✨Quốc-Cộng nội chiến lần thứ hai

Quốc-Cộng nội chiến lần thứ hai

Nội chiến Quốc-Cộng lần thứ 2 (); diễn ra từ năm 1945 đến năm 1950, là cuộc chiến giữa Quốc dân Đảng và Đảng Cộng sản Trung Quốc nhằm tranh giành quyền kiểm soát Trung Quốc. Cuộc chiến này trực tiếp dẫn đến việc thành lập Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, chính phủ Trung Hoa Dân Quốc phải di dời ra Đài Loan, và tạo ra tình trạng chia cắt hai bờ eo biển Đài Loan hiện nay.

Trong thời kỳ Quốc dân Cách mạng quân Bắc phạt, Đảng Cộng sản Trung Quốc và Quốc dân Đảng từng hợp tác trong lần hợp tác Quốc-Cộng thứ nhất để cùng chống lại chính phủ Bắc Dương Trung Hoa Dân Quốc. Tuy nhiên, mối hợp tác này tan vỡ, dẫn đến cuộc nội chiến Quốc-Cộng lần thứ nhất. Đến năm 1937, do sự bùng nổ Chiến tranh Trung – Nhật, hai đảng chấm dứt nội chiến và bắt đầu lần hợp tác Quốc-Cộng thứ hai. Sau khi Chiến tranh Trung – Nhật kết thúc, hai đảng xảy ra xung đột quân sự nhằm tranh giành quyền tiếp nhận sự đầu hàng và tài nguyên từ quân đội Nhật Bản. Sau đó, hai bên tiến hành Đàm phán Trùng Khánh trong cùng năm và ký kết Hiệp định Song Thập, nhằm chấm dứt tình trạng chia rẽ Quốc-Cộng và thiết lập chính quyền dân chủ. Hai bên cũng tổ chức Hội nghị Hiệp thương Chính trị với mục tiêu thống nhất đất nước. Tuy nhiên, hội nghị này không mang lại hòa giải giữa hai đảng. Ngày 15 tháng 11 năm 1946, Quốc dân Đại hội Lập hiến do Quốc dân Đảng chủ trì khai mạc trong bối cảnh Đảng Cộng sản Trung Quốc và Liên minh Dân chủ Trung Quốc vắng mặt, đánh dấu sự chấm dứt nỗ lực giải quyết vấn đề chia rẽ bằng biện pháp chính trị.

Năm 1947, nội chiến bùng phát toàn diện. Trong hai năm sau đó, Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc dưới sự lãnh đạo từ Đảng Cộng sản Trung Quốc đã hoàn toàn đánh bại lực lượng chủ lực Quốc quân Trung Hoa Dân Quốc qua ba chiến dịch lớn. Năm 1949, chiến dịch vượt sông Dương Tử đã chiếm được thủ đô Nam Kinh và trung tâm kinh tế Thượng Hải của Trung Hoa Dân Quốc. Cùng năm đó, vào tháng 10, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa được tuyên bố thành lập. Các học giả Trung Quốc đại lục thường cho rằng chiến dịch đảo Hải Nam vào tháng 6 năm 1950 đánh dấu kết thúc các hoạt động chiến sự quy mô lớn cuộc chiến này, trong khi giới sử học phương Tây thường cho rằng chiến dịch quần đảo Vạn Sơn vào tháng 8 năm 1950 mới là thời điểm nội chiến dần lắng xuống.

Tháng 3 năm 1950, Quân Giải phóng chiếm lĩnh Tây Xương. Đến ngày 1 tháng 1 năm 1979, Quân Giải phóng chấm dứt cuộc pháo chiến Kim Môn, chính thức kết thúc các cuộc xung đột quân sự giữa hai bờ eo biển.

Cuộc chiến này đã thay đổi sâu sắc cục diện chính trị và cấu trúc xã hội Trung Quốc, mở ra mối quan hệ giữa hai bờ eo biển, hình thành "vấn đề hai bờ". Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc chỉ còn kiểm soát thực tế khu vực Đài Loan, Bành Hồ, Kim Môn, Mã Tổ và một số đảo chiếm đóng trái phép của Việt Nam trên Biển Đông.

Tên gọi

Về quan điểm hai bên Quốc-Cộng đối với bản chất cuộc chiến tranh, ý kiến có sự khác biệt rõ rệt:

Theo quan điểm Đảng Cộng sản Trung Quốc, cuộc chiến này là một cuộc nội chiến nhằm lật đổ sự thống trị Quốc dân Đảng. Đảng Cộng sản Trung Quốc gọi đây là "Cuộc chiến tranh cách mạng trong nước lần thứ ba" (), hay "Chiến tranh Giải phóng Nhân dân Trung Quốc" (), thường được viết tắt là "Chiến tranh Giải phóng" (). Trong giai đoạn đầu, cuộc chiến này còn được gọi là "Chiến tranh tự vệ yêu nước" (). Đảng Cộng sản cho rằng, vào tháng 6 năm 1946, Tưởng Giới Thạch đã mở rộng xung đột cục bộ thành nội chiến toàn diện. Vì lúc đó, quân đội Quốc dân và Quân Giải phóng nhân dân đối đầu không phân thắng bại ở sông Tùng Hoa. Tưởng Giới Thạch sau đó đã chuyển trọng tâm tấn công vào các khu giải phóng ở Trung Nguyên và Tô Trung (khu vực Giang Tô). Mặc dù Quốc dân Đảng đã triệu tập "Đại hội Quốc dân", mục tiêu thực sự là tiêu diệt hoàn toàn Đảng Cộng sản.

Theo quan điểm Quốc dân Đảng, cuộc chiến này là cuộc nổi dậy Đảng Cộng sản nhằm thực hiện cách mạng vô sản. Quốc dân Đảng gọi cuộc chiến này là "Động viên Kham loạn" (), "Chiến tranh Kham loạn" () hoặc "Kháng Cộng Vệ Quốc Kham loạn" (). Về thời gian chiến tranh, Quốc dân Đảng chia thành hai giai đoạn: "Duy Tĩnh" và "Càn Loạn". Sau khi kháng chiến chống Nhật kết thúc, chính phủ Quốc dân đã cố gắng thực hiện hiến chính, cho phép các đảng phái tham gia soạn thảo hiến pháp, và dưới sự hòa giải từ Hoa Kỳ, Quốc dân Đảng kỳ vọng thông qua đàm phán để giải quyết xung đột với Đảng Cộng sản. Tuy nhiên, Đảng Cộng sản đã phản đối hiến chính, Hoa Kỳ thất bại trong nỗ lực hòa giải, và Đảng Cộng sản tiếp tục tiến hành nổi dậy. Do đó, chính phủ đã ban hành "Điều khoản tạm thời trong thời kỳ động viên càn loạn", và chiến dịch Càn Loạn được triển khai.

Bối cảnh

Ngay từ trước khi Chiến tranh thế giới thứ hai nổ ra, cả Cộng sản đảng và Quốc dân đảng đã có những bất đồng sâu sắc, từng dẫn đến Nội chiến lần thứ nhất. Khi Chiến tranh Trung-Nhật bùng nổ, hai bên tạm gác những xung đột để cùng hợp tác chống lại kẻ thù chung, dù sự hợp tác rất hạn chế, mỗi bên đều tìm cơ hội để tiêu diệt bên kia. Khi thời điểm quân Nhật chuẩn bị thua trận, kẻ thù chung của cả hai phe Cộng sản đảng và Quốc dân đảng sắp biến mất, thì mâu thuẫn trong quá khứ của 2 bên bắt đầu xuất hiện trở lại.

Trong Chiến tranh Trung-Nhật, chính phủ Trung Hoa dân quốc tấn công quân Nhật trực tiếp từ khu vực phía Đông vùng hạ lưu sông Tùng Hoa cho đến Tây Nam Trung Quốc. Vì vậy trước khi quân Nhật đầu hàng, quân chủ lực Quốc dân quân tập trung hầu hết ở khu vực này. Ngoài ra, ở khu vực phía nam sông Trường Giang, tuyến đường sắt Quảng Châu - Hán Khẩu (Việt Hán lộ) về phía Đông có lực lượng địa phương Quốc dân quân thuộc Đệ tam Chiến khu bảo vệ. Ở khu vực Hoa Bắc và Đông Bắc, về danh nghĩa vẫn thuộc chính phủ Trung Hoa dân quốc kiểm soát, nhưng thực chất quyền kiểm soát thuộc chính phủ Uông Tinh Vệ thân Nhật.

Còn từ phía bắc sông Trường Giang và khu vực từ tuyến đường sắt Bắc Bình - Hán Khẩu (Bình Hán lộ) về phía đông không có lực lượng chính quy của chính phủ Trung Hoa dân quốc. Phía Đảng Cộng sản Trung Quốc trong chiến tranh sử dụng chiến tranh du kích và tác chiến ở nông thôn, tổ chức phong trào chống Nhật Bản ở khu vực nông thôn trong khu vực chiếm đóng của Nhật Bản. Vì vậy, đến tháng 4 năm 1945, Đảng Cộng sản kiểm soát hầu hết các vùng nông thôn Bắc Trung Quốc, tổng dân số khoảng 95,5 triệu và xây dựng một chính quyền và quân đội riêng đối đầu lại chính quyền và quân đội Quốc dân Đảng.

Kể từ khi Quốc dân Đảng nắm chính phủ, quân Đồng Minh luôn coi đây là đại diện hợp pháp duy nhất tại Trung Quốc. Chính phủ Mỹ về giai đoạn cuối Chiến tranh thế giới thứ hai cũng lo ngại về sự mạnh lên và ngày càng mở rộng của Phong trào Cộng sản, vì vậy chính phủ Trung Hoa dân quốc nhận được hỗ trợ trực tiếp của Mỹ ngày càng nhiều hơn trong chiến tranh. Ngoài ra, trước khi quân Nhật đầu hàng, chính phủ Trung Hoa dân quốc và Liên Xô đã ký cam kết về sự độc lập của Ngoại Mông và các cam kết liên quan đến lợi ích của Liên Xô tại khu vực Đông Bắc, để bảm đảm Liên Xô không hỗ trợ cho phía Đảng Cộng sản. Trong nước, chính phủ Trung Hoa dân quốc nhiều lần nhấn mạnh tính chính danh của chính phủ hợp pháp trong quá trình tiếp nhận đầu hàng của quân Nhật.

Yếu tố Trung Quốc

thumb|ngày 5 tháng 5 năm 1946 Quốc Dân chính phủ về [[Nam Kinh]] Vào ngày 15 tháng 8 năm 1945, kẻ thù chung của Quốc dân Đảng và Đảng Cộng sản Trung Quốc—Nhật Bản, tuyên bố đầu hàng. Tuy nhiên, những mâu thuẫn lịch sử tích tụ giữa hai đảng và sự khác biệt về định hướng tương lai Trung Quốc càng trở nên rõ rệt.

Trước khi Nhật Bản đầu hàng, lực lượng chính quân đội chính phủ Quốc dân tập trung ở hậu phương. Ở phía bắc sông Dương Tử và phía đông tuyến đường sắt Bình-Hán, gần như không có quân chính quy chính phủ. Ở phía nam sông Dương Tử và phía đông tuyến đường sắt Việt-Hán, chỉ có lực lượng thuộc Chiến khu số ba.

Đến tháng 4 năm 1945, Đảng Cộng sản Trung Quốc và quân đội dưới sự lãnh đạo đã kiểm soát phần lớn các vùng nông thôn ở Hoa Bắc, với tổng dân số tại các căn cứ lên tới khoảng 95,5 triệu người. Đảng Cộng sản Trung Quốc thực hiện cải cách ruộng đất, dần nhận được sự tin tưởng và ủng hộ từ nông dân, từ đó xây dựng một lực lượng quân sự đủ mạnh để đối đầu với chính phủ Quốc dân.

Ngược lại, về mặt xã hội, do tác động chiến tranh và chính sách tiền tệ quá mức từ chính phủ Quốc dân, giá trị đồng pháp tệ (法幣) sụt giảm nghiêm trọng, giá cả hàng hóa tăng vọt, khiến chi phí sinh hoạt người dân tăng mạnh. Tầng lớp sĩ phu, vốn là lực lượng duy trì ổn định xã hội, bị suy tàn. Thêm vào đó, các chính sách thuế khoá nặng nề từ chính phủ Quốc dân tại các vùng nông thôn càng làm gia tăng gánh nặng cho nông dân. Tại một số khu vực, gánh nặng thuế khóa nặng nề đến mức đất đai bị bỏ hoang và người dân phải rời bỏ làng quê.

Theo Hiệp ước Đồng minh Hữu nghị Trung-Xô, chính phủ Quốc dân có quyền pháp lý tiếp quản vùng Đông Bắc. Do đó, khoản mục 5 điều b trong Lệnh ngừng bắn quy định rằng quân đội chính phủ được tự do tiến vào hoặc điều động trong 9 tỉnh thuộc vùng Đông Bắc. Đồng thời, điều khoản thứ 2 lệnh này yêu cầu ngừng mọi hoạt động điều động quân sự tại lãnh thổ Trung Quốc (trừ Đông Bắc).

Tuy nhiên, hành động thực tế Liên Xô tại Đông Bắc đã gây trở ngại cho công tác tiếp quản của chính phủ Quốc dân. Quân đội Liên Xô không chỉ khuyến khích Đảng Cộng sản triển khai lực lượng tại các khu vực trọng yếu mà còn chuyển giao vũ khí và trang bị thu được từ quân Quan Đông Nhật Bản cho Đảng Cộng sản. Đảng Cộng sản cũng cho rằng có quyền tiếp quản Đông Bắc và từ chối tuân thủ các điều khoản này, tiếp tục điều động quân đội từ quan nội (vùng Trung Quốc bên trong Vạn Lý Trường Thành) vào Đông Bắc để tiếp nhận các khu vực do quân Liên Xô rút đi.

Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc chỉ đạo Cục Đông Bắc nhanh chóng thiết lập các tổ chức Đảng, chính quyền và quân đội, đồng thời tiếp quản chính quyền các địa phương với sự hỗ trợ từ quân đội Liên Xô. Quân đội Liên Xô thậm chí còn thúc giục Đảng Cộng sản nhanh chóng tiếp nhận toàn bộ chính quyền Đông Bắc.

Chiến lược và hành động chính phủ Quốc dân

Ngày 14 tháng 8 năm 1945, chính phủ Quốc dân ký kết Hiệp ước Đồng minh Hữu nghị Trung-Xô cùng các thỏa thuận phụ như: Hiệp định về Đại Liên, Hiệp định về cảng Lữ Thuận Khẩu, và Hiệp định về tuyến đường sắt Trường Xuân Trung Quốc. Các hiệp định này đồng thời đi kèm với văn kiện trao đổi về vấn đề độc lập cho Ngoại Mông. Nội dung các hiệp định bao gồm: Tuyên bố Đại Liên là cảng tự do, người đứng đầu cảng do phía Liên Xô bổ nhiệm, một nửa các công trình và thiết bị cảng được cho Liên Xô thuê miễn phí trong 30 năm; Cảng Lữ Thuận Khẩu được Trung Quốc và Liên Xô cùng sử dụng làm căn cứ hải quân, thành lập Ủy ban Quân sự Trung-Xô, trong đó Chủ tịch do phía Liên Xô chỉ định. Liên Xô có quyền đóng quân (lục quân, hải quân, không quân) tại các khu vực được chỉ định; Tuyến đường sắt Đông Bắc (bao gồm tuyến Đông Mãn) từ Mãn Châu Lý đến Tuy Phân Hà và từ Cáp Nhĩ Tân đến Đại Liên, Lữ Thuận được hợp nhất thành tuyến Đường sắt Trường Xuân Trung Quốc (gọi tắt là Trung Trường Lộ), do Trung Quốc và Liên Xô đồng sở hữu và cùng vận hành. Những hiệp định này đã khôi phục lại các quyền lợi mà Đế quốc Nga từng chiếm đoạt tại khu vực đường sắt Trường Xuân và các vùng liên quan, gây tổn hại nghiêm trọng đến chủ quyền và lợi ích Trung Quốc.

Mặt khác, khi Liên Xô đạt được những lợi ích theo "Thỏa thuận bí mật Yalta", Stalin đồng ý hòa giải với các lực lượng ly khai ở Tân Cương. Từ tháng 10 năm 1945, dưới sự làm trung gian của Liên Xô, các cuộc đàm phán giữa chính phủ Quốc dân và các lực lượng ly khai tại Tân Cương diễn ra, cuối cùng đạt được Hiệp định Hòa bình vào ngày 6 tháng 6 năm 1946. Theo đó, "Quân đội dân tộc" được tổ chức lại, đóng quân tại các khu vực đã được xác định; chính quyền tỉnh Tân Cương được tái cơ cấu, bao gồm cả đại diện của "Quân đội dân tộc". Các khu vực Y Lê, Tháp Thành, A Lạp Sơn được quyền tự trị, quân đội trung ương Quốc dân không được tiến vào.

Ban đầu, Liên Xô thúc đẩy đàm phán giữa Quốc dân Đảng và Đảng Cộng sản nhưng lại không muốn Mỹ can thiệp vào Đông Bắc. Trong khi đó, Mỹ yêu cầu Đông Bắc phải thực hiện chính sách mở cửa, đồng thời hỗ trợ trực tiếp quân đội Quốc dân tiếp quản khu vực này.

Để kiềm chế Mỹ, Liên Xô yêu cầu Đảng Cộng sản Trung Quốc từ bỏ các căn cứ ở quan nội (vùng trong Vạn Lý Trường Thành) và tập trung lực lượng vào quan ngoại (Đông Bắc) trong thời gian ngắn nhất, nhằm ngăn cản quân đội Quốc dân và Mỹ tiến vào Đông Bắc. Đảng Cộng sản nhanh chóng huy động hàng chục vạn quân đến Đông Bắc.

Đến cuối tháng 9 năm 1945, quân đội Mỹ bắt đầu đổ bộ lớn vào Hoa Bắc, đồng thời vận chuyển một lượng lớn quân đội Quốc dân đến Đông Bắc bằng đường biển. Trong khi đó, với sự hỗ trợ của quân đội Liên Xô, Đảng Cộng sản phong tỏa các tuyến đường bộ, đường biển và đường không vào Đông Bắc. Tưởng Giới Thạch ra lệnh rút lui khỏi Đông Bắc, đồng thời tuyên bố Liên Xô vi phạm hiệp ước. Sau đó, quân đội Quốc dân tấn công Sơn Hải Quan, bắt đầu tiếp quản bằng vũ lực.

Để đối phó với sức ép ngoại giao, Liên Xô đạt được thỏa thuận mới với chính phủ Quốc dân và kéo dài thời hạn rút quân đến ngày 1 tháng 2 năm 1946. Sau khi quân đội Liên Xô rút đi, chính quyền Quốc dân phục hồi việc tiếp quản Đông Bắc.

Liên Xô kiên quyết coi Đông Bắc là khu vực ảnh hưởng của mình và không cho phép Mỹ can thiệp. Vào cuối năm 1945, Tưởng Giới Thạch cử con trai mình là Tưởng Kinh Quốc đến Moskva. Tưởng Kinh Quốc khẳng định Đông Bắc cần thực hiện chính sách mở cửa, nhưng có thể đồng ý để Liên Xô giữ vai trò chủ đạo trong quan hệ kinh tế. Stalin yêu cầu độc quyền hợp tác kinh tế Trung-Xô tại tất cả các doanh nghiệp quan trọng, nếu không, quân đội Liên Xô sẽ coi các cơ sở đó là chiến lợi phẩm và tự xử lý.

Ngay từ cuối tháng 9 năm 1945, quân đội Liên Xô đã tháo dỡ hàng loạt thiết bị máy móc tại các nhà máy quân sự của Nhật Bản ở Đông Bắc, đồng thời lấy đi gần như toàn bộ tiền mặt, chứng khoán và kim loại quý từ Ngân hàng Đông Bắc. Đàm phán kinh tế giữa Trung Quốc và Liên Xô rơi vào bế tắc. Liên Xô bí mật thông báo với Cục Đông Bắc Đảng Cộng sản Trung Quốc rằng quân đội Liên Xô sẽ rút lui dần và lực lượng vũ trang Đảng Cộng sản cần nhanh chóng tiếp quản.

Khi quân đội Liên Xô bất ngờ rút khỏi Nam Mãn, lực lượng vũ trang Đảng Cộng sản nhanh chóng tiếp quản các khu vực như An Đông, Bản Khê, Liêu Dương, Hải Thành, Phủ Thuận, Thông Hóa, Thông Liêu, Liêu Nguyên và hầu hết các khu công nghiệp ở Nam Mãn.

Tưởng Giới Thạch yêu cầu cử các nhóm đình chiến đến Đông Bắc nhằm ngăn chặn quân Cộng sản tiếp tục tiến vào khu vực Liên Xô đã rút quân. Ngày 15 tháng 12 năm 1945, Tổng thống Truman ra lệnh cho George C. Marshall thúc đẩy thỏa thuận đình chiến giữa Quốc dân Đảng và Đảng Cộng sản Trung Quốc. Ngày 10 tháng 1 năm 1946, hai bên ký "Hiệp định đình chiến Quốc-Cộng".

Tuy nhiên, Tưởng Giới Thạch sau này, khi tổng kết bài học thất bại tại đại lục, đã thừa nhận rằng khi đó ông đã "tin tưởng vào sự điều đình của Marshall, điều động những lực lượng tinh nhuệ nhất của Quốc quân tới Đông Bắc, dẫn đến việc đại lục trở nên trống rỗng, các chiến trường đều cảm thấy thiếu quân lực". Lực lượng 400-500 nghìn quân Quốc dân được điều đến Đông Bắc tiêu tốn một lượng lớn tài nguyên hậu cần. Khi các thành phố như Trường Xuân bị bao vây, việc cứu viện phải phụ thuộc vào không vận. Đến năm 1948, 1/3 ngân sách quốc gia đã được dành cho khu vực Đông Bắc.

Do Tưởng Giới Thạch tập trung bảo vệ Đông Bắc bằng quân đội chủ lực, trong khi Đảng Cộng sản từ năm 1947 bắt đầu tấn công trên nhiều mặt trận ở quan nội, Quốc quân không đủ lực lượng để đối phó. Tuy nhiên, là Tổng Tư lệnh tối cao Chiến khu Trung Quốc, Tưởng Giới Thạch không thể không cử quân đội tới tiếp quản Đông Bắc, nơi đã bị chiếm đóng suốt 14 năm.

Mặc dù nhận thức rõ tầm quan trọng quân sự, Tưởng Giới Thạch trong bối cảnh chiến tranh vẫn đặt Quốc dân Đại hội lên hàng đầu. Học giả Cao Hoa cho rằng Tưởng bị ảnh hưởng bởi Phùng Hữu Lan, nên sau năm 1945, ông bắt đầu bộc lộ mong muốn thực hiện dân chủ hiến chính.

Mao Trạch Đông, thông qua các cuộc đối thoại và tiếp xúc gần gũi với Tưởng ở Trùng Khánh, đã nhận thấy Tưởng là người "không đủ dũng khí để độc tài, nhưng cũng không quyết đoán trong việc thực hiện dân chủ". Vào mùa thu năm 1945, Mao nói với Hồ Kiều Mộc rằng Quốc dân Đảng "không đủ kiên quyết để thực hiện chế độ độc tài, giống như bụi có thể dễ dàng bị thổi bay". Sau khi trở về Diên An từ Trùng Khánh, Mao nhận định: "Tưởng Giới Thạch hung hăng nhưng lại sợ hãi, không có trọng tâm - không rõ là theo dân chủ, độc tài, hòa bình hay chiến tranh. Gần đây, ông ta dường như không có một đường lối rõ ràng. Còn chúng ta thì có đường lối rõ ràng nhưng hành động rất thận trọng, chưa vội lật đổ chế độ độc đảng của ông ta".

Trước thềm ký kết Hiệp định Song Thập, một tâm phúc của Tưởng, đồng thời là chủ bút tờ Trung Ương Nhật Báo, Đào Hi Thánh, từng tuyên bố: "Chúng tôi biết rõ rằng Đảng Cộng sản sẽ không đến Trùng Khánh để đàm phán, nhưng chúng tôi cần phải diễn vở kịch này để tạo ra bầu không khí!". Ông còn nhấn mạnh: "Nếu các anh muốn hòa đàm, tôi sẽ đàm; nếu không thành, cũng không sao cả, vì đây chỉ là một ván cờ chính trị".

Một trong những nguyên nhân thất bại Quốc dân Đảng là chính sách từ chối thu nạp lực lượng bù nhìn (ngụy quân) từng phục vụ cho Nhật. Tổng Tham mưu trưởng Trần Thành từng cho rằng việc thu nhận lực lượng này sẽ "làm loạn huyết thống Quốc quân, tuyệt đối không được thực hiện". Ở Đông Bắc, Tưởng Giới Thạch đã giải tán 300 nghìn ngụy quân từng phục vụ cho Nhật Bản và phóng thích họ, dẫn đến việc phần lớn lực lượng này gia nhập Đảng Cộng sản, bổ sung cho quân đội đối phương.

Trong khi đó, Đảng Cộng sản áp dụng chính sách linh hoạt hơn đối với ngụy quân. Theo nguyên tắc "chính sách và chiến thuật", Đảng Cộng sản coi ngụy quân là lực lượng tiềm năng để tranh thủ và tích cực thu nạp. Mao Trạch Đông từng nói trong một cuộc họp rằng: "Nhiều người trong ngụy quân bị ép buộc làm việc cho kẻ thù, không phải thực sự phản bội. Nếu tranh thủ và cải tạo tốt, họ có thể trở thành lực lượng của chúng ta".

Việc áp dụng chính sách này đã giúp Đảng Cộng sản chuyển hóa một phần ngụy quân thành lực lượng chiến đấu, góp phần quan trọng vào các thắng lợi quân sự trong nội chiến.

Chiến lược và hành động của cả hai bên

Tháng 1 năm 1946, sau khi Quốc dân Đảng và Đảng Cộng sản đạt được Hiệp định Song Thập thông qua đàm phán tại Trùng Khánh, xã hội kỳ vọng vào hòa bình. Tuy nhiên, quá trình đàm phán nhanh chóng rơi vào bế tắc, mâu thuẫn giữa hai bên ngày càng sâu sắc, và thường xuyên xảy ra va chạm quân sự. Quốc dân Đảng dần phá vỡ Hiệp định Song Thập, sử dụng các biện pháp chính trị để cô lập Đảng Cộng sản và điều động quân đội tấn công các khu vực giải phóng. Kết quả, đàm phán hòa bình hoàn toàn sụp đổ.

Tháng 6 năm 1946, Tưởng Giới Thạch ra lệnh Quốc dân quân tổng tấn công khu vực giải phóng Trung Nguyên, với ý đồ nhanh chóng tiêu diệt lực lượng quân sự của Đảng Cộng sản. Cuộc tấn công này đánh dấu sự bùng nổ hoàn toàn của nội chiến Quốc-Cộng, chấm dứt mọi cơ hội hòa đàm. Từ tháng 7 năm 1946, khi Quốc-Cộng khai chiến tại khu vực Tô Bắc, đến tháng 10 năm 1946 khi Quốc dân quân chiếm được Trương Gia Khẩu, hai bên vẫn duy trì tình trạng vừa đánh vừa đàm. Trong thời gian này, Marshall tám lần đến Lư Sơn để hỗ trợ đàm phán giữa Tưởng Giới Thạch và Chu Ân Lai, chuyển chỉ thị từ Hoa Kỳ cho phía Đảng Cộng sản. Chính phủ Quốc dân hy vọng Mỹ can thiệp để đạt được mục tiêu "quân sự tiếp quản Hoa Bắc, ngoại giao tiếp quản Đông Bắc". Tuy nhiên, chính quyền Truman, mong muốn giải quyết xung đột thông qua hòa bình, đã không đồng ý với Tưởng, khiến kỳ vọng của Chính phủ Quốc dân bị phá vỡ.

Tháng 10 năm 1946, Chu Ân Lai từ chối đề xuất ngừng bắn tại Trương Gia Khẩu của Marshall. Quốc dân quân tiếp tục tiến công vào Trương Gia Khẩu, trong khi Đảng Cộng sản tập trung lực lượng chuẩn bị bao vây. Tuy nhiên, quân đội của Phó Tác Nghĩa, nhờ sự cơ động bởi lực lượng kỵ binh, đã chiếm được Trương Gia Khẩu vào ngày 11 tháng 10 năm 1946. Cùng ngày, Tưởng Giới Thạch, không muốn kéo dài thời gian tổ chức Quốc dân Đại hội để soạn thảo hiến pháp, tuyên bố lệnh ngừng bắn lần thứ ba và đơn phương ra lệnh Quốc dân quân đình chiến. Ngày 17 tháng 10, Tưởng đưa ra tuyên bố về vấn đề Đảng Cộng sản, và tuyên bố này được Marshall chuyển cho phía Đảng Cộng sản. Tuyên bố gồm tám điều khoản, phần lớn là các nội dung mà Đảng Cộng sản đã đồng ý hoặc từng yêu cầu. Đảng Cộng sản nhận thấy chính sách của Mỹ có lợi, nên đồng ý tiếp tục đàm phán với Tưởng.

Đến ngày 10 tháng 11 năm 1946, chỉ còn hai ngày trước khi Quốc dân Đại hội được triệu tập, các đại diện Quốc dân Đảng, Đảng Cộng sản và các đảng phái khác vẫn tiếp tục đàm phán trong một cuộc họp không chính thức. Tuy nhiên, hai bên không đạt được thỏa thuận. Đảng Cộng sản không hài lòng với điều kiện về số lượng đại biểu mà Quốc dân Đảng đưa ra, nên kiên quyết yêu cầu hoãn kỳ họp. Vương Thế Kiệt (đại diện Quốc dân Đảng) cho biết nếu Đảng Cộng sản đưa ra danh sách đại biểu ngay lập tức, chính phủ có thể xem xét hoãn vài ngày. Tuy nhiên, Chu Ân Lai từ chối công bố danh sách trước, khiến hai bên không đạt được thống nhất. Đảng Cộng sản quyết định rút lui.

Trong bối cảnh Đảng Cộng sản và một số đảng phái khác vắng mặt, để củng cố tính hợp pháp cho chế độ của mình và tránh bị mang tiếng là "một đảng chế hiến", Tưởng đã lôi kéo Đảng Thanh niên Trung Quốc và Đảng Xã hội Dân chủ tham gia Quốc dân Đại hội. Ngày 11 tháng 11, các đại biểu từ Đảng Thanh niên, Đảng Xã hội Dân chủ, và một số nhân sĩ độc lập đã đệ trình danh sách đại biểu Quốc dân Đại hội. Cuối cùng, bất chấp sự phản đối từ Đảng Cộng sản, Quốc dân Đại hội vẫn được tổ chức trong tình trạng thiếu đại diện từ nhiều đảng phái quan trọng.

Vào thời điểm đó, Mao Trạch Đông đã đến Trùng Khánh để đàm phán, công khai tuyên bố rằng mục đích chuyến đi là chứng minh với thế giới bên ngoài rằng Đảng Cộng sản Trung Quốc sẵn sàng đối thoại trực tiếp với Tưởng Giới Thạch và thể hiện mong muốn đấu tranh vì hòa bình. Đồng thời, Mao hy vọng nhân cơ hội này để vạch trần sự giả dối của Tưởng, người mượn danh nghĩa hòa đàm nhưng thực chất đang chuẩn bị cho nội chiến. Mao cho rằng sau khi Nhật Bản đầu hàng, danh tiếng xã hội của Tưởng Giới Thạch thực sự có phần hư ảo. Do hiệu ứng tuyên truyền về vai trò của Tưởng trong kháng chiến, nhiều người khó chấp nhận rằng những hành động thực tế của ông trong kháng chiến hoàn toàn không được như mô tả. Vì vậy, thông qua đàm phán, cần làm rõ ý đồ thực sự của Tưởng. Tuy nhiên, lúc bấy giờ Lưu Thiếu Kỳ đã đưa ra quan điểm về một "giai đoạn mới hòa bình và dân chủ," cho rằng cả hòa bình và dân chủ đều có thể đạt được. Ông trình bày quan điểm này trong một báo cáo tại trường Đảng vào tháng 9 năm 1945, và sau đó chính thức công bố vào ngày 1 tháng 2 năm 1946.

Sau khi Hội nghị Chính trị Hiệp thương cũ (Chính hiệp) kết thúc, Mao Trạch Đông đã chỉ thị cho các lãnh đạo ở Diên An. Ông nhấn mạnh rằng mục đích thực sự các cuộc đàm phán hòa bình là để tranh thủ thời gian nhằm tích lũy lực lượng, huấn luyện quân đội, đẩy mạnh sản xuất, thực hiện cải cách ruộng đất và chuẩn bị cho cuộc chiến trong tương lai. Mao cũng chỉ đạo rằng có thể ký vào Nghị quyết Chính hiệp để bề ngoài công nhận nội dung của nó là hợp lý, nhưng trọng tâm chiến lược thực sự của Đảng Cộng sản vẫn là chuẩn bị chiến tranh, nhằm đối phó với khả năng Quốc dân Đảng tấn công bất ngờ.

Ngoài ra, cũng có quan điểm cho rằng Đảng Cộng sản sử dụng danh nghĩa hòa bình như một cái cớ, thực chất hy vọng kích động nội chiến, và "tích lũy lực lượng" là để giành chính quyền. Ngày 21 tháng 11 năm 1946, Mao Trạch Đông đã nói với Chu Ân Lai và Lưu Thiếu Kỳ tại Tảo Viên, Diên An rằng: "Trong nhân dân Trung Quốc và ngay trong nội bộ Đảng chúng ta đều có câu hỏi liệu có đánh hay không. Nhưng câu hỏi này giờ đã được giải quyết, chỉ còn lại câu hỏi liệu có thể thắng hay không".

Trong thời kỳ Cách mạng Văn hóa, Chu Ân Lai đã chỉ trích Lưu Thiếu Kỳ - lúc đó là Chủ tịch nước - vì "cơ hội chủ nghĩa hữu khuynh", nói rằng trong các cuộc đàm phán Quốc-Cộng sau kháng chiến, uy tín của Tưởng như mặt trời giữa trưa, khiến mọi người đều tin tưởng vào triển vọng hòa bình. Nhưng Mao Trạch Đông lại cho rằng uy tín của Tưởng là "giả tạo", và ông đến đàm phán không phải để đạt được thỏa thuận, mà để làm cho các cuộc đàm phán thất bại, nhằm tố cáo Tưởng "giả hòa đàm, thực nội chiến". Tuy nhiên, Lưu Thiếu Kỳ lại tin tưởng và báo cáo rằng hòa bình là điều có thể. Chu Ân Lai giải thích rằng việc Đảng Cộng sản tham gia Hội nghị Chính hiệp từ năm 1945 đến năm 1946 thực chất chỉ là "giả vờ đàm phán", thực chất là một chiến thuật câu giờ.

Tưởng Giới Thạch sau này, trong tác phẩm "Liên Xô ở Trung Quốc" (1956), đã lên án mạnh mẽ: "Mọi người thường nghĩ rằng hòa đàm là con đường chuyển từ chiến tranh sang hòa bình. Bất cứ khi nào Liên Xô hoặc Đảng Cộng sản Trung Quốc yêu cầu 'hòa đàm', những người trong thế giới tự do lập tức tin rằng họ không còn ý định gây chiến tranh xâm lược nữa, mà thực sự muốn hòa bình. Nhưng trên thực tế, 'hòa đàm' của cộng sản không phải là con đường dẫn đến hòa bình, mà là một phương thức chiến tranh khác".

Yếu tố Quốc tế

Hoa Kỳ viện trợ cho Quốc dân

Sau khi Nhật Bản đầu hàng, quân đội Hoa Kỳ ngừng các hoạt động quân sự tại Trung Quốc. Tuy nhiên, theo Đạo luật Cho vay-Thuê mượn, Hoa Kỳ tiếp tục hỗ trợ Trung Hoa Dân Quốc thực hiện nhiệm vụ quản lý lực lượng Nhật Bản tại Trung Quốc. Vào tháng 9 năm 1945, Tư lệnh quân đội Hoa Kỳ tại Trung Quốc, Tướng Albert C. Wedemeyer, đã ra lệnh chuyển giao kho quân nhu trị giá 45 triệu USD của Hoa Kỳ cho Trung Hoa Dân Quốc. Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ cũng bàn giao 70 máy bay vận tải C-47 và một số máy bay còn sử dụng được cho chính phủ Trung Hoa Dân Quốc.

Trong thời gian Marshall làm trung gian hòa giải, viện trợ quân sự của Hoa Kỳ cho Trung Hoa Dân Quốc bao gồm hai hình thức chính: tặng và cho vay, cũng như việc thành lập các đoàn cố vấn quân sự. Theo báo cáo từ Ủy ban Đối ngoại Thượng viện Hoa Kỳ, sau khi Thế chiến II kết thúc, Hoa Kỳ đã cung cấp cho Quốc dân Đảng một lượng lớn quân nhu đa dạng, bao gồm: Vũ khí hạng nhẹ, bom, máy bay, xe tăng, ô tô, tàu chiến, tàu vận tải; Các thiết bị y tế, quân trang và các nhu yếu phẩm khác. Tính đến ngày 21 tháng 3 năm 1949, tổng giá trị viện trợ quân nhu (bao gồm tặng và cho vay) đạt khoảng 998,7 triệu USD, trong đó: 797,7 triệu USD là viện trợ không hoàn lại; 201 triệu USD là cho vay. Thực tế, giá trị thực tế những vật tư quân sự này vượt xa con số được ghi nhận. Ngoài ra, còn có một khoản viện trợ thông qua việc bán lại số quân nhu dư thừa, trị giá khoảng 102 triệu USD, cùng với số hàng hóa trị giá 6,7 triệu USD và 5.600 tấn đạn dược.

Bên cạnh đó, theo Hiệp định Tổ chức Hợp tác Trung-Mỹ (), Hoa Kỳ đã cung cấp cho Quốc dân Đảng số quân nhu trị giá khoảng 17.7 triệu USD, được vận chuyển từ ngày 2 tháng 9 năm 1945 đến ngày 2 tháng 3 năm 1946. Mặc dù số vật tư này đã được chuyển giao trước khi Marshall đến Trung Quốc, khoản viện trợ này không nằm trong danh sách các khoản tặng trước đó. Thêm vào đó, khi quân đội Mỹ rút khỏi khu vực Tây Nam Trung Quốc, họ đã bán lại số quân nhu từng sử dụng trong chiến dịch Miến Điện, bao gồm cả vũ khí chiến đấu, cho Trung Hoa Dân Quốc với giá khoảng 25 triệu USD, trong đó: 20 triệu USD được ghi nhận là cho vay; 5 triệu USD được thanh toán trả góp. Khoản viện trợ này ban đầu được liệt kê trong tài khoản "Bán tài sản dư thừa" của quân đội Mỹ vào ngày 30 tháng 8 năm 1946, nhưng sau đó được miễn hoàn trả như một hành động thiện chí của Hoa Kỳ đối với Trung Hoa Dân Quốc.

Ngày 16 tháng 7 năm 1946, Bộ Hải quân Hoa Kỳ cử đoàn cố vấn hải quân đến hỗ trợ Quốc dân Đảng, đồng thời bàn giao 271 tàu chiến, bao gồm tàu hộ vệ khu trục, tàu đổ bộ, tàu vận tải và tàu tuần tra ven biển. Một đạo luật công khai cho phép Tổng thống Hoa Kỳ thành lập Phái bộ Hải quân Hoa Kỳ tại Trung Quốc, với tối đa 100 sĩ quan và 200 binh sĩ.

Ngày 8 tháng 12 năm 1947, Bộ trưởng Ngoại giao Trung Hoa Dân Quốc và Đại sứ Hoa Kỳ tại Trung Quốc, Leighton Stuart, đã ký một thỏa thuận, theo đó Hoa Kỳ chuyển giao 140 tàu chiến cho Trung Hoa Dân Quốc. Hoa Kỳ cũng hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng hải quân, bao gồm việc thành lập các hạm đội, tổ chức, căn cứ, cảng và trường đào tạo. Đồng thời, phía Trung Hoa Dân Quốc cung cấp thông tin tình báo hải quân cho Hoa Kỳ.

Tháng 10 năm 1945, Bộ Lục quân Hoa Kỳ yêu cầu Tư lệnh Quân đội Mỹ tại Trung Quốc, Tướng Wedemeyer, chuẩn bị thành lập một đoàn cố vấn lục quân. Đến tháng 2 năm 1946, Wedemeyer thiết lập Bộ Tư lệnh Chiến trường Trung Quốc tại Nam Kinh, bao gồm nhân sự từ lực lượng lục quân, không quân và hậu cần. Ngày 28 tháng 10 năm 1946, Bộ Tư lệnh Chiến trường Trung Quốc được đổi tên thành Đoàn Cố vấn Lục quân Hoa Kỳ.

Từ cuối năm 1945 đến đầu năm 1947, George Marshall đã đóng vai trò trung gian hòa giải giữa chính phủ Trung Hoa Dân Quốc và Đảng Cộng sản Trung Quốc. Theo nhận định của Quan Trung, cựu Phó Chủ tịch Quốc dân Đảng, Marshall có thái độ "thiên vị cộng sản" rõ ràng trong các cuộc đàm phán. Một số học giả cho rằng Marshall đã ép Tưởng Giới Thạch ban hành lệnh ngừng bắn vào tháng 6 năm 1946, ngay sau khi Quốc quân chiến thắng trong trận Tứ Bình, khiến Quốc quân không thể tiếp tục tấn công. Quyết định này sau đó bị chỉ trích mạnh mẽ bởi Thượng nghị sĩ McCarthy.

Từ mùa hè năm 1946 đến tháng 2 hoặc tháng 3 năm 1948, Mỹ không chuyển bất kỳ lô vũ khí nào đến Trung Hoa Dân Quốc nhằm gây sức ép buộc chính phủ Quốc dân cho phép Đảng Cộng sản tham gia chính quyền. Sau khi Marshall thất bại trong nỗ lực hòa giải vào tháng 1 năm 1947 và trở về Mỹ, ông được bổ nhiệm làm Ngoại trưởng nhưng giữ thái độ tiêu cực đối với các vấn đề liên quan đến Trung Quốc. Van Slyke, Giám đốc Cục Viễn Đông Bộ Ngoại giao Mỹ, cho rằng chính sách "chờ và quan sát" với Trung Quốc sẽ giúp Mỹ tránh được căng thẳng với Liên Xô. Mỹ tập trung vào chính sách "ưu tiên châu Âu hơn châu Á", chuyển phần lớn viện trợ cho Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ nhằm ngăn chặn sự mở rộng Liên Xô ở châu Âu và Trung Đông. Năm 1951, ngày 9 tháng 6, sau khi bị bãi nhiệm, Tướng Douglas MacArthur, Tổng tư lệnh quân đội Liên Hợp Quốc trong Chiến tranh Triều Tiên, phát biểu: "Việc Marshall đến Trung Quốc là một trong những sai lầm lớn nhất trong lịch sử ngoại giao Mỹ. Từ đó, thế giới tự do phải trả giá bằng máu và thảm họa".

Ngày 3 tháng 7 năm 1947, Bộ trưởng Ngoại giao Trung Hoa Dân Quốc Vương Thế Kiệt và Đại sứ Mỹ tại Trung Quốc Stuart ký kết Hiệp định Hỗ trợ Kinh tế giữa Trung Hoa Dân Quốc và Mỹ (gọi tắt là "Hiệp định Viện trợ Kinh tế Trung-Mỹ") tại Nam Kinh. Cùng năm đó, Viện Hành chính Trung Hoa Dân Quốc thành lập Ủy ban Sử dụng Viện trợ Mỹ, trong khi Mỹ mở Phân bộ Hợp tác Kinh tế tại Trung Quốc () tại Thượng Hải.

Mùa thu năm 1947, Bộ Ngoại giao Mỹ chính thức bãi bỏ lệnh cấm các cố vấn Mỹ tham gia huấn luyện tại các trung tâm huấn luyện Quốc quân Trung Hoa Dân Quốc. Đến tháng 12 năm 1947, Mỹ đã giúp thiết lập hơn 20 trung tâm huấn luyện tân binh. Cuối năm 1948 và đầu năm 1949, Mỹ đào tạo bốn sư đoàn cho chính phủ Quốc dân tại Đài Loan và một sư đoàn tại Quảng Châu. Đoàn cố vấn còn hỗ trợ xây dựng Bộ Tư lệnh Lục quân Quốc dân, thiết lập hệ thống trường học quân đội và các trung tâm huấn luyện. Những cải tiến lớn được thực hiện tại các trường và lớp huấn luyện ở Thành Đô, Hán Khẩu, Đài Loan, Nam Kinh, và Quảng Châu.

Ngày 30 tháng 12 năm 1948, Văn phòng Ủy ban Sử dụng Viện trợ Mỹ tại Đài Loan được thành lập. Sau khi chính phủ Trung Hoa Dân Quốc di dời đến Đài Loan vào năm 1949, Ủy ban này cũng được chuyển đến đây, do Trần Thành giữ chức Chủ nhiệm Ủy ban. Cùng năm, Mỹ tuyên bố dừng viện trợ cho Trung Hoa Dân Quốc. Kế hoạch viện trợ được thực hiện với sự tham gia của công ty cố vấn Mỹ J. G. White Engineering Co., do phía Trung Hoa Dân Quốc và Mỹ cùng thuê để kiểm tra và giám sát. Công ty này cử giám đốc V.S. De Beausset đến Đài Loan vào năm 1949 làm người phụ trách.

Theo Bộ Ngoại giao Mỹ, từ năm 1937 đến 1949, tổng số tiền viện trợ của Mỹ cho Trung Hoa Dân Quốc đạt 3,523 tỷ USD. Trong đó, 2,007 tỷ USD được cung cấp trong thời kỳ nội chiến Quốc-Cộng (chiếm 60%), vượt xa mức viện trợ 1,515 tỷ USD trong thời kỳ kháng chiến chống Nhật (chiếm 40%). Học giả Anh Ernest Ettley nhận xét rằng từ khi Nhật Bản đầu hàng đến cuối tháng 2 năm 1946, Mỹ viện trợ khoảng 600 triệu USD, phần lớn là chi phí vận chuyển, bao gồm chi phí hồi hương hàng triệu binh sĩ Nhật tại Trung Quốc và vận chuyển quân đội Trung Hoa Dân Quốc đến các khu vực tiếp quản. Những khoản chi phí này nên được coi là chi tiêu cho Chiến tranh Thế giới thứ hai.

Tổng thống Harry Truman từ mùa hè năm 1946 đã cấm Trung Hoa Dân Quốc mua các loại vũ khí và đạn dược có thể được sử dụng để chống lại Đảng Cộng sản. Sau đó, Mỹ chỉ bán các mặt hàng quân sự trị giá 100 triệu USD cho chính phủ Trung Hoa Dân Quốc, nhưng chủ yếu là các vật phẩm không phục vụ chiến đấu. Lệnh cấm vận này được dỡ bỏ vào tháng 7 năm 1947. Tuy nhiên, từ tháng 12 năm 1947 đến tháng 11 năm 1948, lượng đạn dược mà Mỹ bán cho Trung Hoa Dân Quốc chỉ đủ dùng trong vòng một tháng. Nhìn chung, hầu hết viện trợ quân sự của Hoa Kỳ đều đến quá muộn. Tháng 4 năm 1948, Đạo luật Viện trợ Trung Quốc được thông qua, cung cấp khoản viện trợ trị giá 458 triệu USD, nhưng chỉ 125 triệu USD được chỉ định cho quân sự. Trong số đó, lục quân được nhận 87,5 triệu USD, không quân nhận 28 triệu USD, và hải quân nhận 9,5 triệu USD. Tuy nhiên, việc chuyển giao các khoản viện trợ này bị trì hoãn gần một năm, đến khi đó Đảng Cộng sản Trung Quốc đã chiếm phần lớn lãnh thổ Trung Quốc. Hơn nữa, viện trợ của Mỹ không phải là viện trợ không hoàn lại mà kèm theo chi phí cao, khiến Trung Hoa Dân Quốc phải trả một cái giá lớn.

Chính phủ Liên Xô cản trở

Liên Xô cử Tư lệnh Phương diện quân Ngoại Baikal ở Viễn Đông là Rodion Malinovsky, đã chỉ huy hàng trăm nghìn Hồng quân tiến vào Đông Bắc Trung Quốc và Ngoại Mông. Quân Nhật không có bất kỳ sự kháng cự nào. Ngày 21 tháng 8 năm 1945, đạo quân Quan Đông của Nhật tại Cáp Nhĩ Tân đầu hàng Hồng quân Liên Xô, hơn 594.000 người đã bị bắt làm tù binh. Hồng quân chia làm ba hướng tiến vào Mãn Châu và Ngoại Mông: cánh phải tiến về Trương Gia Khẩu, cánh trung tâm đến Thừa Đức và Bình Tuyền, cánh trái dọc theo tuyến đường sắt Trung Đông tiến xuống Trường Xuân, Thẩm Dương, một nhánh đến Lữ Thuận, và một nhánh khác đến Sơn Hải Quan.

Ngày 1 tháng 10, Đại sứ Liên Xô tại Trùng Khánh, Apollon Petrov gặp Thủ tướng Tống Tử Văn và thông báo rằng: "Quân đội Liên Xô đã bắt đầu rút quân, phần lớn sẽ rút vào cuối tháng 10, và hoàn toàn rút khỏi Đông Bắc Trung Quốc vào cuối tháng 11. Chính phủ Liên Xô đã ủy quyền cho Nguyên soái Malinovsky đàm phán với Bộ Tư lệnh Quốc dân đảng về các vấn đề quân sự và chính trị ở Đông Bắc, dự kiến diễn ra tại Trường Xuân từ ngày 10 đến ngày 15 tháng 10".

Ngày 12 tháng 10, Chủ nhiệm Đông Bắc Hành doanh Hùng Thức Huy cùng Đặc phái viên Ngoại giao Tưởng Kinh Quốc và Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Trương Gia Áo đến Trường Xuân. Tưởng Kinh Quốc đã gửi thư báo cáo với Tưởng Giới Thạch về tình hình khi đến Trường Xuân như sau: "Chủ nhiệm Hùng cùng con đã an toàn đến Trường Xuân vào lúc 3 giờ chiều nay (ngày 12), quân đội Liên Xô đã cử đại diện đón tiếp tại sân bay. Ngày mai sẽ chính thức hội đàm với Malinovsky, dự kiến phía chúng ta sẽ đề xuất 4 vấn đề: rút quân, khôi phục giao thông, tiếp nhận hành chính, và cho phép đổ bộ tại Đại Liên. Hệ thống hành chính ở Đông Bắc vẫn còn nguyên vẹn, con cho rằng chúng ta cần hoàn tất việc tiếp nhận trước khi quân đội Liên Xô rút lui. Liên Xô gần đây công khai bày tỏ sự bất mãn với các hoạt động của Quốc dân Đảng. Lực lượng Cộng sản Trung Quốc tại Đông Bắc chưa có ảnh hưởng đáng kể, nhưng Hồng quân Liên Xô đang ngấm ngầm ủng hộ họ. Đông Bắc vừa trải qua một mùa màng bội thu, tình hình các địa phương tương đối ổn định, lòng dân hướng về chính quyền trung ương và có tinh thần yêu nước cao hơn so với vùng Quan Nội".

Ngày 13 tháng 10, Tưởng Kinh Quốc gửi thư báo cáo với Tưởng Giới Thạch rằng: "Phía Liên Xô không muốn quân đội ta đổ bộ bằng đường biển. Họ nhấn mạnh đến các tổ chức bí mật chống Liên Xô, điều này hẳn có ý đồ và tác động khác. Tránh thảo luận các vấn đề kinh tế". Đến đêm ngày 21 tháng 10, Đài phát thanh Trường Xuân của Liên Xô phát sóng phản đối việc quân đội Mỹ đổ bộ tại Hoa Bắc. Đến ngày 26 tháng 10, quân đội Liên Xô tiến hành diễn tập quân sự quy mô lớn ở ngoại ô Trường Xuân, hạn chế các hoạt động Hành doanh Đông Bắc, đóng cửa trụ sở Quốc dân đảng tại Trường Xuân, và bổ nhiệm đảng viên Đảng Cộng sản Trung Quốc Trương Khánh Hòa làm Cục trưởng Cảnh sát Trường Xuân, nhằm ngăn cản Quốc dân đảng tiếp quản khu vực này.

Vào tháng 11, Quân đội Quốc dân Trung Quốc bao gồm Quân đoàn 13 và Quân đoàn 52 đã đổ bộ vào Tần Hoàng Đảo và tiến đến khu vực gần Sơn Hải Quan. Tuy nhiên, họ gặp phải sự cản trở. Khi chính phủ Trung Quốc thương lượng với Nguyên soái Malinovsky của Liên Xô, đề nghị được đổ bộ tại Dinh Khẩu và Hồ Lô Đảo, Malinovsky tuyên bố rằng quân đội Liên Xô đã rút khỏi các khu vực này, nhưng quân Tập đoàn quân 18 (Đảng Cộng sản Trung Quốc) đã chiếm đóng, và Liên Xô không chịu trách nhiệm hay can thiệp vào vấn đề này.

Ngày 6 tháng 11, Tưởng Kinh Quốc phân tích lý do khiến thái độ Liên Xô thay đổi đột ngột. Ông cho rằng điều này liên quan đến mối quan hệ Mỹ-Xô và xung đột Quốc-Cộng. Liên Xô lo ngại rằng sau khi quân đội Trung Quốc tiến vào Đông Bắc, họ có thể hỗ trợ các lợi ích của Mỹ tại khu vực này. Thậm chí trong tương lai, trong trường hợp xảy ra chiến tranh, quân đội Trung Quốc có khả năng bị Mỹ lợi dụng. Vì vậy, Liên Xô không muốn quân đội Quốc quân tiến vào Đông Bắc. Tuy nhiên, theo các hiệp ước quốc tế, Liên Xô buộc phải rút quân và không thể ngăn cản Quốc quân tiến vào Đông Bắc, nên họ quyết định tạo ra tình trạng hỗn loạn, khiến chính quyền trung ương Trung Quốc không thể tiếp quản Đông Bắc ngay lập tức.

Trong nhật ký ngày 7 tháng 11, Tưởng Giới Thạch viết: "Âm mưu của Nga thật độc ác! Họ đã nắm chặt cổ họng của chúng ta, không cho chúng ta chút không gian để thở... Mọi lời hứa đều bị phản bội, từ Đại Liên, đến Hồ Lô Đảo, và cuối cùng là Dinh Khẩu. Ban đầu đồng ý, sau đó lại nuốt lời... Giờ đây, khi không thể đổ bộ vào các cảng biển ở Đông Bắc, chúng ta chỉ còn cách tiến vào bằng đường bộ qua Sơn Hải Quan. Từ nay, đối với Đông Bắc, chỉ có thể coi như 'cứu ngựa chết như cứu ngựa sống' (ý nói làm mọi cách trong tình huống tuyệt vọng). Chúng ta phải trước tiên khôi phục quan nội (khu vực Trung Quốc bên trong Vạn Lý Trường Thành) và Nội Mông, sau đó mới tính đến Đông Bắc".

Học giả Nhạc Vị Nhân và các nhà nghiên cứu khác cho rằng: Liên Xô đã tham chiến đúng thời điểm, chiếm đóng Đông Bắc, cho phép Đảng Cộng sản Trung Quốc kiểm soát phần lớn khu vực nông thôn, ngăn cản chính phủ Quốc dân tái tiếp quản Đông Bắc. Liên Xô còn chuyển giao một lượng lớn trang bị của quân Nhật Bản cho quân đội Đảng Cộng sản, khiến Tưởng Giới Thạch cuối cùng phải đối mặt với thất bại quân sự trong cuộc nội chiến.

Liên Xô ủng hộ Đảng Cộng sản Trung Quốc

Tại Đông Bắc, Liên Xô đã tiếp nhận vũ khí và trang bị từ tay đạo quân Quan Đông của Nhật Bản và chuyển giao cho Đảng Cộng sản Trung Quốc. Nhà sử học Trương Ngọc Pháp cho rằng vào năm 1947, khi tình hình chiến sự bất lợi, Đảng Cộng sản Trung Quốc đã yêu cầu Liên Xô viện trợ. Trương Ngọc Pháp nhận định rằng cuộc xung đột giữa Quốc dân đảng và Đảng Cộng sản là một cuộc chiến tranh quốc tế, trong đó Liên Xô liên tục cung cấp hỗ trợ quân sự và ngoại giao cho Đảng Cộng sản Trung Quốc; trong khi đó, Hoa Kỳ, nhằm buộc Chính phủ Quốc dân thay đổi hình thức chính quyền, đã viện trợ ít và bị chỉ trích nhiều. Điều này khiến thực lực và uy tín Quốc dân đảng ngày càng suy giảm, không chỉ mất khả năng đối đầu quân sự với Đảng Cộng sản mà còn mất cả điều kiện để đàm phán hòa bình. Sự phát triển Đảng Cộng sản Trung Quốc ngay từ đầu đã nhận được sự hỗ trợ từ Liên Xô. Với sự đồng tình từ Hoa Kỳ và sự hỗ trợ thực chất từ Liên Xô, sức mạnh Đảng Cộng sản Trung Quốc ngày càng gia tăng. Tuy nhiên, cũng có học giả Mỹ cho rằng, Hồng quân Liên Xô một mặt cho phép Bát Lộ Quân tiếp quản các vùng nông thôn, nhưng mặt khác lại để các quan chức Tưởng Giới Thạch tiếp quản tất cả các thành phố ở Mãn Châu và bảo vệ họ trong vài tháng.

Ngày 6 tháng 2 năm 1949, Mao Trạch Đông nói với Ủy viên Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Liên Xô Anastas Mikoyan: "Cho đến nay, tất cả vũ khí mà chúng tôi nhận được đều là viện trợ không hoàn lại. Chúng tôi hiểu rằng trong sản xuất vũ khí của Liên Xô có sự lao động có trả công của công nhân Liên Xô". Mao Trạch Đông cũng đề xuất rằng Đảng Cộng sản Trung Quốc cần một khoản vay 300 triệu đô la Mỹ, 3.000 xe tải, cùng các loại vật tư cần thiết, máy móc, sản phẩm dầu mỏ và bạc để đúc tiền.

Cải cách ruộng đất

Ngày 10 tháng 10 năm 1947, Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc công bố "Đại cương Luật Đất đai Trung Quốc"; Tổng bộ Quân Giải phóng kêu gọi lật đổ Tưởng Giới Thạch. Tuy nhiên, chính sách cải cách ruộng đất đã dẫn đến tình trạng hỗn loạn ở nhiều nơi: "Không chỉ địa chủ và phú nông bỏ trốn, mà ngay cả trung nông và bần nông cũng trốn chạy không ít". Thậm chí, có những ngôi làng tịch thu cả tài sản trung và bần nông, đi kèm với các hành động tàn bạo như "dìm chết người bằng nước muối trong chum" hoặc "đổ dầu lên đầu và thiêu sống". Điều này khiến dân chúng hoang mang, sống trong lo sợ từng ngày.

Trước tình hình đó, ngày 25 tháng 12 năm 1947, Mao Trạch Đông trình bày tại hội nghị Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc tổ chức ở Mễ Chi (tỉnh Thiểm Tây), đã trình bày một báo cáo, đề xuất phương châm tổng thể cải cách ruộng đất là: "Dựa vào bần nông, củng cố sự liên minh với trung nông, xóa bỏ giai cấp địa chủ và chế độ bóc lột phong kiến hoặc nửa phong kiến của phú nông kiểu cũ". Ông nhấn mạnh rằng: "Phải kiên quyết đoàn kết với trung nông, không được làm tổn hại đến lợi ích của họ", và "Dù chỉ có một hộ trung nông bị nhầm lẫn là địa chủ để bị xử lý, chúng ta cũng phải hết sức chú ý để sửa chữa".

Sau đó, vào mùa xuân năm 1948, Trung ương Đảng và Mao Trạch Đông đã liên tiếp ban hành các chỉ thị, yêu cầu phải tránh áp dụng bất kỳ chính sách mạo hiểm nào đối với trung nông, cho phép họ giữ lại lượng đất cao hơn mức trung bình; phân biệt giữa phú nông kiểu mới và kiểu cũ, đối xử với phú nông kiểu mới ở các khu vực cũ như trung nông giàu; quan tâm đến sĩ phu tiến bộ; phân biệt giữa địa chủ lớn, vừa và nhỏ; kiên quyết giảm số lượng người bị giết, nghiêm cấm giết người bừa bãi; làm rõ sự khác biệt giữa các khu vực cải cách ruộng đất, cụ thể là khu vực cũ chỉ thực hiện điều chỉnh phù hợp, khu vực nửa cũ tiến hành cải cách ruộng đất theo "Đại cương Luật Đất đai", khu vực mới không động đến phú nông trong giai đoạn đầu; xác định rõ tiêu chuẩn phân loại địa chủ, phú nông và trung nông; bảo vệ quyền sở hữu tư nhân đối với đất đai đã được phân chia; và yêu cầu chỉnh đốn những tuyên truyền "tả khuynh" liên quan đến cải cách ruộng đất. Cuối cùng, điều này đã làm cho người dân nông thôn, đặc biệt là những nông dân nghèo chiếm đa số, chuyển lòng tin và ủng hộ về phía Đảng Cộng sản Trung Quốc.

Cải cách ruộng đất cũng giúp Đảng Cộng sản mở rộng cơ sở thu thuế. Năm 1949, nguồn thu tài chính của Đảng Cộng sản đạt tới 304 tỷ cân lương thực, tương đương khoảng 1,1 tỷ USD, trong khi đó, tài chính chính phủ Trung Hoa Dân Quốc cùng thời chỉ đạt 90 triệu USD.

Lạm phát và suy thoái kinh tế

Cuộc chiến tranh Trung – Nhật đã gây ra sự sụp đổ kinh tế và tan rã xã hội, khiến những nỗ lực khôi phục trật tự Chính phủ Quốc Dân đảng trở nên thất bại. Do lạm phát và chi tiêu không ngừng gia tăng, lượng vàng, bạc và ngoại tệ dự trữ Quốc Dân đảng giảm mạnh: từ 900 triệu USD vào cuối năm 1945, xuống 600 triệu USD vào tháng 5 năm 1946, 450 triệu USD vào cuối năm 1946, 300 triệu USD vào tháng 10 năm 1947, và chỉ còn 110 triệu USD vào tháng 4 năm 1948.

Đầu năm 1947, tổng lượng phát hành tiền pháp tệ là 3,5 nghìn tỷ, nhưng đến tháng 7 đã tăng lên hơn 10 nghìn tỷ. Ngày 29 tháng 7 năm 1948, Tưởng Giới Thạch đã triệu tập một hội nghị tại Mạc Can Sơn để nghiên cứu việc phát hành tiền Kim Viên (金圆券). Ông cho rằng kế hoạch tiền Kim Viên do Vương Vân Ngũ (王云五) đề xuất nhằm cứu vãn tài chính, thu thập vàng, bạc, ngoại tệ, và kiểm soát giá cả là những biện pháp cần thiết.

Ngày 19 tháng 8, Tưởng ban hành "Lệnh xử lý khẩn cấp về tài chính và kinh tế", phát hành tiền Kim Viên, đồng thời ngừng phát hành pháp tệ; và bổ nhiệm các giám sát viên kinh tế tại các địa phương. Tưởng Giới Thạch phát biểu, kêu gọi đồng bào tuân thủ pháp luật và ủng hộ hệ thống tiền tệ mới để mang lại lợi ích cho quốc gia và nhân dân. Đồng thời, ông công bố "Luật phát hành tiền Kim Viên", với các nội dung chính như sau: "Tiền Kim Viên được phát hành với dự trữ đầy đủ, trong đó phải có 40% dự trữ bằng vàng, bạc và ngoại hối, phần còn lại được bảo đảm bằng chứng khoán có giá trị và tài sản các doanh nghiệp nhà nước do chính phủ chỉ định. Mỗi đồng tiền Kim Viên có hàm lượng vàng 0,22217 gram, do Ngân hàng Trung ương phát hành, với tổng số lượng phát hành giới hạn ở mức 20 tỷ đồng. Một đồng tiền Kim Viên quy đổi bằng 3 triệu đồng pháp tệ".

Phong trào học sinh dấy lên

Sau năm 1946, sinh viên ở các nơi liên tục phát động phong trào phản đối nạn đói. Dưới sự đàn áp từ Chính phủ Quốc dân, họ lại đưa ra khẩu hiệu "chống áp bức". Cùng với sự phát triển chiến tranh, dưới sự lãnh đạo từ Đảng Cộng sản Trung Quốc, phong trào phản đối nạn đói, phản đối nội chiến, và phản đối đàn áp tại các khu vực do Quốc dân đảng kiểm soát cũng dần dần gia tăng.

Đảng Cộng sản Trung Quốc đã lợi dụng các đảng viên ngầm hoạt động bí mật ở hậu phương để kích động các phong trào sinh viên. Nổi bật nhất là cuộc biểu tình lớn "phản đối nạn đói, phản đối nội chiến" của sinh viên các trường đại học ở Thượng Hải, Nam Kinh và các nơi khác vào tháng 5 năm 1947. Cuộc biểu tình này đã dẫn đến xung đột giữa sinh viên và quân đội, gây ra vụ đổ máu.

Ngoài ra, Liên minh Dân chủ Trung Quốc, một chính đảng liên minh với Đảng Cộng sản, trước khi bị giải tán vào tháng 10 năm 1947, cũng đã tận dụng tư cách hợp pháp của mình để tích cực tham gia phong trào sinh viên, phối hợp với cuộc đấu tranh của Đảng Cộng sản. Ngày 30 tháng 5 năm 1947, Tân Hoa Xã công bố một bài bình luận thời sự do Mao Trạch Đông viết, đánh giá cao phong trào sinh viên ở khu vực do Quốc dân đảng kiểm soát, coi đó là "mặt trận thứ hai" bên cạnh mặt trận chiến đấu của Quân Giải phóng Nhân dân.

Ngày 15 tháng 8 năm 1948, Bộ Giáo dục Trung Hoa Dân Quốc tuyên bố: "Trong vòng một năm rưỡi, sinh viên gây ra 109 lần phong trào, làm chậm trễ 506 ngày học tập, phong trào lan rộng đến 18 thành phố lớn".

Đến tháng 1 năm 1949, Quân Giải phóng tiến vào Bắc Bình (Bắc Kinh). Nhà văn Bá Dương hồi tưởng: "Khi đoàn xe đi qua khu Đông Đơn, một thiếu tá Quốc Dân đảng kéo theo hai sinh viên đại học và lớn tiếng buộc tội: "Các người, những sinh viên đại học vô lương tâm! Chính phủ đã làm gì không tốt với các người? Khi chúng tôi ở tiền tuyến phải ăn lương khô, các người ăn gì? Gạo trắng, bột mì trắng, thịt mỡ. Nhưng các người ngày nào cũng biểu tình, phản đối nạn đói, phản đối bạo quyền. Các người có đói không? Ngày Bát Lộ Quân tiến vào thành phố, các người lập tức phải ăn gạo cũ và không có lấy một miếng thịt. Nhưng các người lại không phản đối nạn đói. Các người vô ơn như vậy, trời sẽ trừng phạt các người, đừng nghĩ có thể thoát được!". Cả con phố nhất thời đều lặng đi. Cuối cùng, ông ta bị cưỡng chế dẫn đi.

Tình báo và tuyên truyền

Người ta thường cho rằng nguyên nhân thất bại Quốc quân có nhiều: chính phủ chia rẽ, đấu đá nội bộ, tham nhũng hủ bại; tài chính hỗn loạn, kinh tế sụp đổ; binh sĩ chán ghét chiến tranh, quan lại áp bức dân dẫn đến dân chúng nổi dậy. Sau cuộc kháng chiến, chính quyền trung ương phân biệt đối xử với các đơn vị quân đội không thuộc hệ thống trung ương, chế độ đãi ngộ không công bằng, điều họ đi chiến đấu ở các khu vực xa xôi hoặc giải thể, khiến họ bất mãn hoặc đào ngũ. Lấy lý do "chỉnh quân" sau chiến tranh, chính phủ cắt giảm gần 300.000 sĩ quan không thuộc hệ trung ương, tập hợp họ vào "Tổng đội Sĩ quan", khiến những cán bộ có kinh nghiệm chiến trường mang lòng oán hận và sau đó nhiều người gia nhập Quân Giải phóng Nhân dân.

Việc xử lý lực lượng ngụy quân triệu người không phù hợp, như giết chỉ huy, tước đoạt binh sĩ, hoặc coi họ là "Hán gian", "ngụy quân địch", khiến họ quay sang gia nhập Đảng Cộng sản. Do phe phái rõ rệt giữa các tướng lĩnh cao cấp, những vị tướng có khả năng chiến đấu như Quan Lân Trưng, Tiết Nhạc không được trọng dụng; trong khi đó, việc giao Lưu Trĩ chỉ huy trận chiến Hứa Bạng lại dẫn đến thất bại không tránh khỏi. Một số tướng lĩnh từng bị trung ương xem như đối thủ đã quay sang gia nhập Đảng Cộng sản trong thời điểm quan trọng, như Cao Thụ Huân, Hàn Luyện Thành, Ngô Hóa Văn, Vệ Lập Hoàng, Hà Cơ Phụng, Trương Khắc Hiệp, Trương Chẩn, [[Trình Tiềm, Trần Minh Nhân, v.v. Trước thời điểm giải phóng đại lục Trung Quốc, nhiều tướng lĩnh địa phương vì muốn sinh tồn đã bất kể nguyên tắc.

Hơn nữa, nhiều gián điệp Đảng Cộng sản đã được cài vào cơ quan tối cao Quốc quân và các cấp chỉ huy, thường xuyên cung cấp thông tin chi tiết cho Đảng Cộng sản, như Phó Tổng tham mưu trưởng Lưu Phỉ, Trưởng phòng Tác chiến Quách Nhữ Côi. Đặc biệt, cơ quan chỉ huy tối cao điều hành chiến đấu trực tiếp và cả Lưu, Quách đều tham gia vào công tác chỉ huy bí mật, nên mỗi trận đều thất bại. Ngoài ra, Đảng Cộng sản đã cài đặt mạng lưới tình báo rộng khắp tại các tầng lớp cao cấp chính phủ Quốc dân, bao gồm Lưu Phỉ, Hùng Hướng Huy, Quách Nhữ Côi và thư ký của Phó Tác Nghĩa là Nghiêm Hựu Văn, cùng nhiều đảng viên ngầm khác.

Khi nội chiến Quốc-Cộng bùng phát vào năm 1946, báo Tân Hoa Nhật Báo mỗi ngày đều đăng tin tức chiến thắng quân đội Đảng Cộng sản do Tân Hoa Xã phát hành, thậm chí còn có chuy

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Nội chiến Quốc-Cộng lần thứ 2** (); diễn ra từ năm 1945 đến năm 1950, là cuộc chiến giữa Quốc dân Đảng và Đảng Cộng sản Trung Quốc nhằm tranh giành quyền kiểm soát Trung
**Chiến dịch tấn công Dukhovshina-Demidov lần thứ hai** là chiến dịch tấn công lớn của Phương diện quân Bryansk diễn ra đồng thời với Chiến dịch tấn công Smolensk-Roslavl trong khuôn khổ Cuộc tấn công
**Nội chiến Trung Quốc** hay **Quốc Cộng nội chiến** (), kéo dài từ tháng 4 năm 1927 đến tháng 5 năm 1950, là một cuộc nội chiến tại Trung Quốc đại lục (với chính quyền
Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa gọi là **chiến dịch Hoài Hải**, Trung Hoa Dân Quốc gọi là **Từ Bạng hội chiến** là một trong ba chiến dịch quân sự lớn nhất trong thời kỳ
**Chiến tranh Punic lần thứ hai**, cũng còn được gọi là **Chiến tranh Hannibal**, (bởi những người La Mã) **Cuộc chiến tranh chống lại Hannibal**, hoặc **Chiến tranh Carthage**, kéo dài từ năm 218 đến
**Cách mạng công nghiệp lần thứ hai** (1871-1914) là một giai đoạn công nghiệp hóa nhanh chóng và xảy ra nhiều sự tiêu chuẩn hóa, sản xuất hàng loạt và phát kiến khoa học từ
**Nội chiến Sudan lần thứ hai** bắt đầu vào năm 1983, mặc dù phần lớn là một sự tiếp nối của cuộc nội chiến Sudan lần thứ nhất giai đoạn 1955-1972. Mặc dù nó có
**Chiến tranh giành độc lập Ý lần thứ hai**, còn gọi là **Chiến tranh Pháp-Áo**, **Chiến tranh Sardinia**, **Chiến tranh Áo-Sardinia** hay **Chiến tranh Ý 1859** (tiếng Ý: _Seconda guerra d'indipendenza Ýa_; tiếng Pháp: _Campagne
, cũng thường được gọi với tên phiên âm của nó là **Kuomintang** (**KMT**; ), là chính đảng do Tôn Trung Sơn và các chí sỹ của ông sáng lập và tồn tại cho đến
**Chiến tranh theo giai đoạn** là khái niệm mô tả một cuộc chiến tranh đang diễn ra được hoạch định qua từng giai đoạn chiến đấu. Điều này xuất phát từ khả năng hiện tại
**Trung Hoa Dân Quốc** (Tiếng Trung: 中華民國; Bính âm: Zhōnghuá Mínguó; Tiếng Anh: Republic Of China) là một quốc gia cộng hòa đã kiểm soát chủ quyền với toàn bộ Trung Quốc từ năm 1912
**Cuộc xâm lược Hy Lạp lần thứ hai của Ba Tư** là một giai đoạn của cuộc chiến tranh Hy Lạp-Ba Tư diễn ra dưới đời vua Ba Tư Xerxes I từ năm 480–479 TCN.
**Chiến tranh Nha phiến lần thứ hai**, **Chiến tranh Anh-Trung**, **Chiến tranh Trung Hoa lần thứ hai**, **Chiến tranh Mũi tên**, hoặc **Anh-Pháp viễn chinh Trung Quốc**, là một cuộc chiến tranh giữa Đế quốc
**Chiến tranh Tống–Việt lần thứ hai** diễn ra từ năm 1075 đến năm 1077 là cuộc chiến tranh giữa nhà Lý nước Đại Việt và nhà Tống của Trung Quốc. Giai đoạn đầu, trong các
**Bắc thuộc lần thứ hai** (chữ Nôm: 北屬吝次二, ngắn gọn: **Bắc thuộc lần 2**) trong lịch sử Việt Nam kéo dài khoảng 500 năm từ năm 43 đến năm 543, từ khi Mã Viện theo
328x328px|nhỏ|phải|Các quốc gia nội lục theo _[[The World Factbook_. Màu đỏ chỉ quốc gia nội lục bị bao bọc bởi các quốc gia nội lục (Các quốc gia nội lục "kép"). Màu xanh chỉ các
**Bính Tý Hồ loạn** hay còn được gọi là **Cuộc xâm lược Triều Tiên lần thứ hai của Mãn Châu** diễn ra vào năm 1636 là sự tiếp nối lần xâm lược thứ nhất năm
**Cuộc chiến tranh Anh-Afghanistan lần thứ hai** () là cuộc xung đột quân sự giữa Raj thuộc Anh và Tiểu vương quốc Afghanistan từ năm 1878 đến năm 1880, khi sau đó được cai trị
Các sự kiện quân sự ở Mặt trận phía Đông trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Các mốc thời gian ghi theo năm - tháng - ngày. ## 1941 * 1941-06-22 Chiến dịch Barbarossa
**Trận sông Marne lần thứ hai**, còn gọi là **Cuộc Tổng tấn công Marne-Reims** hoặc là **Trận chiến Reims** (15 tháng 7 - 16 tháng 9 năm 1918) là một trận đánh lớn trong cuộc
**Chiến dịch tấn công Dukhovshchina lần thứ nhất** là hoạt động quân sự của quân đội Liên Xô trong khuôn khổ Chiến dịch Smolensk (1943) chống lại quân đội Đức Quốc xã. Diễn ra chỉ
**Trận sông Somme lần thứ hai** là trận đánh diễn ra vào cuối mùa hè năm 1918 giữa đế quốc Đức và liên minh các nước thuộc phe Hiệp ước trong thế chiến thứ nhất
**Trận Artois lần thứ hai** là một trận đánh ở miền Bắc nước Pháp trên Mặt trận phía Tây của cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất, diễn ra từ ngày 9 tháng 5 cho
**Cuộc chiến Chechnya lần thứ II** (, , lit: 'Chiến tranh Nga-Chechen lần thứ hai') là giai đoạn sau của cuộc chiến tranh ở Bắc Kavkaz, đã được phát động bởi Liên bang Nga bắt
**Trận sông Aisne lần thứ hai**, còn gọi là **Trận Chemin des Dames** (, hoặc là ), là một trận chiến tiêu biểu giữa Pháp và Đế quốc Đức trên Mặt trận phía Tây của
**Đại tướng Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc** (), còn gọi là **Thập đại tướng quân** (十大将军) là 10 tướng lĩnh cao cấp đầu tiên và duy nhất trong lịch sử Quân Giải phóng
**Chiến tranh thế giới thứ hai** (còn được nhắc đến với các tên gọi **Đệ nhị thế chiến**, **Thế chiến II** hay **Đại chiến thế giới lần thứ hai**) là một cuộc chiến tranh thế
**Nội chiến Campuchia** là cuộc chiến giữa lực lượng của Đảng Cộng sản Campuchia (được biết đến với tên gọi Khmer Đỏ) và đồng minh của họ, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Mặt
**Đệ nhị Cộng hòa Ba Lan**, quốc hiệu là **Cộng hòa Ba Lan** ()**,** là một quốc gia ở Trung và Đông Âu, tồn tại từ ngày 7 tháng 10 năm 1918 đến ngày 6
**Nội chiến Hoa Kỳ** (, 12 tháng 4 năm 1861 – 9 tháng 5 năm 1865, còn được biết đến với nhiều tên gọi khác nhau), là một cuộc nội chiến diễn ra ở Hoa
Đây là một **Niên biểu các sự kiện diễn ra trong thời gian Chiến tranh thế giới thứ hai**, trong năm 1940. ## Tháng 1 năm 1940 :1: 10.000 quân Nhật mở cuộc phản công
**Trận El Alamein thứ hai** diễn ra trong vòng 20 ngày từ 23 tháng 10 đến 11 tháng 11 năm 1942 ở gần thành phố duyên hải El Alamein của Ai Cập, và chiến thắng
**Chiến dịch Ý** là chiến dịch tấn công dài và oanh liệt nhất do khối Đồng Minh phương Tây thực hiện trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Chiến dịch kéo dài từ ngày 10
phải|nhỏ|200x200px|Ảnh chụp chung đại nguyên soái [[Tưởng Giới Thạch|Tưởng Trung Chính, tổng thống Roosevelt và thủ tướng Churchill trong khoảng thời gian diễn ra Hội nghị Cairo, vào ngày 25 tháng 11 năm 1943.]] nhỏ|200x200px|Ba
Thuật ngữ **nội chiến** và **chiến tranh trong nước** thường được sử dụng thay thế cho nhau, nhưng từ nội chiến được sử dụng nhiều hơn. Nó ám chỉ bất kỳ cuộc xung đột nào
**Chiến tranh Punic lần thứ nhất **(264-241 TCN) là cuộc chiến tranh lớn đầu tiên xảy ra giữa Carthage và Cộng hòa La Mã, kéo dài suốt 23 năm giữa hai thế lực hùng mạnh
nhỏ|Lính Úc dùng súng máy tại trận địa gần [[Wewak tháng 6 năm 1945]] Sau khi Đức Quốc xã xâm lăng Ba Lan, chính phủ Úc tuyên chiến với Đức ngày 3 tháng 9 năm
Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, quân Đồng Minh đã phạm phải tội ác chiến tranh đã được kiểm chứng và vi phạm luật pháp chiến tranh chống lại dân thường hoặc quân nhân
**Đại hội Đại biểu Toàn quốc lần thứ XX Đảng Cộng sản Trung Quốc** (tiếng Trung giản thể: 中国共产党第二十次全国代表大会, bính âm Hán ngữ: _Zhōngguó gòngchǎndǎng dì èrshí cì quánguó dàibiǎo dàhuì_) viết tắt là **Đại
Hạ viện bỏ phiếu luận tội Donald Trump, tổng thống thứ 45 của Hoa Kỳ, đã bị Hạ viện luận tội lần thứ hai vào ngày 13 tháng 1 năm 2021. Hạ viện đã thông
**Chiến tranh Anh–Afghanistan lần thứ ba** () còn được gọi là **Chiến tranh Afghanistan lần thứ ba** hay **cuộc chiến tranh Anh-Afghanistan năm 1919** và ở Afghanistan là **Cuộc chiến giành độc lập**, Cuộc chiến
**Nội chiến Angola** (tiếng Bồ Đào Nha: _Guerra civil angolana_) là một cuộc xung đột quân sự lớn ở quốc gia châu Phi Angola, bắt đầu từ năm 1975 và tiếp tục, với một số
**Nội chiến Sudan Thứ nhất 1955-1972** (cũng được gọi là loạn **Anyanya** hay **Anyanya I**, theo tên những người nổi dậy) là cuộc nội chiến tại Sudan diễn ra từ năm 1955 đến 1972 giữa
Có nhiều khái niệm về **các cuộc nội chiến ở La Mã cổ đại**, chủ yếu là vào cuối thời kỳ Cộng hòa. Nổi tiếng nhất là cuộc chiến vào những năm 40 TCN giữa
**Hội nghị cấp cao Đông Á (EAS)** là một diễn đàn gồm các quốc gia ở châu Á được các lãnh đạo của 16 quốc gia Đông Á và khu vực lân cận tổ chức
Donald Trump, tổng thống thứ 45 của Hoa Kỳ, bị Hạ viện luận tội lần thứ hai vào ngày 13 tháng 1 năm 2021. Hạ viện đã thông qua một điều khoản luận tội Trump:
**Nội chiến Tây Ban Nha** () là một cuộc nội chiến giữa phe Cộng hòa và phe Quốc dân diễn ra ở Tây Ban Nha từ năm 1936 tới năm 1939. Phe Cộng hòa là
**Trận chiến nước Pháp** (), còn được gọi là **Chiến dịch phía Tây** (**'), **Chiến dịch nước Pháp** (, ) và **Nước Pháp thất thủ''', là cuộc xâm lược của Đức nhằm vào Pháp, Bỉ,
**Nội chiến Uruguay**, còn được gọi là **_Guerra Grande _** ("Đại chiến") trong tiếng Tây Ban Nha, là một cuộc xung đột xảy ra ở khu vực Rio de la Plata từ ngày 10 tháng
**Nội chiến Sri Lanka** là một cuộc xung đột vũ trang trên đảo Sri Lanka. Bắt đầu từ ngày 23 tháng 7 năm 1983, đã có một cuộc nổi dậy bởi Tổ chức chính trị