✨Nội chiến Trung Quốc
Nội chiến Trung Quốc hay Quốc Cộng nội chiến (), kéo dài từ tháng 4 năm 1927 đến tháng 5 năm 1950, là một cuộc nội chiến tại Trung Quốc đại lục (với chính quyền khi đó là Trung Hoa Dân Quốc), giữa hai đảng phái là Trung Quốc Quốc dân Đảng và Đảng Cộng sản Trung Quốc. Sau thời kỳ hợp tác ban đầu, do những bất đồng, xung đột, bất hòa và mâu thuẫn sâu sắc về quan niệm phát triển kinh tế - xã hội và phương thức cai trị cũng như triết học; những người thân Cộng sản trong Quốc dân Đảng cùng nhiều thành viên cũ thuộc phe cánh tả của Quốc dân Đảng dần tách ra và hình thành một nhóm chính trị mới trong nội bộ Quốc dân Đảng. Cuộc chiến này bắt đầu năm 1927, sau cuộc Bắc phạt, khi phái chống cộng và cánh hữu của Quốc dân Đảng do Tưởng Giới Thạch dẫn đầu đã thanh trừng và thảm sát hàng loạt những người thân Cộng sản và cánh tả của Quốc dân Đảng, và tuyên bố từ bỏ liên minh với Đảng Cộng sản do những bất đồng sâu sắc đại diện cho sự chia rẽ ý thức hệ. Những người thân Cộng sản và cánh tả còn sống sót của Quốc dân Đảng tuyên bố rằng Tưởng Giới Thạch đã phản bội cách mạng và họ sẽ tách ra để liên minh Đảng Cộng sản Trung Quốc cũ (vốn đã từ bỏ liên minh với cánh hữu Quốc dân Đảng) để tạo thành một Đảng Cộng sản Trung Quốc lớn hơn, chống lại Quốc dân Đảng của phe bảo thủ và cánh hữu.
Quốc dân Đảng được phương Tây và Liên Xô (lúc sau) ủng hộ và Đảng Cộng sản được Liên Xô (lúc đầu) ủng hộ. Cuộc nội chiến bị gián đoạn do cuộc Chiến tranh Trung–Nhật, với việc thành lập liên minh kháng chiến Trung Quốc chống sự xâm lược của Phát xít Nhật, cho tới khi quân Phát xít Nhật bị Đồng Minh (trong đó có Trung Quốc) đánh bại vào tháng 8 năm 1945, kết thúc Thế chiến thứ hai, và Quốc-Cộng nội chiến lần thứ hai tiếp tục vào năm 1946.
Ban đầu Quốc dân Đảng chiếm ưu thế áp đảo, họ nắm giữ hầu hết các trung tâm kinh tế của đất nước và có quân số đông gấp 6 lần đối phương, trang bị nhiều vũ khí hiện đại do Mỹ viện trợ trong Thế chiến 2. Nhưng càng về sau, Quốc dân Đảng càng thất thế vì những chính sách sai lầm gây mất lòng dân, tinh thần chiến đấu yếu kém của binh sĩ, nạn tham nhũng và sự chia rẽ trong nội bộ, trong khi Đảng Cộng sản thì ngày càng mạnh lên nhờ sự ủng hộ của người dân và chiến lược hợp lý. Sau 3 năm chiến tranh, chiến tranh đã chấm dứt không chính thức. Đảng Cộng sản Trung Quốc do Mao Trạch Đông lãnh đạo đã giành chiến thắng, họ kiểm soát Trung Hoa đại lục (bao gồm cả đảo Hải Nam), thành lập nên Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Còn Trung Quốc Quốc dân Đảng do Tưởng Giới Thạch lãnh đạo thất bại, chỉ còn nắm giữ các lãnh thổ là đảo Đài Loan, quần đảo Bành Hồ, và nhiều đảo bên ngoài Phúc Kiến, đồng thời chính quyền Trung Hoa Dân Quốc từng kiểm soát đại lục trở thành chính quyền Đài Loan như hiện tại.
Cho đến ngày nay, chưa có một hiệp định đình chiến nào được ký kết dù hai bên đã có quan hệ kinh tế chặt chẽ. Chính phủ Trung Quốc và Đài Loan đều duy trì lập trường rằng họ là chính phủ hợp pháp của toàn bộ Trung Hoa và tiếp tục đấu tranh trên phương diện ngoại giao. Tính đến năm 2023, cuộc chiến vẫn còn duy trì trên phương diện ngoại giao-chính trị-tư tưởng-văn hóa và kinh tế nhưng không hề có các xung đột quân sự-an ninh nào.
Xét về quân số huy động, đây cũng là cuộc chiến tranh quy mô lớn thứ 2 trong lịch sử, và có rất nhiều điểm giống với cuộc Nội chiến Hoa Kỳ (1861-1865). Bản thân nhiều nhà sử gia đã nói rằng cuộc nội chiến Trung Quốc là "phiên bản sao chép" của nội chiến Hoa Kỳ.
Tên gọi
Các tài liệu chính thức và sử liệu giáo khoa của Đảng Cộng sản Trung Quốc và chính quyền Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa gọi cuộc chiến là Chiến tranh Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (), gọi tắt là Chiến tranh Giải phóng, hoặc Nội chiến Cách mạng lần thứ 3 (). Còn tài liệu tương đương của Trung Hoa Quốc dân đảng và chính quyền Trung Hoa Dân quốc thì coi đây là cuộc nổi loạn của "phỉ quân" Trung Hoa Cộng sản đảng chống lại Nhà nước và chính phủ trung ương, nên gọi là Kham loạn chiến tranh () (chiến tranh bình loạn) hoặc Chiến tranh kháng Cộng. Sách báo người Hoa hải ngoại thường gọi là Nội chiến Quốc - Cộng. Cộng đồng quốc tế gọi chung là Nội chiến Trung Quốc (Chinese Civil War). Một ít sử gia Đài Loan gom chung thời kỳ này và gọi là "Chiến tranh kháng Nhật - Cộng".
Bối cảnh
Các tập đoàn lãnh chúa quân phiệt Trung Quốc chính (1925)- các vùng màu hồng Nhà Thanh, triều đại phong kiến cuối cùng tại Trung Hoa, sụp đổ năm 1912. Bản thông cáo này là lời tuyên bố hợp tác giữa Quốc tế III, Trung Quốc Quốc dân Đảng và Đảng Cộng sản Trung Quốc. Tới năm 1924, Tưởng trở thành hiệu trưởng trường quân sự Hoàng Phố, và nổi lên với tư cách người kế nhiệm Tôn Dật Tiên lãnh đạo Quốc dân đảng.
Thành viên đảng Cộng sản cũng được phép gia nhập Quốc dân đảng sau khi xét duyệt. trong khi Quốc dân đảng năm 1923 đã có 50.000 thành viên
Ngày 7 tháng 4, Tưởng và một số lãnh đạo Quốc dân Đảng họp, và đưa ra quan điểm các hoạt động của Đảng Cộng sản làm rối loạn xã hội và kinh tế, và cần phải ngưng lại để cuộc cách mạng quốc gia có thể tiếp tục tiến triển. Kết quả của cuộc họp này là ngày 12 tháng 4, Tưởng Giới Thạch quay ra xử lý những người Cộng sản tại Thượng Hải. Quốc dân Đảng tiến hành thanh trừng khỏi hàng ngũ của mình các thành viên cánh tả, và hàng trăm đảng viên Cộng sản bị bắt giữ hay bị hành quyết.
Công nhân, người lao động phản đối mạnh mẽ chủ trương của Tưởng. Nhưng Tưởng Giới Thạch không dám sử dụng binh sĩ đàn áp công nhân, sợ danh không thuận sẽ xảy ra binh biến. Bởi, binh lính luôn coi công nhân là bè bạn cùng một liên minh. Nhiều chỉ huy các đơn vị đã tỏ ra ngần ngừ, từ chối nhận lệnh đàn áp. Do đó, Tưởng Giới Thạch đã triệu tập Đỗ Nguyệt Sanh, Hoàng Kim Vinh, Trương Tiêu Lâm - 3 đầu lĩnh của Thanh Bang hội đến thành phố cấp huyện Cửu Giang họp kín, bàn mưu "mượn đao giết người". Tưởng nhờ ba ông trùm đưa quân bang hội đi đàn áp công nhân, người biểu tình thay cho quân đội. Lấy danh nghĩa công hội, Đỗ Nguyệt Sênh đã tuyển mộ và vũ trang cho gần 3.000 tên vô lại của Thanh Bang. Đạo quân này được Đỗ Nguyệt Sanh khoác cho những cái tên mỹ miều và ôn hòa là "Hiệp hội Công nhân Thượng Hải" và "Hiệp hội đồng tiến Trung Hoa". Đêm 11/4/1927, mượn danh nghĩa hai tổ chức này, Đỗ Nguyệt Sanh đã mời ủy viên trưởng Tổng công hội Thượng Hải Uông Thọ Hòa đến tư dinh dự tiệc bàn việc hợp tác. Giữa buổi tiệc, Đỗ viện cớ ra ngoài. Thích khách do Đỗ bố trí sẵn thừa cơ đã lẻn vào hạ sát Uông Thọ Hòa ngay tại bàn tiệc. Đúng 1 giờ sáng ngày 12/4/1927, 3.000 tên Thanh Bang, mỗi tên được Đỗ phát cho 10 đồng bạc trắng, mặc đồng phục quần short, áo xanh cộc tay, trên vai có khắc dấu hiệu chữ "công" tỏa đi các nơi đồng loạt tập kích các đội tự vệ của công nhân. Trời vừa sáng, lấy cớ "công nhân xung đột nội bộ, gây mất trị an", Tưởng Giới Thạch đã xua quân đội đi giải giới vũ khí cả hai bên. Thực tế, quân đội được lệnh lập hàng rào ngăn hai bên tấn công và chống trả nhau, tách hai phe giang hồ và công nhân, sau đó lập hành lang bảo vệ cho bọn Thanh Bang rút lui an toàn. Kết quả là 2.700 công nhân vũ trang bị tước vũ khí, 120 người chết, 180 người khác bị thương ngay sau đêm đụng độ đầu tiên. Đến khi trời tối, kịch bản cũ lại lặp lại... Hơn 3 tháng sau đó, Thượng Hải luôn náo loạn bởi hàng trăm vụ tập kích khác của Thanh Bang nhằm tiêu diệt lực lượng công nhân tự vệ. Phong trào công nhân Thượng Hải bị dìm vào bể máu và suy yếu, không còn đủ sức ngáng trở hay phản đối các chủ trương của Tưởng.
Sự kiện này được gọi tên là "chính biến Thượng Hải", "biến cố ngày 12 tháng 4", hay là "cuộc thảm sát Thượng Hải". Cuộc thảm sát đào sâu thêm hố chia cắt Tưởng và phe Vũ Hán của Uông Tinh Vệ. Đảng Cộng sản định tổ chức giành chính quyền tại một số thành phố lớn như Nam Dương, Trường Sa, Sán Đầu, và Quảng Châu. Đảng viên Cộng sản, cùng với nông dân và thợ mỏ tại Hồ Nam dưới sự lãnh đạo của Mao tiến hành một cuộc nổi dậy, nhưng thất bại. Phe Cộng sản và phe cánh tả thuộc Quốc dân đảng đóng thủ đô tại Vũ Hán, và phe cánh hữu Quốc dân đảng đóng đô tại Nam Kinh, thành phố này sẽ tiếp tục đóng vai trò thủ đô của Quốc dân đảng trong suốt một thập kỷ kế tiếp. Tiếp đó, phần lớn miền đông Trung Quốc dần rơi vào tay chính quyền Nam Kinh, và chính quyền Quốc dân đảng tại Nam Kinh nhận được sự thừa nhận từ cộng đồng quốc tế như chính phủ hợp hiến duy nhất tại Trung Quốc. Quốc dân đảng tuyên bố nguyên tắc ba giai đoạn cách mạng, phù hợp với cương lĩnh của Tôn Dật Tiên: thống nhất đất nước bằng hoạt động vũ trang (軍政, quân chính), bồi dưỡng chính trị (訓政, huấn chính), và thiết lập chế độ dân chủ lập hiến (憲政, hiến chính).
Diễn biến
Nội chiến lần thứ nhất
Giai đoạn 1927-1937
Lực lượng Đảng Cộng sản Trung Quốc tiến hành cuộc [[Vạn lý Trường chinh|Vạn lý trường chinh phá vây về phía bắc]] Ngày 12 tháng 4 năm 1927, Tưởng Giới Thạch đứng đầu phái hữu trong Quốc dân đảng Trung Quốc đã tiến hành chính biến Thượng Hải, tàn sát và thanh trừng những người cộng sản và thân cộng, mở đầu cho các hoạt động chống Cộng công khai tại nhiều địa phương khác. Ngày 19 tháng 4 năm 1927, chính phủ do Tưởng đứng đầu được thành lập tại Nam Kinh. Đến tháng 7 năm 1927, Tưởng đã nắm được toàn bộ chính quyền, chiến tranh Bắc phạt chấm dứt.
Trước tình hình đó, những người Cộng sản Trung Quốc rút lui về vùng nông thôn hoạt động bí mật, chuẩn bị cho nổi dậy, bắt đầu bằng cuộc khởi nghĩa Nam Xương ngày 1 tháng 8 năm 1927 và một số thành phố khác tại Hoa nam. Họ hợp sức với dư đảng của các lực lượng khởi nghĩa nông dân, thiết lập quyền kiểm soát tại nhiều nơi ở miền nam Trung Quốc., trong đó chiến dịch thứ nhất và thứ hai thất bại, chiến dịch thứ ba phải bãi bỏ do biến cố Lư Câu Kiều. Chiến dịch thứ tư (1932–1933) thu được một số kết quả ban đầu, nhưng lực lượng của Tưởng cũng bị tổn thất nặng khi họ định đánh thọc sâu vào trung tâm căn cứ của Mao gọi là Trung Hoa Xô-viết Cộng hòa quốc. Trong các chiến dịch này, quân Quốc dân đảng thường nhanh chóng đánh thọc sâu vào các khu vực do Đảng Cộng sản Trung Hoa kiểm soát, nhưng cũng dễ dàng bị lọt thỏm trong miền thôn quê rộng lớn, và không đủ lực để củng cố các vùng mà họ chiếm được.
Cuối năm 1933, Tưởng tiến hành chiến dịch vây quét lần thứ năm, lần này bao vây một cách có hệ thống khu xô-viết Giang Tây với hệ thống đồn bốt và lô cốt. Không như những chiến dịch trước, trong đó họ chỉ sử dụng một mũi thọc sâu duy nhất, lần này quân Quốc dân đảng nhẫn nại xây dựng hệ thống đồn bốt bao vây khu vực căn cứ của Đảng Cộng sản, cắt đứt đường tiếp tế và lương thực tới các căn cứ này. Cuộc Trường chinh chấm dứt khi lực lượng chính của Mao đến được Thiểm Tây.
Cánh quân của Trương Quốc Đào đi theo một hướng khác về phía tây bắc, và bị lực lượng của Tưởng cũng như của các lãnh chúa quân phiệt người Hồi giáo, là đảng họ Mã, tiêu diệt gần như hoàn toàn. Dọc đường, Hồng quân Trung Quốc tịch thu tài sản và vũ khí của các lãnh chúa và địa chủ địa phương, đồng thời tuyển mộ nông dân và bần nông vào hàng ngũ của mình, củng cố mối liên hệ với quần chúng nhân dân. Trong tổng số khoảng 90.000-100.000 người tham gia cuộc Trường chinh bắt đầu từ vùng căn cứ Cộng hòa Xô-viết Trung Hoa, chỉ có chừng 7.000-8.000 đến được Thiểm Tây. Lực lượng tàn quân của Trương Quốc Đào cuối cùng cũng tới được Thiểm Tây nhập vào với lực lượng của Mao; nhưng với lực lượng gần như bị tiêu diệt hoàn toàn, Trương Quốc Đào dù là một trong các lãnh tụ sáng lập ra đảng Cộng sản Trung Quốc, cũng không thể tranh chấp được quyền lãnh đạo với Mao. Về cơ bản, cuộc rút lui này khiến Mao trở thành lãnh tụ duy nhất của đảng Cộng sản Trung Quốc, được chính thức xác nhận tại Hội nghị Tuân Nghĩa (Quý Châu) tháng 1 năm 1935.
Tháng 7 năm 1937, giới quân phiệt Nhật Bản phát động cuộc chiến tranh quy mô nhằm thôn tính toàn bộ Trung Quốc. Đảng Cộng sản và Quốc dân đảng đình chỉ nội chiến, hợp tác thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất chống Nhật. Giai đoạn 1 của cuộc nội chiến chấm dứt.
Chiến tranh Trung Nhật (1937–1945)
Lực lượng [[Tưởng Giới Thạch bị cuộc chiến tranh Trung-Nhật làm suy yếu nặng nề]] Trong khi Đế quốc Nhật tiến hành xâm chiếm và biến Mãn Châu quốc làm thuộc địa, thì Tưởng Giới Thạch vẫn không chịu liên kết với Đảng Cộng sản để chống Nhật, vì coi Cộng sản là mối nguy còn lớn hơn. Ngày 12 tháng 12 năm 1936, một số sĩ quan Quốc dân đảng, đứng đầu là Trương Học Lương tiến hành binh biến, bắt giữ Tưởng và buộc ông phải cam kết hòa hoãn với Đảng Cộng sản. Sự kiện này được biết đến với tên gọi Sự biến Tây An. Cả hai phía Quốc Cộng sau đó ngưng các hoạt động quân sự để thành lập Mặt trận thống nhất Trung Quốc đệ Nhị, tập trung vào chống kẻ thù chung là đế quốc Nhật. Đảng Cộng sản tiến hành chiến tranh du kích chống Nhật, nhưng tránh giao chiến lớn do lực lượng của họ quá ít ỏi, đồng thời họ cũng đánh lui các cuộc tấn công mình của Quốc dân đảng. Sự hợp tác Quốc-Cộng trong thời gian này chỉ ở mức tối thiểu. Sự kiện này đánh dấu sự chấm dứt mặt trận thống nhất chống Nhật.
Nội chiến lần thứ 2
Tương quan lực lượng sau chiến tranh Trung-Nhật
Các khu vực Nhật chiếm đóng trong [[chiến tranh thế giới thứ hai|đệ Nhị thế chiến]] Sau chiến tranh Trung-Nhật, tương quan lực lượng vẫn nghiêng nhiều về phía Quốc dân đảng. Quân đội của Quốc dân đảng đông tới 5,7 triệu người, gấp 6 lần quân số của Đảng Cộng sản. Quốc dân đảng kiểm soát hầu hết các thành phố lớn và trung tâm công nghiệp của đất nước, họ cũng được trang bị một lượng lớn vũ khí hiện đại cho Anh, Mỹ cung cấp trong thời kỳ chống Nhật.
Tuy vậy, so với giai đoạn 1931-1937, tình thế đã trở nên thuận lợi hơn cho phía Đảng Cộng sản Trung Quốc. Lực lượng chủ lực của họ tăng lên 900.000 quân, còn lực lượng dân quân tăng lên 2 triệu người. Vùng kiểm soát của họ nay gồm 19 khu, chiếm tới 1/4 lãnh thổ Trung Quốc và 1/3 dân số - gồm nhiều thành phố và thị trấn quan trọng. Hơn thế nữa, Liên Xô trao lại toàn bố số vũ khí thu được từ quân Nhật cho Đảng Cộng sản. Khi Liên Xô rút đi, Đảng Cộng sản Trung Quốc cũng biết tận dụng thời cơ, tiếp quản vùng Đông Bắc Trung Quốc trước khi quân Quốc dân đảng kéo tới. Tháng 3 năm 1946, dù Tưởng Giới Thạch đã nhiều lần kiến nghị, Hồng quân Liên Xô dưới sự chỉ huy của tướng Malinovsky trì hoãn rút quân khỏi Mãn Châu và ngầm thông báo với Hồng quân Trung Quốc tiến vào tiếp quản vùng này vì Stalin muốn Mao kiểm soát được ít nhất là vùng phía Bắc của Mãn Châu trước khi quân Liên Xô triệt thoái hoàn toàn khỏi đây, dẫn đến cuộc chiến tranh toàn diện nhằm kiểm soát vùng Đông Bắc. Điều kiện này hết sức thuận lợi cho Đảng Cộng sản Trung Quốc, dẫn đến những thay đổi trong nội bộ ban lãnh đạo đảng Cộng sản: phe cứng rắn và chủ trương sử dụng vũ lực dần chiếm ưu thế, áp đảo phe chủ trương hoà hoãn. Hồng quân Trung Quốc vẫn nắm được một lượng lớn vũ khí do quân Nhật bỏ lại, gồm cả vũ khí hạng nặng như xe tăng. Tuy nhiên chỉ đến khi một số lớn binh lính Quốc dân đảng đầu hàng và chạy sang hàng ngũ Cộng sản thì Hồng quân Trung Quốc mới có thể vận hành được số vũ khí này.
Dù yếu thế hơn về mặt vũ khí trang bị, con bài chủ chốt của đảng Cộng sản là chính sách cải cách ruộng đất. Đảng Cộng sản tiếp tục thực hiện chính sách này ở vùng nông thôn, những nông dân cùng khổ và không có ruộng đất thấy rằng nếu họ chiến đấu cho Đảng Cộng sản, họ sẽ giành được ruộng đất từ tay giới địa chủ. Chính sách này khiến cho Đảng Cộng sản Trung Quốc có được sự ủng hộ của giới nông dân và nguồn nhân lực hùng hậu để sử dụng trong chiến đấu cũng như vận tải tiếp tế, dù trước đó có bị tổn thất nặng nề trong các chiến dịch quân sự chống Nhật. Ví dụ, trong chiến dịch Hoài Hải họ đã có thể huy động tới 5.430.000 nông dân phục vụ vận tải, giúp họ chiến đấu chống lại quân chính quy Quốc dân đảng.
Về phía Quốc dân đảng, sau khi chiến tranh kháng Nhật kết thúc, quân đội Tưởng Giới Thạch có trong tay hơn 5,7 triệu quân, đông gấp 6 lần đối phương, thêm vào đó là có nhiều trang bị hiện đại do người Mỹ viện trợ trong Thế chiến. Tưởng Giới Thạch nhanh chóng chuyển quân đến các khu vực mới giải phóng khỏi tay quân Nhật để ngăn chặn Đảng Cộng sản tiếp nhận đầu hàng từ tay quân Nhật. Chỉ trong vòng chưa đầy hai năm sau khi chiến tranh Trung Nhật chấm dứt, Quốc dân đảng đã nhận 4.43 tỷ USD từ Hoa Kỳ, phần lớn trong số đó là viện trợ quân sự. Nhưng chẳng bao lâu sau đó, Hồng quân Trung Quốc phản công. Ngày 30 tháng 6 năm 1947, Hồng quân vượt sông Hoàng Hà và tiến đánh khu vực Đại Biệt Sơn, tái lập vùng giải phóng Trung Nguyên. Tiếp đó, Hồng quân ở khu vực Đông Bắc, Bắc và Đông Trung Quốc cũng bắt đầu phản công. Đạo quân Tân nhất quân, được coi là đạo quân tinh nhuệ nhất của Quốc dân đảng, phải đầu hàng sau khi Hồng quân Trung Hoa tiến hành cuộc bao vây Trường Xuân kéo dài 6 tháng. Trước đó, quân Quốc dân đảng bị bao vây đã tận thu lương thực khiến cho 15 vạn thường dân tại đây chết vì nạn đói. Việc các đơn vị lớn quân Quốc dân đảng bị bắt khiến Hồng quân chiếm được xe tăng, pháo hạng nặng và các khí tài khác cần thiết cho các chiến dịch tấn công phía nam Vạn lý trường thành.
Tới tháng 4 năm 1948, thành phố Lạc Dương thất thủ, khiến quân Quốc dân đảng bị cắt rời khỏi Tây An. Sau một trận kịch chiến, Hồng quân chiếm được Tế Nam và tỉnh Sơn Đông ngày 24 tháng 10 năm 1948. Với chiến dịch Hoài Hải cuối năm 1948, đầu năm 1949, quân Cộng sản chiếm được vùng trung-đông Trung Hoa. Trong chiến dịch này, Hồng quân bị tổn thất nặng khi đánh chiếm Trương Gia Khẩu, Thiên Tân cùng với các cảng và đồn quân tại Dagu và Bắc Kinh.
Thành lập Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, Quốc dân đảng rút chạy ra Đài Loan
[[Mao Trạch Đông tuyên bố thành lập Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, 1949.]] Ngày 1 tháng 10 năm 1949, Mao Trạch Đông tuyên bố thành lập Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, thủ đô là Bắc Bình, nay đổi là Bắc Kinh. Tưởng và khoảng 2 triệu người thuộc phe Quốc dân đảng chạy khỏi Đại lục tới đảo Đài Loan. Tại Đại lục chỉ còn vài ổ kháng cự rời rạc, đáng kể nhất là tại Tứ Xuyên, (cuộc kháng cự này cũng nhanh chóng chấm dứt sau khi Thành Đô thất thủ tháng 12 năm 1949) và ở vùng cực nam Trung Quốc.
Đảng Cộng sản Trung Quốc định đánh chiếm đảo Kim Môn từ tay Quốc dân đảng, nhưng trận Kim Môn diễn ra với thắng lợi thuộc về Quốc dân đảng, chặn đứng đà tiến công của Hồng quân về Đài Loan. Tới tháng 12 năm 1949, Tưởng tuyên bố Đài Bắc, là thủ đô tạm thời, và tiếp tục coi chính quyền của mình là chính phủ hợp pháp duy nhất tại Trung Quốc.
Dù thất bại trong cuộc đổ bộ lên Kim Môn, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa cũng thành công trong chiến dịch đổ bộ lên chiếm đảo Hải Nam tháng 4 năm 1950, quần đảo Vạn Sơn ngoài khơi Quảng Đông (tháng 5-tháng 8 năm 1950) và đảo Chu San ngoài khơi Chiết Giang (tháng 5 năm 1950), nội chiến Quốc-Cộng coi như chấm dứt.
Nguyên nhân thắng lợi của Đảng Cộng sản
Quốc dân đảng bắt đầu cuộc chiến với ưu thế áp đảo toàn diện: Về địa vị và tính chính thống, Quốc dân đảng có biểu tượng Tôn Trung Sơn trong tay, là người được coi là quốc phụ của nước Trung Quốc mới. Tôn Trung Sơn đã lãnh đạo cách mạng Tân Hợi lật đổ triều đình Mãn Thanh, chấm dứt chế độ phong kiến hàng ngàn năm và khai sinh chính thể cộng hòa đầu tiên trong lịch sử Trung Hoa, giảm bớt sự bức hiếp từ các quốc gia phương Tây trong đàm phán và thương lượng (còn Đảng Cộng sản Trung Quốc thì vốn tách ra từ Quốc dân đảng vào năm 1927, đầu thập niên 1930 thì họ vẫn chưa có gì nổi bật giữa hàng chục phe phái đang hỗn chiến ở Trung Quốc khi đó). Trung Hoa Dân Quốc khi ấy cũng là chính phủ duy nhất được cộng đồng quốc tế công nhận (trong khi nhà nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa mãi đến năm 1949 mới được thành lập). Được Liên Xô và Mỹ giúp đỡ và viện trợ hàng tỷ USD để chống Nhật trong Thế chiến 2, cùng với nguồn tài chính dồi dào từ các thế lực tài phiệt và gia tộc tỷ phú hùng mạnh nhiều đời, quân đội Quốc dân đảng chiếm ưu thế lớn về trang bị và hỏa lực so với quân đội của Đảng Cộng sản. Được ủy nhiệm giải giáp quân Nhật, Quốc dân quân cũng chiếm được phần lớn chiến lợi phẩm của Nhật và sau đó còn được Mỹ giao lại phần lớn quân nhu vũ khí của Nhật. *Quân đội Quốc dân đảng với sự góp quân của nhiều lực lượng quân phiệt, là quân đội thường trực đông thứ hai trên thế giới. Sau chiến tranh Trung-Nhật, mặc dù bị tổn thất đáng kể do chống lại các đơn vị thiện chiến của Nhật, tương quan lực lượng vẫn nghiêng rất nhiều về phía Quốc dân đảng. Quân đội Tưởng Giới Thạch vẫn còn trong tay hơn 5,7 triệu quân, đông gấp 6 lần số quân của Đảng Cộng sản. Trong tay họ còn có nhiều trang bị hiện đại của Liên Xô, Mỹ, Nhật từ Thế chiến 2.
- Năm 1945, Quốc dân đảng kiểm soát hầu hết các thành phố và các khu công nghiệp của Trung Quốc, nên có khả năng tuyển quân và sản xuất vũ khí đạn dược vượt xa so với Đảng Cộng sản.
Với các ưu thế áp đảo này, về lý thuyết, Quốc dân đảng sẽ nhanh chóng giành thắng lợi. Nhưng trong thực tế, chiến cuộc càng kéo dài thì tình thế càng chuyển sang có lợi cho phía Đảng Cộng sản Trung Quốc, và cuối cùng thì Quốc dân đảng thất bại. Có nhiều nguyên nhân dẫn tới kết quả này, gồm các nguyên nhân chính như sau:
Chính sách hợp lý của Đảng Cộng sản
Đảng Cộng sản thi hành chính sách cải cách ruộng đất ở vùng nông thôn, những nông dân cùng khổ và không có ruộng đất thấy rằng nếu họ chiến đấu cho Đảng Cộng sản, họ sẽ giành được ruộng đất từ tay giới địa chủ..
Tựu trung lại, nhân tố chủ yếu làm nên thắng lợi của Đảng Cộng sản là khả năng vận động, sự ủng hộ của dân chúng dành cho họ cao hơn hẳn đối thủ. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng đây là nhân tố quan trọng nhất quyết định sự thành bại trong chiến tranh, còn quân đông đất rộng chỉ là nhân tố thứ yếu. Lịch sử Trung Quốc cho thấy "lòng dân" luôn là nhân tố chủ chốt quyết định thành bại: một triều đại mục nát, mất lòng dân thì dù quân đông đất rộng cũng phải sụp đổ và bị thay thế bởi triều đại mới, cuộc chiến này cũng không ngoại lệ.
Sau nội chiến
Khẩu hiệu: "Chủ nghĩa Tam Dân, Thống nhất Trung Quốc" trên [[đảo Đại Đảm, Kim Môn, do Đài Loan quản lý]]
Hầu hết các nhà quan sát đều trông chờ chính quyền của Tưởng Giới Thạch cuối cùng sẽ phải đáp lại một cuộc đổ bộ của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa vào Đài Loan và Hoa Kỳ vào lúc ban đầu cho thấy không có lợi ích nào trong việc hỗ trợ chính phủ Tưởng Giới Thạch vào giai đoạn cuối của cuộc chiến. Về sau đã thay đổi hoàn toàn với sự khởi đầu của cuộc Chiến tranh Triều Tiên vào tháng 6 năm 1950. Tại thời điểm này, việc đảng Cộng sản giành được toàn bộ chiến thắng đã trở thành một chính sách chính trị không thể nào lật ngược của Hoa Kỳ, và Tổng thống Hoa Kỳ Harry S. Truman ra lệnh Hạm đội 7 tiến vào eo biển Đài Loan để ngăn chặn việc hai bên tấn công lẫn nhau.
Tháng 6 năm 1949, Trung Hoa Dân Quốc tuyên bố "đóng cửa" tất cả các hải cảng tại Trung Quốc đại lục và sử dụng lực lượng hải quân để cố gắng ngăn chặn tất cả các tàu thuyền nước ngoài ra vào. Việc đóng các chỗ yểm trợ từ một điểm phía bắc cửa sông Dân ở tỉnh Phúc Kiến tới cửa sông Liêu ở Mãn Châu. Toàn bộ hệ thống đường sắt của Trung Quốc đại lục tỏ ra kém phát triển, giao thương Bắc-Nam phụ thuộc rất nhiều vào đường biển. Hoạt động hải quân Trung Hoa Dân Quốc cũng gây khó khăn nghiêm trọng cho ngư dân Trung Quốc đại lục.
Sau khi Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa thành lập, một nhóm quân đội gồm khoảng 12.000 binh lính Quốc dân Đảng chạy sang Miến Điện và tiếp tục phát động các cuộc tấn công du kích vào miền nam Trung Quốc trong sự kiện Cuộc nổi dậy của người Hồi giáo thuộc Quốc Dân Đảng tại Trung Quốc (1950-1958). Lãnh đạo của họ, tướng Lý Mi, được trả lương bởi chính phủ Trung Hoa Dân Quốc và được phong tặng danh hiệu Thống đốc Vân Nam. Ban đầu, Hoa Kỳ hỗ trợ các nhóm tàn quân và Cơ quan Tình báo Trung ương (CIA) cung cấp viện trợ cho họ. Sau khi chính phủ Miến Điện kêu gọi Liên Hợp Quốc vào năm 1953, Mỹ bắt đầu gây sức ép với Trung Hoa Dân Quốc rút hết quân ra khỏi Miến Điện. Đến cuối năm 1954, gần 6.000 binh lính đã rời khỏi Miến Điện và Lý Mi tuyên bố giải tán quân đội của ông. Tuy nhiên, vẫn còn hàng ngàn nhóm khác vẫn tiếp tục ở lại, và Trung Hoa Dân Quốc tiếp tục tiếp tế và chỉ huy họ, thậm chí bí mật cung cấp tiếp viện quân sự vào thời gian này.
Sau khi Trung Hoa Dân Quốc than phiền với Liên Hợp Quốc chống lại việc Liên Xô ủng hộ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, Đại hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua Nghị quyết 505 được ban hành vào ngày 1 tháng 2 năm 1952 để lên án Liên Xô về việc này.
Mặc dù xem đó là một trách nhiệm quân sự của Hoa Kỳ, Trung Hoa Dân Quốc coi Đài Loan tại tỉnh Phúc Kiến là một căn cứ quan trọng đối với bất kỳ chiến dịch nào trong tương lai để đánh bại Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và tái chiếm Trung Quốc đại lục. Ngày 3 tháng 9 năm 1954, Cuộc khủng hoảng eo biển Đài Loan lần thứ nhất bắt đầu xảy ra khi Giải phóng quân Trung Quốc chuẩn bị tiến hành việc pháo kích Kim Môn và đe dọa đánh chiếm Quần đảo Đại Đông.
Kể từ khi cuộc bầu cử của Tổng thống Mã Anh Cửu (KMT) vào năm 2008, mối quan hệ nóng dần lên đã được nối lại giữa Đài Bắc và Bắc Kinh thông qua việc trao đổi cấp cao giữa các đảng cầm quyền của cả hai nước như chuyến viếng thăm Phiến Lam năm 2005 hoặc hội nghị thượng đỉnh Trần-Giang nhưng từ năm 2016 cho đến nay thì quan hệ 2 bên lại căng thẳng khi Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan) luôn cự tuyệt thống nhất với chính quyền Trung Quốc tại đại lục.
Tướng lĩnh
Quốc dân đảng Trung Quốc
Tưởng Giới Thạch (蔣介石) Trần Thành (陳誠) Phó Tác Nghĩa (傅作義) Lý Tông Nhân (李宗仁) Lưu Văn Huy (劉文輝) Tôn Lập Nhân (孫立人) Trần Thiệu Khoan (陳紹寬) Đỗ Duật Minh (杜聿明) Bạch Sùng Hy (白崇禧) Ngô Quốc Trinh (吳國楨)
Đảng Cộng sản Trung Quốc
Mao Trạch Đông (毛澤東) Chu Đức (朱德) Chu Ân Lai (周恩來) Hạ Long (賀龍) Hứa Thế Hữu (許世有) Dương Dũng (杨勇) Hoàng Khắc Thành (黃克誠) Lâm Bưu (林彪) Lưu Mông (劉夢) Lưu Nịch Quần (劉溺群) Lưu Bá Thừa (劉伯承) Bành Đức Hoài (彭德懷) Trần Nghị (陳毅) Trần Đan Hoài (陳丹淮) La Vinh Hoàn (羅榮桓) Từ Hướng Tiền (徐向前) Nhiếp Vinh Trăn (聶榮臻) Diệp Kiếm Anh (葉劍英) Thái Tình Xuyên (蔡晴川) Lưỡng quốc tướng quân Nguyễn Sơn (阮山-洪水)
Quân phiệt
Trương Tác Lâm (張作霖), thống trị vùng Đông Bắc Trung Quốc, bị người Nhật ám sát chết trong Sự biến Tế Nam, con là Trương Học Lương lên nắm quyền. Trương Học Lương (張學良), con của Trương Tác Lâm, trong sự kiện Sự biến Tây An, ông cùng tướng Dương Hổ Thành đã buộc Tưởng Giới Thạch phải chấm dứt cuộc chiến chống Cộng và ký kết liên minh với họ để chống lại người Nhật. Về sau bị Tưởng giam giữ cho tới năm 1989. Phùng Ngọc Tường (馮玉祥), quân phiệt thống trị miền Bắc Trung Quốc từ sau khi nhà Thanh sụp đổ, tuyên chiến với Quốc dân đảng vào năm 1930 trong cuộc Đại chiến Trung Nguyên, bị thất bại và quy phục Tưởng Giới Thạch. Là người đứng ra tổ chức Quân kháng Nhật người Sát Cáp Nhĩ hợp tác với Đảng Cộng sản Bắc Trung Quốc rồi sau chống lại họ vào năm 1945, từng sang viếng thăm Liên Xô. Diêm Tích Sơn (閻錫山) là quân phiệt cai trị tỉnh Sơn Tây cho tới năm 1948. Tập đoàn họ Mã là một gia tộc quân phiệt lớn cai trị các tỉnh bao gồm Thanh Hải, Cam Túc, và Ninh Hạ từ năm 1910 cho tới 1949. Trần Tế Đường (陳濟棠) là quân phiệt kiểm soát tỉnh Quảng Đông, nơi ông có những đóng góp đáng kể cho sự nghiệp hiện đại hóa và giáo dục. Về sau, trở thành quan chức Chính phủ Quốc dân của Tưởng Giới Thạch và kết thúc cuộc đời của mình trong vai trò là "Cố vấn chiến lược của Tổng thống" tại Đài Loan, nơi ông qua đời vào năm 1954.
Danh sách vũ khí
Súng lục Mauser C96, Dân quốc, Quân phiệt, Cộng sản Browning Hi-Power, Dân quốc, Cộng sản Luger P08, Dân quốc Nambu Type 14, Dân quốc, Cộng sản Type 26, Dân quốc, Cộng sản Nambu Type 94, Dân quốc, Cộng sản Nagant M1895, Cộng sản Tokarev TT-33, Cộng sản *Colt M1911/A1, Dân quốc
Súng trường Súng trường kiểu 24, Dân quốc, Quân phiệt, Cộng sản Súng trường ZH-29, Dân quốc Hanyang Type 88, Dân quốc, Quân phiệt, Cộng sản Mauser Gewehr 98, Dân quốc, Quân phiệt, Cộng sản Mauser Karabiner 98 kurz, Dân quốc vz. 24, Dân quốc, Cộng sản Súng trường kiểu 38, Dân quốc, Cộng sản Súng trường kiểu 2, Dân quốc, Cộng sản Súng trường Kỵ binh kiểu 38, Dân quốc, Cộng sản Súng trường kiểu 99, Dân quốc, Cộng sản Súng trường Bắn tỉa kiểu 97, Dân quốc, Cộng sản Súng trường Kỵ binh kiểu 44, Dân quốc, Cộng sản Mosin-Nagant M1891/30, M1938, M1944, Cộng sản Tokarev SVT-38, SVT-40, Cộng sản M1 Garand, Dân quốc M1 Carbine, Dân quốc M1903 Springfield, Dân quốc Súng trường Johnson M1941, Dân quốc Súng trường Enfield M1917, Dân quốc Mondragón F-08, Dân quốc, Cộng sản *Lee-Enfield SMLE Rifle No.4 Mk.1, Dân quốc
Súng tiểu liên MP18, Dân quốc, Quân phiệt, Cộng sản SIG MKMS, Quân phiệt Thompson M1928, M1928A1, M1, M1A1, Dân quốc PPSh-41, Cộng sản PPS-43, Cộng sản Súng tiểu liên M3/A1 (U.S Lend Lease), Dân quốc, Cộng sản Súng tiểu liên Reising M50 (U.S Lend Lease), Dân quốc Sten, Dân quốc, Cộng sản *Shiki 100, Dân quốc, Cộng sản
Súng máy ZB vz.26, Dân quốc, Quân phiệt, Cộng sản Súng máy Madsen (Multi-caliber), Quân phiệt, Dân quốc, Cộng sản MG 34, Dân quốc, Quân phiệt, Cộng sản Súng máy hạng nhẹ kiểu 11, Dân quốc, Cộng sản Súng máy hạng nhẹ kiểu 96, Dân quốc, Cộng sản Súng máy hạng nhẹ kiểu 97, Dân quốc, Cộng sản Súng máy hạng nhẹ kiểu 99, Dân quốc, Cộng sản Súng trường tự động Browning M1918 (U.S Lend Lease), Dân quốc Súng máy hạng nhẹ Bren, Dân quốc Lahti-Saloranta M/26, Dân quốc Degtyarov DP, Cộng sản Súng máy hạng trung Browning M1919 (U.S Lend Lease), Dân quốc
Súng máy hạng nặng Súng máy hạng nặng Trung Quốc kiểu 24, Dân quốc, Quân phiệt, Cộng sản MG08, Dân quốc, Quân phiệt, Cộng sản Súng máy hạng nặng Browning M1917A1, Dân quốc Súng máy hạng nặng Browning M2, Dân quốc Súng máy hạng nặng kiểu 92, Dân quốc, Cộng sản Súng máy hạng nặng kiểu 1, Dân quốc, Cộng sản Súng máy hạng nặng kiểu 3, Dân quốc, Cộng sản Súng máy hạng nặng DShK 1938, Cộng sản Súng máy Maxim PM1910, Cộng sản SG-43 Goryunov, Cộng sản
Vũ khí chống tăng Pak 36, Dân quốc, Cộng sản Súng trường chống Tăng có chốt trượt PTRD-41, Cộng sản Súng trường chống Tăng bán tự động PTRS-41, Cộng sản Súng phóng tên lửa, M1/A1 "Bazooka", Dân quốc ZiS-2, Cộng sản ZiS-3, Cộng sản
Lựu đạn Lựu đạn kiểu 24, Cộng sản, Quân phiệt, Dân quốc Lựu đạn mảnh F1, Cộng sản Lựu đạn mảnh RGD-33, Cộng sản Lựu đạn mảnh Mk.2 (U.S Lend Lease), Dân quốc
Số khác *Đao, Dân quốc, Cộng sản Pháo binh
Xe tăng và xe thiết giáp
Danh sách các trận đánh trong cuộc nội chiến
Giai đoạn 1945-1949
1945
Chiến dịch Gia Đài Sơn (21 tháng 7–8 tháng 8 năm 1945) Chiến dịch Tô Nam (13–19 tháng 8 năm 1945) Phản công phía đông Hồ Bắc (13–16 tháng 8 năm 1945) Trận Bảo Ưng (15–23 tháng 8 năm 1945) Trận Ung Gia Trấn (16–19 tháng 8 năm 1945) Trận Thiên Môn (17–27 tháng 8 năm 1945) Chiến dịch Bình Dư (17–25 tháng 8 năm 1945) Chiến dịch Lâm Nghi (17 tháng 8–11 tháng 9 năm 1945) Trận Ngũ Đại Đạo (21–28 tháng 8 năm 1945) Trận Ngũ Hà (24 tháng 8 năm 1945) Trận Doãn Tập (26–27 tháng 8 năm 1945) Chiến dịch Lưỡng Hoài (26 tháng 8–22 tháng 9 năm 1945) Chiến dịch Hưng Hóa (29 tháng 8–1 tháng 9 năm 1945) Trận Đại Trung Tập (1–13 tháng 9 năm 1945) Trận Linh Bích (4–5 tháng 9 năm 1945) Chiến dịch Chư Thành (5–8 tháng 9 năm 1945) Chiến dịch Thương Hà (5–22 tháng 9 năm 1945) Trận Ly Thạch (6–9 tháng 9 năm 1945) Chiến dịch Bình Độ (7–10 tháng 9 năm 1945) Chiến dịch Thái Hưng (8–12 tháng 9 năm 1945) Chiến dịch Thượng Đảng (10 tháng 9–12 tháng 10 năm 1945) Chiến dịch Vô Lệ (13–17 tháng 9 năm 1945) Trận Hướng Thủy Khẩu (18 tháng 9 năm 1945) Trận Như Cao (21 tháng 9 năm 1945) Chiến dịch Úy Quảng Noãn (29 tháng 9–2 tháng 11 năm 1945) Trận Thời Thôn (Tháng 10, 1945) Chiến dịch Diêm Thành (3–10 tháng 10 năm 1945) Chiến dịch Đồng Bách (17 tháng 10–14 tháng 12 năm 1945) Trận Hậu Mã Gia (18 tháng 10 năm 1945) Chiến dịch Hàm Đan (22 tháng 10–2 tháng 11 năm 1945) Trận Sơn Hải Quan (25 tháng 10–16 tháng 11 năm 1945) Chiến dịch dọc theo đường sắt Đại Đồng, Bồ Châu (26–30 tháng 10 năm 1945) Chiến dịch tiểu trừ giặc cướp ở Đông Bắc Trung Quốc (Tháng 11, 1945–Tháng 4, 1947) Trận Hách Chiết (3–4 tháng 11 năm 1945) Trận Thiệu Bá (19–21 tháng 12 năm 1945) Chiến dịch Cao Bưu, Thiệu Bá (19–26 tháng 12 năm 1945) *Trận Đường Đầu Quách Thôn (21–30 tháng 12 năm 1945)
1946
Chiến dịch Hầu Mã (19–26 tháng 1 năm 1946) Trận Tứ Bình (15–17 tháng 3 năm 1946) Chiến dịch Đồn Kim Gia (10–15 tháng 4 năm 1946) Chiến dịch phòng thủ Tứ Bình (17–19 tháng 4 năm 1946) Chiến dịch đột phá vòng vây Trung Nguyên (22 tháng 6–31 tháng 8 năm 1946) Chiến dịch phía nam đoạn đường sắt Đại Đồng, Bồ Châu (12 tháng 6–1 tháng 9 năm 1946) Chiến dịch Đại Đồng, Tập Ninh (31 tháng 7–16 tháng 9 năm 1946) Chiến dịch Long Hải (10–22 tháng 8 năm 1946) Chiến dịch Đại Đồng, Bồ Châu (14 tháng 8–1 tháng 9 năm 1946) Trận Lưỡng Hoài (21 tháng 8–22 tháng 9 năm 1946) Trận Như Cao, Hoàng Kiều (25 tháng 8 năm 1946) Chiến dịch Định Đào (2–8 tháng 9 năm 1946) Chiến dịch Lâm Phần, Phù Sơn (22–24 tháng 9 năm 1946) Trận Trương Gia Khẩu (10–20 tháng 10 năm 1946) Trận Nam Lạc–Bắc Lạc (10–11 tháng 11 năm 1946) Chiến dịch Lữ Lương (22 tháng 11 năm 1946–1 tháng 1 năm 1947) Chiến dịch Lâm Giang (17 tháng 12 năm 1946–1 tháng 4 năm 1947) Trận Quan Trung (31 tháng 12 năm 1946–30 tháng 1 năm 1947) *Sự kiện Bắc Tháp Sơn
1947
Chiến dịch Nam Bảo Định (21–28 tháng 1 năm 1947) Trận Nương Tử Quan (24–25 tháng 4 năm 1947) Trận Đường Nhị Lý (27–28 tháng 4 năm 1947) Chiến dịch Mạnh Lương Cố (13–16 tháng 5 năm 1947) Thế tấn công mùa hè năm 1947 vùng Đông Bắc Trung Quốc (13 tháng 5–1 tháng 7 năm 1947) Chiến dịch Hợp Thủy (28–31 tháng 5 năm 1947) Chiến dịch Tứ Bình (11 tháng 6 năm 1947–13 tháng 3 năm 1948) Chiến dịch Bắc Bảo Định (26 tháng 6–6 tháng 7 năm 1947) Chiến dịch Nam Ma, Lâm Cù (17–29 tháng 7 năm 1947) Chiến dịch đỉnh núi Tử Ngọ (13–18 tháng 8 năm 1947) Chiến dịch Bắc Đại Thanh Hà (2–12 tháng 9 năm 1947) Thế tấn công mùa thu năm 1947 vùng Đông Bắc Trung Quốc (14 tháng 9–5 tháng 11 năm 1947) Chiến dịch Tát Tha Sơn (2–10 tháng 10 năm 1947) Chiến dịch phía đông chân núi Phục Ngưu Sơn (29 tháng 10–25 tháng 11 năm 1947) Thế tấn công mùa đông năm 1947 vùng Đông Bắc Trung Quốc (15 tháng 12 năm 1947–15 tháng 3 năm 1948) Trận đỉnh núi Phượng Hoàng (7–9 tháng 12 năm 1947) Chiến dịch phía tây Thái An (9 tháng 12 năm 1947–15 tháng 6 năm 1948) Chiến dịch phản công–diệt trừ tại Đại Biệt Sơn (11 tháng 12 năm 1947–Tháng 1, 1948) *Chiến dịch Kinh Sơn, Chung Tường (20 tháng 12 năm 1947–Tháng 6, 1948)
1948
Chiến dịch Đồn Công Chúa (2–7 tháng 1 năm 1948) Chiến dịch Lâm Phần (7 tháng 3–18 tháng 5 năm 1948) Chiến dịch Chu Thôn, Trương Điếm (11–21 tháng 3 năm 1948) Chiến dịch Hà Bắc, Nhiệt Hà, Sát Cáp Nhĩ (12 tháng 5–25 tháng 6 năm 1948) Trận vây hãm Trường Xuân (23 tháng 5–19 tháng 10 năm 1948) Chiến dịch Duyện Châu (29 tháng 5–18 tháng 7 năm 1948) Trận Thượng Sái (17–19 tháng 6 năm 1948) Chiến dịch Liêu Thẩm (12 tháng 9–12 tháng 11 năm 1948) Chiến dịch Thái Nguyên (5 tháng 10 năm 1948–24 tháng 4 năm 1949) Trận Cẩm Châu (7–15 tháng 10 năm 1948) Trận tranh đoạt Tháp Sơn (10–15 tháng 10 năm 1948) Chiến dịch Hoài Hải (6 tháng 11 năm 1948–10 tháng 1 năm 1949) Trận Cửu Liên Sơn (15 tháng 11 năm 1948–11 tháng 1 năm 1949) Chiến dịch Song Đôi Tập (22 tháng 11 năm 1948–15 tháng 12 năm 1949) Chiến dịch Bình Tân (29 tháng 11 năm 1948–31 tháng 1 năm 1949) Sự kiện Bắc Tháp Sơn
1949
Chiến dịch Thiên Tân (3–15 tháng 1 năm 1949) Chiến dịch tiễu trừ giặc cướp tại miền Bắc Trung Quốc (Tháng 4, 1949–Tháng 6, 1950) Chiến dịch tiễu trừ giặc cướp tại miền Trung và Nam Trung Quốc (Tháng 4, 1949–Tháng 6, 1953) Chiến dịch Thập Vạn Đại Sơn (tháng 6, 1949 – tháng 10, 1949) Chiến dịch Thượng Hải (12 tháng 5–2 tháng 6 năm 1949) Chiến dịch Hàm Dương (17 tháng 5–16 tháng 6 năm 1949) Chiến dịch Lan Châu (9–27 tháng 8 năm 1949) Chiến dịch tiễu trừ giặc cướp tại miền Đông Trung Quốc (9 tháng 8 năm 1949–Tháng 12, 1953) Chiến dịch tiễu trừ giặc cướp tại Phúc Kiến (24 tháng 8 năm 1949–Tháng 9, 1951) Chiến dịch Ninh Hạ (5–24 tháng 9 năm 1949) Chiến dịch tiễu trừ giặc cướp tại Đại Biệt Sơn (5 tháng 9 năm 1949–Tháng 3, 1950) Trận Cổ Ninh Đầu (25–27 tháng 10 năm 1949) Chiến dịch tiễu trừ giặc cướp tại vùng Tây Bắc Trung Quốc (Tháng 11, 1949–Tháng 7, 1953) Chiến dịch phía bắc huyện Nam Xuyên (1–28 tháng 11 năm 1949) Trận đảo Đăng Bộ (3–5 tháng 11 năm 1949) Chiến dịch Bác Bạch (17 tháng 11–1 tháng 12 năm 1949) Chiến dịch tiễu trừ giặc cướp tại Liên Dương (3–26 tháng 12 năm 1949) Trận Lương Gia Tuệ (6–7 tháng 12 năm 1949) Trận Liên Dương (7–14 tháng 12 năm 1949) Trận Kiếm Môn Quan (17–18 tháng 12 năm 1949)
Giai đoạn sau 1949
1950
Chiến dịch tiễu trừ giặc cướp tại Vũ Bình (Tháng 1, 1950–Tháng 6, 1955) Chiến dịch tiễu trừ giặc cướp tại Quảng Tây (15 tháng 1 năm 1950–Tháng 5, 1951) Trận Bát Diện Sơn (19–31 tháng 1 năm 1950) Chiến dịch tiễu trừ giặc cướp tại vùng Tây Nam Trung Quốc (Tháng 2, 1950–Tháng 12, 1953) Chiến dịch tiễu trừ giặc cướp tại Long Tuyền (4 tháng 2 năm 1950–Tháng 12, 1950) Trận Thiên Tuyền (14–20 tháng 2 năm 1950) Trận đảo Nam Áo (3 tháng 3 năm 1950) Chiến dịch đổ bộ đảo Hải Nam (5 tháng 3–1 tháng 5 năm 1950) Trận Y Ngô (29 tháng 3–7 tháng 5 năm 1950) Chiến dịch đảo Đông Sơn (11 tháng 5 năm 1950) Chiến dịch quần đảo Vạn Sơn (25 tháng 5–7 tháng 8 năm 1950) Trận đảo Nam Bằng (9 tháng 8 năm 1950) Chiến dịch tiễu trừ giặc cướp tại Bắc Quảng Đông (Tháng 9, 1950–Tháng 1, 1951) Chiến dịch tiễu trừ giặc cướp tại Đông Bắc Kiềm Châu (22 Tháng 9–29 tháng 11 năm 1950) Chiến dịch tiễu trừ giặc cướp tại biên giới các tỉnh Hồ Nam, Hồ Bắc, Tứ Xuyên (Tháng 2, 1950–Tháng 12, 1953) Chiến dịch tiễu trừ giặc cướp tại phía Tây Hồ Nam (15 tháng 10–Tháng 11, 1950) Chiến dịch tiễu trừ giặc cướp tại Thập Vạn Đại Sơn (13 tháng 12 năm 1950–Tháng 2, 1951) Chiến dịch tiễu trừ giặc cướp tại Lục Vạn Đại Sơn (20 tháng 12 năm 1950–Tháng 2, 1951)
1951
Chiến dịch tiễu trừ giặc cướp tại Nghiêu Sơn (8 tháng 1–Tháng 2, 1951) Chiến dịch tiễu trừ giặc cướp ở phía tây Quảng Tây (15 tháng 4–Tháng 9, 1951)
1952
Chiến dịch đảo Nam Nhật (11–15 tháng 4 năm 1952) Chiến dịch tiễu trừ giặc cướp tại Hắc Thủy (13 tháng 6–20 tháng 9 năm 1952) *Chiến dịch quần đảo Nam Bành (20 tháng 9–20 tháng 10 năm 1952)
1953
Trận đảo Đại Lộc Sơn (29 tháng 5 năm 1953) Chiến dịch đảo Đông Sơn (16–18 tháng 7 năm 1953)
1954
*Khủng hoảng eo biển Đài Loan lần 1(3/9/1954-1/5/1955)
1955
Chiến dịch đảo Nhất Giang Sơn (18 tháng 1 năm 1955–20 tháng 1 năm 1955) Chiến dịch quần đảo Đại Đông (19 tháng 1 năm 1955–26 tháng 2 năm 1955)
1960
*Chiến dịch biên giới Trung Quốc–Miến Điện (14 tháng 11 năm 1960–9 tháng 2 năm 1961)
1950–1958
Cuộc nổi loạn của người Hồi giáo Quốc dân đảng tại Trung Quốc (1950-1958) Khủng hoảng eo biển Đài Loan lần 2(23/8/1958-22/9/1958)
1995-1996
*Khủng hoảng eo biển Đài Loan lần 3(21/7/1995-23/3/1996)
|300x300px]]**Người Trung Quốc** là những cá nhân hoặc nhóm dân tộc khác nhau