tiếng Hy Lạp: Ελληνική Επανάσταση, _Elliniki Epanastasi_; tiếng Thổ Nhĩ Kỳ: يؤنان
**Trận Salamis** (tiếng Hy Lạp cổ: Ναυμαχία τῆς Σαλαμῖνος, _Naumachia tēs Salaminos_), là một trận hải chiến giữa các thành bang Hy Lạp và đế quốc Ba Tư vào năm 480 TCN ở một eo
**Cuộc xâm lược Nam Tư** (mật danh **Chỉ thị 25** hay **Chiến dịch 25**), còn được biết đến với cái tên **Chiến tranh tháng Tư** (tiếng Serbia-Croatia: _Aprilski rat_, tiếng Slovene: _Aprilska vojna_), là cuộc
**Trận Thermopylae** là một trận đánh nổi tiếng trong lịch sử, là một cuộc chạm trán giữa các thành bang Hy Lạp, dưới sự dẫn dắt của Leonidas I xứ Sparta và Đế quốc Ba
Đây là một **Niên biểu các sự kiện diễn ra trong thời gian Chiến tranh thế giới thứ hai**, trong năm 1940. ## Tháng 1 năm 1940 :1: 10.000 quân Nhật mở cuộc phản công
**Athena** hoặc **Athene**, còn có hiệu là **Pallas**, là một nữ thần Hy Lạp cổ đại gắn liền với trí tuệ, nghề thủ công mỹ nghệ và chiến tranh, Dòng chữ này có thể liên
nhỏ|Bản đồ cho thấy Đế quốc La Mã (màu tím) và Parthia (màu vàng) cùng nhau chia sẻ [[Đế quốc Seleukos (màu xanh ở giữa) và qua đó giúp họ trở thành quốc gia mạnh
Tượng bán thân [[Zeus ở Otricoli (Sala Rotonda, Museo Pio-Clementino, Vatican), tỉnh Terni. Trong thần thoại Hy Lạp, Zeus là chúa tể các vị thần, ngự trên đỉnh Olympus.]] **Thần thoại Hy Lạp** là tập
**Mặt trận Địa Trung Hải và Trung Đông** trong Chiến tranh thế giới thứ hai gồm nhiều trận đánh trên biển, đất liền và trên không giữa quân đội Đồng Minh và khối Trục tại
**Cuộc xâm lược Ba Lan 1939** – được người Ba Lan gọi là **Chiến dịch tháng Chín** (_Kampania wrześniowa_), **Chiến tranh vệ quốc năm 1939** (_Wojna obronna 1939 roku_); người Đức gọi là **Chiến dịch
Ngày 24 tháng 2 năm 2022, Nga tiến hành cuộc xâm lược toàn diện vào Ukraina. Chiến dịch này bắt đầu sau một thời gian tập trung lực lượng cùng sự công nhận độc lập
Nghệ thuật của Hy Lạp Cổ Đại đã gây ảnh hưởng rất lớn đến nền văn hóa của nhiều nước trên thế giới, đặc biệt là trong các lĩnh vực điêu khắc và kiến ​​trúc.
**Kênh đào Xerxes** () là kênh đào điều hướng thông qua bán đảo Núi Athos ở Chalkidiki, phía đông bắc Hy Lạp. Nó được xây dựng vào thế kỷ thứ 5 trước Công nguyên dưới
**Chiến tranh Punic lần thứ ba** (tiếng Latin: _Tertium Bellum Punicum_) (năm 149-146 TCN) là cuộc chiến thứ ba và cũng là cuối cùng trong số các cuộc chiến tranh Punic xảy ra giữa thuộc
**Achaemenes** (còn bị gọi sai là **Achaemenides** bởi Ctesias, từ tiếng Ba Tư cổ **_Haxāmaniš_**) là một vị tướng nhà Achaemenes và phó vương của Ai Cập cổ đại vào giai đoạn đầu thế kỷ
**Vương quốc Ấn-Hy**, **Vương quốc Ấn-Hy Lạp** hay **Vương quốc Graeco-Ấn Độ**, còn được gọi trong lịch sử là **Vương quốc Yavana** (Yavanarajya), là một vương quốc Hy Lạp thời kỳ Hy hóa bao gồm
**Trận Marathon** (tiếng Hy Lạp: Μάχη τοῡ Μαραθῶνος Mache tou Marathonos là trận đánh nổi tiếng diễn ra vào mùa thu năm 490 TCN trong Cuộc xâm lược Hy Lạp lần thứ nhất của Ba
nhỏ|Bản báo cáo của Ủy ban nhân quyền Tháng 9 năm 1967, Đan Mạch, Na Uy, Thuỵ Điển, cùng Hà Lan tố cáo chính quyền quân sự Hy Lạp làm trái Công ước nhân quyền
nhỏ|Lính Úc dùng súng máy tại trận địa gần [[Wewak tháng 6 năm 1945]] Sau khi Đức Quốc xã xâm lăng Ba Lan, chính phủ Úc tuyên chiến với Đức ngày 3 tháng 9 năm
**Giải bóng đá vô địch quốc gia Hy Lạp** (**Super League 1**, ), hay còn gọi là **Super League Stoiximan** vì lý do tài trợ, là hạng đấu bóng đá chuyên nghiệp cao nhất ở
**Nội chiến Quốc-Cộng lần thứ 2** (); diễn ra từ năm 1945 đến năm 1950, là cuộc chiến giữa Quốc dân Đảng và Đảng Cộng sản Trung Quốc nhằm tranh giành quyền kiểm soát Trung
Đây là một **Niên biểu các sự kiện diễn ra trong thời gian Chiến tranh thế giới thứ hai**, trong năm 1941. ## Tháng 1 năm 1941 :1: Thống kê từ cuộc ném bom Luân
Chiến tranh thế giới thứ hai đã để lại hậu quả kéo dài trong khoảng thời gian từ năm 1945 - 1957. Thế giới từ chỗ đa cực đã chuyển thành lưỡng cực với sự
**Vương quốc Hy Lạp-Bactria** cùng với vương quốc Ấn-Hy Lạp là các vương quốc nằm ở cực đông của thế giới Hy Lạp hóa, vương quốc này tồn tại từ năm 256 cho tới năm
**Chiến tranh thế giới thứ nhất**, còn được gọi là **Đại chiến thế giới lần thứ nhất**, **Đệ nhất Thế chiến** hay **Thế chiến I**, là một cuộc chiến tranh thế giới bắt nguồn tại
**Petar II của Nam Tư** (tiếng Serbia: _Петар II Карађорђевић_, La tinh hoá tiếng Serbia: _Petar II Karađorđević_; tiếng Anh: _Peter II of Yugoslavia_; 06 tháng 09 năm 1923 - 03 tháng 11 năm 1970)
**Hannibal**, **con trai của Hamilcar Barca**(sinh năm 247 trước Công nguyên - mất 183 trước Công nguyên), là một tướng lĩnh và nhà chiến thuật quân sự người Carthage. Chữ "Hannibal" nghĩa là "niềm vui
Cuộc **Chiến tranh nhân dân giải phóng Nam Tư** là một bộ phận quan trọng của Mặt trận phía đông trong Chiến tranh thế giới thứ hai ở châu Âu. Cuộc chiến bắt đầu từ
**Nhật thực** () xảy ra khi Mặt Trăng đi qua giữa Trái Đất và Mặt Trời trên cùng một đường thẳng và quan sát từ Trái Đất, lúc đó Mặt Trăng che khuất hoàn toàn
**Macedonia thuộc Achaemenes** là thuật ngữ đề cập tới thời kỳ vương quốc Macedonia nằm dưới sự thống trị của đế quốc Achaemenes. Vào năm 512/511 TCN, Megabyzus đã buộc vị vua của Macedonia là
**Nam Tư** (_Jugoslavija_ trong tiếng Serbia-Croatia (ký tự Latinh) và tiếng Slovenia; _Југославија_ trong tiếng Serbia-Croatia (ký tự Kirin) và tiếng Macedonia) miêu tả ba thực thể chính trị tồn tại nối tiếp nhau trên
**Bắc thuộc lần thứ ba** trong lịch sử Việt Nam kéo dài từ năm 602 đến năm 905 hoặc năm 939. Thời kỳ này bắt đầu khi Tùy Văn Đế sai Lưu Phương đánh chiếm
**Perikles** (còn gọi là **Pericles**, tạm dịch ra tiếng Việt là _bị sự huy hoàng bám lấy_) (khoảng 495 – 429 TCN) là một nhà chính trị, nhà hùng biện, tướng lĩnh tài ba và
**Đế chế Parthia** hay còn được gọi là **Đế chế Arsaces** (247 TCN – 224 CN) (tiếng Việt trong một số tài liệu Phật giáo còn dịch Parthia là **An Tức**) là một quốc gia
**Mặt trận Balkan** (28 tháng 7 năm 1914 - 29 tháng 9 năm 1918) hay **Chiến trường Balkan** là một trong những mặt trận của Chiến tranh thế giới thứ nhất, diễn ra trên bán
**Antigonos II Gonatas** (tiếng Hy Lạp: _Αντίγονος B΄ Γονατᾶς_, 319 – 239 TCN) là vị quốc vương đã thiết lập triều đại Antigonos ở Macedonia. Ông là một vị vua đầy quyền uy và nổi